Thứ Hai, 19 tháng 9, 2016

* Kinh Thi Việt Nam - Nguyễn Lý Tưởng


Kinh thi Viet Nam
(Phát biểu của GS Nguyễn Lý-Tưởng tnhân Đại Hội Thơ tổ chức ngày 16, 17, 18/8/2016 tại TP Garden Grove, California, Hoa Kỳ)
Kính thưa quý văn, thi hữu,
Kính thưa quý vị quan khách,
Thơ là hình thức ngôn ngữ diễn tả tình cảm của con người một cách vắn gọn, dễ nghe, dễ nhớ, dễ gây xúc động, và dễ đi vào lòng người. Tất nhiên, người làm thơ, yêu thơ thường là con người giàu tình cảm, một con người lãng mạn, cũng có khi là người thương vay khóc mướn, mượn chuyện kẻ khác để gởi gắm tâm sự của mình. Tình cảm đó, có khi bi lụy khiến cho người thưởng thức phải sa nước mắt, phải thổn thức đau khổ, than vắn thở dài. Có người cho rằng, Thơ mà không có chút lãng mạn thì thơ không hay, không rung động lòng người.
Cách nay hơn 2500 năm, vào thời Xuân Thu Chiến Quốc bên Trung Hoa, Khổng Tử là người đã đi qua 15 nước chư hầu thời nhà Chu, đặc biệt là nước Lỗ quê hương của ông, và đã sưu tầm được hơn 300 bài thơ ngắn từ chốn triều đình đến khắp trong dân gian và gom góp lại thành một tập tơ gọi là “Thi tam bách”. Về sau học trò của ông vì kính trọng bậc “vạn thế sư biểu” nên đã gọi những tác phẩm do ông làm ra là “kinh”. Tập thơ 300 bài (hay 300 câu) đó được gọi là Thi Kinh (người Việt Nam chúng ta thường nói là Kinh Thi).
Khi phát biểu về sự quan trọng của Thơ, Thầy Khổng nói rằng: “Bất học Thi vô dĩ ngôn; bất học Lễ vô dĩ lập” (Không học Thơ thì không biết lấy lời gì để nói; không học Lễ thì không biết lấy gì để hội nhập với cuộc sống ngoài xã hội...Lễ ở đây là lễ nghi, phép tắc...). Ông còn nói:“Thi khả dĩ tụng, khả dĩ ngâm, khả dĩ động” (Thơ có thể đọc, có thể ngâm, có thể khoa tay múa chân).
Vì thế người ta thưởng thức Thơ dưới nhiều hình thức, bằng nhiều cách khác nhau, nghĩa là có nhiều cách diễn tả khác nhau. Thông thường, khán thính giả thích nghe các nghệ sĩ ngâm thơ, cũng có nhiều bài thơ được phổ nhạc để cho ca sĩ hát lên cho mọi người thưởng thức. Vì thế, Thơ và Nhạc thường đi đôi với nhau.
Trong sách Luận Ngữ có ghi lại cảm tưởng của Khổng Tử khi nghe đọc Thơ (Thơ đây là 300 bài trong Kinh Thi mà ông đã sưu tầm) nguyên văn như sau: “Thi vân như thiết như tha, như trác như ma” (Khi đọc Thơ, tôi cảm thấy như bị cắt da cắt thịt, như bị mài bị dũa...) nghĩa là lời thơ, ý thơ đã làm cho Khổng Tử đau đớn tận da thịt, thấm thía tận tâm hồn, xúc động, buồn sầu theo ý thơ...Một bậc thánh nhân như Khổng Tử, khi đọc thơ còn xúc động, quằn quại đến như vậy, huống chi những con người tầm thường với tâm hồn đơn sơ chất phác xuất thân từ giới bình dân?
 Như chúng tôi đã nói: “Thơ và Nhạc thường đi đôi với nhau” trong thơ có nhạc và trong nhạc có thơ...Chính vì thế mà thi sĩ Nguyễn Du khi diễn tả Kim Trọng ngồi nghe Kiều đánh đàn, đã viết:
Khi tựa gối, khi cúi đầu,
Khi sầu chín khúc, khi chau đôi mày.
Rằng hay thì thật là hay,
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào?”
Khổng Tử khuyên học trò, khi đọc thơ không được nghĩ đến điều xấu, điều sai trái, không được tưởng tượng ra hình ảnh xấu, hình ảnh tục, hình ảnh dâm ô trụy lạc: “Tư vô tà”.
Người yêu thơ, yêu văn chương, phải là người đạo đức, thanh cao. Vì thế, người nho sĩ, người học trò ngày xưa thường trân quý 4 vật là “Thư, Kiếm , Lư, Đăng”.
-Thư: là sách của Thánh Hiền;
-Kiếm: tượng trưng cho quyền lãnh đạo, quyền chỉ huy, người chính danh quân tử dùng kiếm để trượng nghĩa, trừ gian, an bang tế thế;
-Lư: cái lò để đốt trầm, nghe mùi trầm, mùi khói hương để nâng tâm hồn mình lên cao (trong tôn giáo, khi cử hành nghi lễ người ta thường đốt lò hương trầm)
-Đăng là cây đèn, đốt lên để đọc sách, để học...
Ba trăm bài thơ trong Kinh Thi do Khổng Tử sưu tầm gồm nhiều thể loại, mỗi loại mang một nội dung khác nhau và về hình thức cũng khác nhau. Đó là Phong, Nhã, Tụng.
-Phong cũng gọi là Quốc Phong, loại thơ diễn tả phong tục của người dân, đặc biệt là nước Lỗ, quê hương của Khổng Tử.
-Nhã (gồm Đại Nhã là thơ phát xuất từ giới quý tộc, triều đình;và Tiểu Nhã là thơ phát xuất từ quần chúng, dân gian, giới bình dân, diễn tả tình cảm, tình yêu của con người.)
-Tụng là Thơ đọc lên trong những dịp tế lễ của triều đình (nhưng về sau dân gian cũng bắt chước mà làm theo trong các dịp tế lễ tại địa phương).
Kính thưa quý vị nhân sĩ, trí thức, quý văn, thi hữu, quý vị quan khách,
Trên đây tôi vừa nhắc đến một cách khái quát về Kinh Thi tức là thi văn được lưu truyền từ hơn 2500 năm trước, tại Trung Hoa do Khổng Tử sưu tầm và ghi chép lại. Khi còn là sinh viên tại Viện Hán Học Huế, chúng tôi có hỏi các vị giáo sư:
-“Thưa sư phụ, Trung Hoa đã có Kinh Thi từ hơn 2500 năm trước, vậy Việt Nam chúng ta, sử sách cũng có ghi “Đại Việt của chúng ta là nước đã có văn hiến từ lâu” (Như ngã Đại Việt chi quốc, thực vi văn hiến chi bang)
là lời Nguyễn Trãi viết thay cho vua Lê Thái Tổ trong bài “Bình Ngô đại cáo” (1428)?
Sư phụ của chúng tôi là Giáo sư Sảng Đình Nguyễn Hy Thích, nói:
-“Việt Nam chúng ta cũng có Kinh Thi Việt Nam” và ngài đọc liền 300 câu thơ vần nối vần:
“Non cao ai đắp nên cao,
Sông sâu ai bới ai đào mà sâu.
Chiều chiều ông Ngự ra câu,
Cái ve cái chén, cái bầu sau lưng.
Đố ai quét sạch là rừng,
Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây.
Vì ai nên nỗi sầu này,
Chùa tiên vắng vẻ, tớ thầy xa nhau.
Chiều chiều ra đứng ngỏ sau,
Trông về quê mẹ, ruột đau chín chìu.
Mẹ gà con vịt chit chiu,
Mấy đời dĩ ghẽ nâng nui con chồng.
Con mèo, con chó có lông,
Cây tre có mắt, nồi đồng có quai.
Hết gạo thì có Đồng Nai,
Hết củi thì có Tân Sài chở vô.
Dù xây chin bậc phù đồ,
Không bằng làm phúc cứu cho một người.
Lâm râm khấn vài Phật, Trời,
Xin cho cha mẹ sống đời nuôi con.
Kiến leo cột sắt sao mòn,
Tò vò xây tổ sao tròn mà xây.
Đố ai biết lúa mấy cây,
Biết sông mấy khúc, biết mây mấy tầng...”
(Dài quá không có thì giờ đọc hết 300 câu nên tôi xin ngưng trích...)
Cụ Phó Bảng Nguyễn Mại là thân phụ của Linh Mục Giáo Sư Sảng Đình Nguyễn Hy Thích có để lại một tập sưu tầm có tên “Cổ Việt phong dao” với nội dung như trên.
Kính thưa quý vị,
Kinh Thi Việt Nam khác với Kinh Thi Trung Hoa:
-Người ta biết được Kinh Thi Trung Hoa đã có trên 2500 năm nghĩa là từ thời Khổng Tử trở về trước.
- Kinh Thi Việt Nam có từ thời nào thì không ai biết được: một trăm năm, hai trăm năm, một ngàn năm, hai ngàn năm,v.v....
-và cũng như Khinh Thi Trung Hoa, không biết tác giả là ai? Có người nói rằng bài Quan Thư trong Kinh Thi là của Bà Hậu Tắc, vợ của Văn Vương nhà Chu, vua đi đánh giặc, bà ở nhà nghe tiếng chim kêu nên nhớ vua mà làm ra bài thơ này.
 “Quan quan thư cưu,
Tại Hà chi châu,
Yểu diệu thục nữ,
Quân tử hảo cầu...”
(Quan quan trên bãi sông Hà,
Gái hiền yểu điệu, một nhà sánh đôi...)
(Tản Đà dịch)
Quan là chim trống, Thư là chim mái...thường đi chung một cặp, kiếm ăn trên bãi sông Hoàng hà...Thấy đôi chim kia sánh đôi như vậy, tác giả nhớ đến người yêu xa cách...hay là bậc cha mẹ thấy con gái mình đã lớn, đã trở thành một gái hiền yểu điệu rồi...cũng mong có người quân tử đến cầu hôn (quân tử cũng có nghĩa là chồng)
Về thể loại, ca dao hay Kinh Thi Việt Nam theo thể thơ lục bát là thể thơ độc đáo của người Việt Nam. Trong thơ chữ Hán, không có thể thơ lục bát này...Thông thường thể thơ trong Kinh Thi của người Trung Hoa là loại thơ 4 chữ và có khi thêm chữ “hề” như là nhịp điệu, ngừng lại một chút rồi đọc tiếp hay hát tiếp.
Về nội dung thì ca dao rất phong phú, dồi dào tình cảm, tâm hồn rộng mở, hòa mình với phong cảnh thiên nhiên...ca dao là một bức tranh, là lời tỏ tình, là so sánh, ví con, tình yêu quê hương đất nước, tình nghĩa vợ chồng, tình bè bạn, tình cha mẹ với con cái, lòng hiếu thảo...lời mẹ hát bên nôi khi chúng ta mới chào đời . Ca dao là linh hồn của dân tộc chúng ta, dù xa quê hương, khi nghe lời ca dao, không ai mà không nhớ về quê hương, đất nước đồng bào, nơi chôn nhau cắt rốn, nguồn gốc dòng họ, tổ tiên.
Ca dao (chúng tôi gọi là Kinh Thi Viêt Nam) được mọi người yêu thích, đọc hay ngâm, có khi hát lên cũng được. Có nhiều giai điệu khác nhau: như ngâm sa mạc, hát quan họ, ngâm theo gọng Huế, giọng Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, ngâm sa mạc, ngâm hay hát ca dao theo giọng Nam...
Ví dụ (ngâm theo lối Huế)
 Nhất cao là núi Tản Viên,
Thanh nhàn vô sự là tiên trên đời.
(Chúng ta có thể tưởng tượng một nhà thơ, tay cầm bầu rượu vừa hát vừa múa...)
Ngâm hay hát theo điệu quan họ Bắc Ninh...đều là những giai điệu mê hoặc lòng người...
Từ xưa đến nay, người Việt yêu Kinh Thi Việt, đó là lời ca dao mẹ hát bên nôi. Mỗi khi nhớ đến cha mẹ, nhớ chồng, nhớ con...thì người mẹ thường hát ru con với những lời ca dao đó.
Ca dao là ngôn ngữ, là tình yêu, là lòng nhiệt thành của người Việt, là hồn dân tộc...người Việt Nam ai cũng biết hát ca dao, ai cũng hiểu, ai cũng thích ca dao...Lời ca dao không bao giờ chết trong ngôn ngữ của chúng ta, nó sống mãi trong tình cảm của người Việt. Ngày nào người Việt còn hát ca dao, đọc ca dao...thì ngôn ngữ, văn hóa của chúng ta còn sống mãi với dân tộc Việt.
Nhưng Kinh Thi của Trung Hoa từ thời Khổng Tử thì hiện nay rất ít người biết đến. Đa số người Hoa không biết Kinh Thi là gì. Đọc lên cũng không hiểu được vì đó là văn chương, ngôn ngữ của hơn 2500 năm trước. Những từ ngữ ở trong Kinh Thi ngày nay người ta không còn sử dụng nữa nên có nhiều chữ, nhiều tiếng họ không hiểu. Kinh Thi bây giờ rất xa lạ đối với người Hoa. Chỉ có những nhà nghiên cứu, những sinh viên đại học chuyên về cổ văn mới học cho biết (theo chương trình học), thông thường phải đọc phần chú giải mới hiểu được ý của Kinh Thi. Trong ngôn ngữ hằng ngày, người Hoa không ai nhắc đến Kinh Thi của họ.
Khác với người Hoa, người Việt Nam, dù là một đứa trẻ con cũng nói được ca dao. (Hồi ở Huế, tôi đến thăm một nhà trẻ, thấy mấy đứa nhỏ chơi đùa với nhau...có một đứa bị ngả xuống, nó liền đứng ngay dậy và nói:
“Dù ai té ngữa té nghiêng,
Anh đây vẫn vững như kiềng ba chân”
(Cha mẹ gởi con vào nhà trẻ, được cô giáo dạy cho hát những câu ca dao như vậy...khi có cơ hội là chúng áp dụng ngay)
Vì thời giờ có hạn, tôi xin tạm dừng ở đây. Xin kính chào và cám ơn quý vị.
Triệu Dương (Nguyễn Lý-Tưởng)





Không có nhận xét nào: