Thứ Năm, 31 tháng 12, 2020

Việt Cổ Thi: Thơ Nguyễn Trung Ngạn - Phần 4 (Đỗ Chiêu Đức)

 Góc Việt Cổ Thi : 

      Thơ NGUYỄN TRUNG NGẠN
                        (Phần 4)
                                   
                                             

                      Vạn Thạch Đình

16. Bài thơ Vạn Thạch Đình :

     萬 石 亭                            VẠN THẠCH ĐÌNH
木 樨 花 下 酒 初 醒,    Mộc tê hoa hạ tửu sơ tinh,
乘 興 登 臨 萬 石 亭。    Thừa hứng đăng lâm Vạn Thạch Đình.
豪 傑 舊 遊 無 覓 處,    Hào kiệt cựu du vô mịch xứ,
曲 欄 杆 外 數 峰 青。    Khúc lan can ngoại sổ phong thanh.
              阮 忠 彥                         Nguyễn Trung Ngạn
       
                                       


* Chú Thích :
  - Vạn Thạch Đình 萬 石 亭 : Tên địa danh, nay thuộc huyện Nhạc Dương, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc.
  - Mộc Tê Hoa 木 樨 花 : là Hoa Quế.
  - Hứng 興 : là Hứng thú; nếu đọc là HƯNG thì là Hưng thịnh (động từ), nên THỪA HỨNG 乘 興 : là Nhân lúc còn đang hứng thú.
  - Vô Mịch Xứ 無 覓 處 : Không có chỗ để tìm; có nghĩa Tìm không thấy chỗ cũ.
  - Khúc 曲 : là Gãy, là Cong; KHÚC LAN CAN 曲 欄 杆 là Dãy lan can uốn khúc.
  - Sổ Phong Thanh 數 峰 青 : SỔ là Mấy, PHONG là Ngọn núi, THANH là Xanh; nên SỔ PHONG THANH là Mấy ngọn núi xanh xanh, chớ không phải "Mấy tiếng gió".

* Nghĩa bài thơ :
                            ĐÌNH VẠN THẠCH
      Mới vừa tỉnh rượu ở dưới chòm hoa quế, nhân lúc còn đang hứng thú bèn leo lên Vạn Thạch Đình để ngắm cảnh. Nhưng chẳng sao tìm được chỗ mà các hào kiệt ngày xưa từng dạo chơi, chỉ thấy bên ngoài dãy lan can khúc khuỷu là mấy ngọn núi xanh xanh mà thôi!
      Cảnh xưa vẫn còn đó và vẫn đẹp như xưa, nhưng anh hùng hào kiệt ngày xưa thì giờ đang ở nơi nao? Thật là cảm khái! Đọc bài thơ nầy lại làm cho ta nhớ tới hai câu thơ của nhà thơ Tiền Khởi 錢 起 đời Đường trong bài Tương Linh Cổ Sắc〈湘 靈 鼓 瑟〉như sau:

        曲 終 人 不 見,  Khúc chung nhân bất kiến,
        江 上 數 峰 青.   Giang thượng sổ phong thanh !
     Có nghĩa :
              Khúc tàn người đã vắng tanh,
       Trên sông mấy ngọn núi xanh một màu.

* Diễn Nôm:
                          VẠN THẠCH ĐÌNH
                              
                           

  Song thất lục bát : 
                Dưới hoa quế cơn say vừa tỉnh,
                Vạn Thạch Đình hướng đỉnh leo lên.
                Dấu xưa hào kiệt buồn tênh,
                Lan can uốn khúc núi xanh mấy hòn.
        Lục bát :
                Dưới hoa vừa tỉnh cơn say,
               Thạch Đình thừa hứng leo ngay lên đồi.
               Nào nơi hào kiệt dạo chơi...
               Lan can khúc khuỷu bồi hồi núi xanh !
                                 Đỗ Chiêu Đức

17. Bài thơ Vĩnh Dinh Hữu Hoài :

   永 營 有 懷                         VĨNH DINH HỮU HOÀI
別 此 繁 華 十 幾 年,     Biệt thử phồn hoa thập kỷ niên,
而  今重 過 大 非 前。     Nhi kim trùng qúa đại phi tiền.
眼 中 里 落 多 彫 耗,     Nhỡn trung lý lạc đa điêu háo,
心 上 知 交 半 瘠 捐。     Tâm thượng tri giao bán tích quyên.
人 雜 肆 移 前 後 市,     Nhân tạp tứ di tiền hậu thị,
潦 深 平 浸 夏 秋 田。     Lạo thâm bình tẩm hạ thu điền.
棠 梨 見 說 猶 濃 蔭,     Đường lê kiến thuyết do nùng ấm,
客 步 低 絗 思 惘 然。     Khách bộ đê hồi tứ võng nhiên.
               阮 忠 彥                         Nguyễn Trung Ngạn

                      
       
* Chú Thích :
  - Hữu Hoài 有 懷 : Có hoài cảm, là có xúc cảm về... cái gì đó.
  - Đại Phi Tiền 大 非 前 : ĐẠI ở đây là Trạng Từ, có nghĩa như Rất, Lắm; PHI TIỀN là Khác Trước, nên ĐẠI PHI TIỀN có nghĩa là Rất khác trước, là Khác trước rất xa.
  - Lý Lạc 里 落 : Lý là Hương Lý; LẠC là Bộ lạc, nên LÝ LẠC là từ kép chỉ Làng xóm, Láng giềng.
  - Điêu Háo 彫 耗 : ĐIÊU là Tàn tạ héo úa, HÁO vốn âm HAO, đọc HÁO cho đúng Bằng Trắc. HAO là Hao tổn, nên ĐIÊU HAO là Điêu tàn tiêu điều linh lạc.
  - Tích Quyên 瘠 捐 : TÍCH là Gầy còm ốm yếu; QUYÊN là Hiến, là Bỏ, như Quyên Sinh là Bỏ mạng sống là chết; nên TÍCH QUYÊN là Bệnh tật và chết chóc.
  - Nhân Tạp Tứ Di 人 雜 肆 移 : Người thì Tạp nhạp, Quán xá (TỨ) thì Dời đổi (DI).
  - Lạo Thâm Bình Tẩm 潦 深 平 浸 : Đầm nước đọng (LẠO) thì sâu ngập bằng cả mặt nước (BÌNH TẨM).
  - Đường Lê 棠 梨 : Một loại Lê, còn gọi là Cam Đường, trái ngon ngọt. CAM ĐƯỜNG còn là tên một bài thơ trong thiên Thiệu Nam 詩 經, 召 南 của Kinh Thi, kể lại tích của Thiệu Bá (Thiệu Công Thích) đời nhà Chu. Ông làm quan thanh liêm, tính tình giản dị, khi đi kinh lý các đất ở phương nam, ông thường hay ngồi dưới gốc cây cam đường để nghỉ ngơi, làm việc và xử án. Dân chúng cảm mến nên bảo vệ cây cam đường và làm thơ ca ngợi như sau:

             蔽 芾 甘 棠,   Tế phế Cam đường,
             勿 翦 勿 伐,   Vật tiễn vật phạt,
             召 伯 所 茇。   Thiệu Bá sở bạt.
    
              蔽 芾 甘 棠,   Tế phế cam đường,
              勿 翦 勿 敗,   Vật tiễn vật bị (bại),
              召 伯 所 憩。   Thiệu Bá sở khí.

              蔽 芾 甘 棠,   Tế phế cam đường,
              勿 翦 勿 拜,   Vật tiễn vật bế (bái),
              召 伯 所 說。   Thiệu Bá sở thuế (thuyết).

      Có nghĩa :
                        
                    

           Cam đường cành lá xanh xanh,
           Xin đừng cắt xén xin đừng đốn cây,
           Thiếu Bá đã từng ngồi đây.

            Cam đường cành lá xanh um,
            Xin đừng cắt xén xin đừng phá cây,
            Thiếu Bá từng nghỉ nơi đây.

             Cam đường cành lá um tùm,
             Xin đừng cắt xén xin đừng bẻ cong,
             Thiếu Bá đã từng dừng chân.
      
   - Nùng Ấm 濃 蔭 : NÙNG là Đậm đà, rậm rạp; ẤM là cái bóng cây, nên NÙNG ẤM chỉ Bóng cây to rậm rạp.       
   - Đê Hồi 低 絗 : là Chỉ tơ rối nùi.
   - Võng Nhiên 惘 然 : là Hoang mang, mơ hồ, thấp thỏm không yên.

* Nghĩa bài thơ :
                    CẢM XÚC KHI ĐẾN VĨNH DINH
       Từ biệt với chốn phồn hoa đô hội nầy cũng đã mười mấy năm trời rồi, nên nay khi trở lại thì thấy khác xa trước đây rất nhiều. Làng xóm nhìn qua một lượt thì thấy đã tiêu điều tàn tạ, còn bạn bè tri giao thân thuộc ngày xưa giờ đã già yếu chết chóc hơn phân nửa rồi. Chợ búa trước sau thì quán xá đã di dời nhân sự thì hỗn tạp, nước của các đầm sâu tràn ngập bằng cả đồng ruộng của vụ hè thu. Nghe thấy cây đường lê vẫn còn phủ bóng rậm rạp, nên chi khách bước đi mà lòng rối nùi như tơ, trong dạ hoang mang không dứt.

       Người cũ trở về đây, nhưng cảnh cũ đâu còn nữa, cả nhân sự cũng đổi thay, chỉ còn có cây đường lê trước ngõ là vẫn còn rợp bóng xanh om, khiến cho người viễn khách trở lại chốn xưa không khỏi bồi hồi cảm xúc!

* Diễn Nôm :
                    VĨNH DINH HỮU CẢM

                                                     
                   Cách biệt phồn hoa qúa chục năm,
                   Khác xa khi trước lúc về thăm.
                   Xóm làng nơi đổi nơi tan tác...
                   Bè bạn kẻ già kẻ mất tăm...
                   Chợ búa trước sau người tạp nhạp,
                   Hè thu đồng ruộng nước tràn xâm.
                   Đường lê rợp bóng như ngày trước,
                   Khách bước chân chồn vẻ khổ tâm.
      Lục bát :
                   Phồn hoa cách biệt mười năm,
                   Khác xa lúc trước về thăm nơi nầy.
                   Xóm làng tan tác đó đây,
                   Bạn xưa kẻ chết người gầy già nua.
                   Trước sau chợ chẳng như xưa,
                   Đầm sâu ruộng ngập lúa vừa hè thu.
                   Đường lê rợp bóng thâm u,
                   Khách dồn chân bước rối bù tâm can.

                                                  Đỗ Chiêu Đức

18. Bài thơ Xuân Trú :

       春 晝                                    XUÂN TRÚ
縈 迴 竹 徑 遶 荒 齋,    Oanh hồi trúc kính nhiễu hoang trai,
避 俗 柴 門 晝 不 開。    Tị tục sài môn trú bất khai.
啼 鳥 一 聲 春 睡 覺,    Đề điểu nhất thanh xuân thụy giác,
落 花 無 數 點 蒼 苔。    Lạc hoa vô số điểm thương đài.
              阮 忠 彥                         Nguyễn Trung Ngạn
      
                        


* Chú Thích :
  - Trú 晝 : là Ban ngày, nên Xuân Trú 春 晝 là Ban ngày trong mùa xuân.
  - Oanh Hồi 縈 迴 : là Lòng vòng, là loanh quanh.
  - Nhiễu 遶 (繞) : Đi vòng quanh, là bao bọc lấy. 
  - Hoang Trai 荒 齋 : là Thư trai hoang vắng, là phòng đọc sách nơi vắng vẻ.
  - Tị Tục 避 俗 : TỊ là lánh, là tránh xa, TỤC là Thế tục, nên TỊ TỤC là tránh xa nơi thế tục.
  - Thụy giác 睡 覺 : là Thức giấc, là Ngủ thức dậy.
  - Thương Đài 蒼 苔 : là Rêu xanh.

* Nghĩa bài thơ :
                                  NGÀY XUÂN
      Con đường mòn hai bên trồng trúc uốn quanh bao bọc lấy căn thư trai hoang vắng, Vì muốn tránh xa thế tục nên cánh cửa bằng cây sơ sài ban ngày vẫn đóng kín. Một tiếng chim hót làm cho tỉnh giấc mộng xuân, nhìn ra thấy vô số hoa đang rụng trên thềm rêu xanh biếc.

      Đọc bài nầy làm cho ta nhớ đến bài ngũ ngôn tứ tuyệt Xuân Hiểu của Mạnh Hạo Nhiên đời Đường là:

          春 眠 不 覺 曉,    Xuân miên bất giác hiểu,
          處 處 聞 啼 鳥。    Xứ xứ văn đề điểu.
          夜 來 風 雨 聲,    Dạ lai phong vũ thanh,
          花 落 知 多 少?!    Hoa lạc tri đa thiểu ?!
       Có nghĩa :
                     Đêm xuân ngủ quên sáng,
                     Nơi nơi tiếng chim kêu.
                     Suốt đêm nghe mưa gió,
                     Hoa rụng biết bao nhiêu ?!

      Mạnh Hạo Nhiên thì ngủ say trong đêm xuân, còn Nguyễn Trung Ngạn thì ngủ say trong ngày xuân, đều là những kẻ sĩ muốn tìm chốn thanh nhàn để "lánh xa trần tục"!

* Diễn Nôm:
                         NGÀY XUÂN
                      
                                 


            Quanh co ngõ trúc bọc thư trai,
            Thoát tục sài phi đóng ngủ ngày.
            Một tiếng chim kêu choàng tỉnh giấc,
            Vô vàn hoa rụng phủ rêu đài !
        Lục bát :
            Thư trai ngỏ trúc quanh co,
            Cửa sài đóng kín chẳng lo nhân tình.
            Chim kêu một tiếng giật mình,
            Bên thềm hoa rụng rêu xanh phủ đầy !

                                 Đỗ Chiêu Đức

19. Bài thơ Yên Tử Giang Trung :

    安 子 江 中                      YÊN TỬ GIANG TRUNG
春 潮 漠 漠 漲 平 川,    Xuân triều mạc mạc trướng bình xuyên,
蒲 裡 花 深 水 鳥 眠。    Bồ lý hoa thâm thủy điểu miên.
山 北 山 南 情 景 好,    Sơn bắc sơn nam tình cảnh hảo,
江 山 無 限 隔 歸 船。    Giang sơn vô hạn cách quy thuyền.
               阮 忠 彥                             Nguyễn Trung Ngạn

                     
      
* Chú thích :
  - Mạc Mạc 漠 漠 : là mênh mông mờ mịt.
  - Bình Xuyên 平 川 : là Mặt đất bằng phẳng mênh mông.
  - Bồ 蒲 : là cỏ Bồ, là Cói là lát.
  - Vô Hạn 無 限 : là không có hạn định, là dàn trải mênh mông...
  - Cách 隔 : là Ngăn , chia, là Cách trở.

*Nghĩa bài thơ :
                              TRÊN SÔNG YÊN TỬ
       Sóng xuân mờ mịt theo con nước tràn cả lên bờ bằng phẳng, sâu trong đám hoa lau hoa sậy các con chim nước đang ngủ gật ngủ gù. Phong cảnh của các dãy núi phía bắc và phía nam đều đẹp cả, núi sông dàn trải vô tận như đang ngăn cách con thuyền trở về.

* Diễn Nôm :
                  YÊN TỬ GIANG TRUNG
                        
                         


                     Sóng xuân mờ mịt thủy triều lên,
                     Chim nước trong lau sậy ngủ quên.
                     Núi bắc núi nam phong cảnh đẹp,
                     Non sông cách trở khó xuôi thuyền.
       Lục bát :
                     Sóng xuân mờ mịt tràn bờ,
                     Bên trong lau sậy dật dờ chim âu.
                     Núi nam núi bắc đẹp sao,
                     Non sông dàn trải đường nào về quê !

                                                        Đỗ Chiêu Đức

20. Bài thơ Yên Tử Sơn Long Động Tự :

 安 子 山 龍 洞 寺             YÊN TỬ SƠN LONG ĐỘNG TỰ
蒼 蘿 寒 磴 苦 躋 攀,  Thương la hàn đặng khổ tễ phan,
才 到 松 門 便 解 顏。  Tài đáo tùng môn tiện giải nhan.
一 簇 樓 臺 藏 世 界,  Nhất thốc lâu đài tàng thế giới,
四 時 花 鳥 別 人 間。  Tứ thời hoa điểu biệt nhân gian.
隔 林 有 恨 猿 啼 月,  Cách lâm hữu hận viên đề nguyệt,
倚 榻 無 言 僧 對 山。  Ỷ tháp vô ngôn tăng đối san.
安 得 身 輕 除 物 累,  An đắc thân khinh trừ vật lụy,
紫 霄 峰 頂 伴 雲 閒。  Tử Tiêu phong đỉnh bạn vân nhàn.
         阮 忠 彥                         Nguyễn Trung Ngạn

                  
   
* Chú Thích :
  - Thương La 蒼 蘿 : là những dây leo màu xanh.
  - Hàn Đắng 寒 磴 : là những bậc đá lạnh.
  - Tễ Phan 躋 攀 : là leo trèo.
  - Tùng Môn 松 門 : Cửa làm bằng cây thông, ở đây chỉ cửa chùa.
  - Giải Nhan 解 顏 : GIẢI là Mở ra, là buông thả; NHAN là Dung nhan, sắc mặt; nên GIẢI NHAN là Buông lỏng sắc mặt xuống không còn khẩn trương nữa, nghĩa bóng là Khỏe khoắn, hết căng thẳng. 
  - Nhất Thốc 一 簇 : Lượng từ, là Một xâu, một dãy, một cụm.
  - An Đắc 安 得 : Làm sao có được, làm sao để có được.
  - Vật Lụy 物 累 : là những vật chất phiền lụy.
  - Tử Tiêu 紫 霄 : là đỉnh cao nhất của Yên Tử Sơn, cao 1068m so với mực nước biển trong dãy núi Đông Triều. Núi nằm ở ranh giới giữa 2 tỉnh Bắc Giang và Quảng Ninh.

* Nghĩa bài thơ :
                    CHÙA LONG ĐỘNG Ở NÚI YÊN TỬ
      Khó khăn lắm mới leo trèo lên được những bậc đá lạnh quấn quít đầy những dây leo xanh, mới đến được trước cửa chùa là đã thấy khỏe khoắn ngay. Một cụm lâu đài của nhà chùa như ẩn dấu trong núi cách biệt hẵn với thế giới bên ngoài.
Bốn mùa hoa cỏ chim muôn đều như là của riêng của thế giới nơi đây. Cách mé rừng bên kia tiếng vượn như ai oán hú dưới trăng, và bên nây nhà sư đang yên lặng nhìn về phía núi xa xa. Làm sao để có thể dứt bỏ được những vật chất lụy phiền để thân thể được nhẹ nhàng, bay lên đỉnh Tử Tiêu để cùng bầu bạn với những đám mây nhàn nhã!

* Diễn Nôm :
                  YÊN TỬ SƠN LONG ĐỘNG TỰ
                     
                                


                  
                    Dây leo đá lạnh khó trèo qua, 
                    Đến trước cửa chùa mới khỏe ra.
                    Một dãy lâu đài xa thế giới,
                    Bốn mùa hoa điểu của riêng ta.
                    Bên rừng vượn hú trăng ai oán,
                    Tựa tháp sư nhìn núi cỏi xa.
                    Sao được bỏ buông thân nhẹ nhõm,
                    Tử Tiêu làm bạn mây nhàn qua !
      Lục bát :
                    Dây leo núi đá khó trèo,
                    Cửa chùa đến được thầm reo an lành.
                    Lâu đài lánh thế dường tranh,
                    Bốn mùa hoa cỏ riêng dành nơi đây.
                    Bên rừng vượn hú trăng gầy,
                    Nhà sư tựa tháp bên này núi xa.
                    Sao cho buông bỏ thân ta,
                    Tử Tiêu bạn với mây qua đỉnh trời !


                                                杜 紹 德
                                            Đỗ Chiêu Đức











Ước (Hồng Vân) & Bài họa của thi hữu Mai Xuân Thanh, Lý Đức Quỳnh, Minh Thúy Thành Nội

 

ƯỚC

Ước làm chim nhỏ vượt trời cao

Bất hối, vô ưu, chẳng  lụy nào

Núi thẳm, đèo ngang, nhìn gió bão

Rừng sâu, đá dọc, ngắm trăng sao

Non xanh bát ngát vui chân sáo

Nước biếc bao la nhộn sắc màu

Buông bỏ kiếp người bao áo não

Nhẹ nhàng tung cánh... thoát sầu đau...!

  Bạc Liêu/18/12/2020

Hồng Vân

      Mộng Ước

Mộng ước làm chim liệng thật cao...
Nhìn coi thắng cảnh khắp nơi nào...
Vô ưu cõi tục trăm cơn bão
Bất hối bồng lai vạn ánh sao 
Nước biếc thuyền buồm, vùng hải đảo 
Biển xanh ghềnh đá vách rêu màu 
Hành trang buông bỏ thôi sầu não 
Cánh nhạn bay đi thoát nỗi đau 
Mai Xuân Thanh 
Ngày 19/12/2020
          MỘNG 
Cánh diều thơ bé nhẹ bay cao
Mắt biếc hồn nhiên mộng thuở nào
Vút vít tầng xanh đùa ngọn gió
Bồng bềnh chốn thẳm giỡn trời sao
Cành xuân lộc thắm vừa tươi nụ
Sắc lá thu phai vội úa màu
Tan tác cuồng phong khô trụi gốc
Đời như rơm rạ chẳng còn đau.
     Lý Đức Quỳnh

Họa: 

    Như Cánh Chim Bay

Lũ Én bay vù soãi cánh cao
Tầng không bát ngát chụm nơi nào 
Mây vươn thỏa thích vờn sông biển 
Gió thoảng tha hồ lượn ánh sao
Vạn ngả về ngang trời đỏ sắc 
Ngàn phương trải dọc núi xanh màu 
Đời say lãng đãng reo rừng suối 
Ước muốn như vầy chẳng khổ đau 
            Minh Thuý Thành Nội            
   Tháng 12/20/2020  19/12/2020


 


 


 

Thứ Tư, 30 tháng 12, 2020

Giám Đốc... Hài - Hoàng Hương Trang

 

                                                                                                                                           Nhà văn Hoàng Hương Trang                                                         

                   Giám Đốc... Hài
 
Tèo và Tý là bạn nối khố, chí thân, cùng quê, cùng học một lớp từ mẫu giáo tới trung học cơ sở. Hai đứa không học lên cao nữa vì ở thôn quê không có trường cấp III, nhà lại nghèo, cày thuê, cấy mướn nên gia đình không lo nổi lên thành phố học trọ. Đành nghỉ ngang ở nhà chăn trâu mướn, cuốc đất, giăng câu, cũng kiếm được chút ít phụ cho cha mẹ.
 Ít lâu sau, có người rủ rê lên thành phố mần ăn, dễ kiếm tiền, hai đứa đi theo ngay. Thoạt đầu mới lên thành phố lớn, trình độ thấp, chỉ làm phụ việc bán hàng, cà phê, rồi xin đi làm công nhân may, nghề nào cũng không phải dễ kiếm tiền. Lương bèo, chỉ đủ góp tiền nhà trọ, ăn uống kham khổ sống qua ngày thôi. Được một thời gian, gom góp chút tiền, xin thêm cha mẹ, mỗi đứa mua một xe máy cùi bắp về sửa chữa sơn phết lại để chạy xe ôm. Cái nghề này mình tự làm chủ, cứ chịu khó cần kiệm thì cũng đủ ăn, lại không lệ thuộc vào ai.
 
Tèo chọn chạy xe ở bến xe Miền Tây, Tý ở bến xe Miền Đông, hai đứa hai đầu thành phố, để đỡ chạy xa tốn xăng, mỗi đứa ở trọ gần nơi làm. Lâu lắm không gặp nhau, tình cờ năm đó về quê ăn Tết, lại có dịp gặp nhau, ngoài việc cúng kiếng, thăm viếng họ hàng bà con, hai đứa cùng đám bạn cũ ở thôn quê lại chuyện trò như pháo nổ.
 
Hôm lên đường trở lại thành phố, Tý chìa ra cho Tèo một tấm danh thiếp in trên giấy thơm ngát, Tèo vội đón xe đò nên nhét đại vào ví hẹn lên thành phố sẽ xem. Một hôm vắng khách, đứng dưới bóng cây, Tèo rút ví ra tìm cái danh thiếp thơm lừng của thằng bạn, đây rồi, Tèo lẩm nhẩm đọc:
“NGUYỄN VĂN TÝ GIÁM ĐỐC CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN – CHUYÊN NGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI X.O”

Cha chả, cái thằng Tý bạn chăn trâu ngày nào, nay đã làm Giám đốc công ty này, công ty nọ, thiệt đáng nể! Đúng là trời không đóng cửa ai. Gặp vận may rồng bay lên trời! Người xưa nói đúng quá.
Tèo mân mê cái danh thiếp của thằng bạn nối khố, đọc đi đọc lại, đưa lên mũi hít, rồi tủi thân phận mình, lo lầm lũi kiếm mối chạy vài cuốc… 

Hôm đó tình cờ có bà khách lớn tuổi vừa dưới tỉnh lên, bà gọi Tèo trả giá, kêu chở qua bến xe Miền Đông. Vừa bỏ bà khách xuống, Tèo đang nhìn vơ vẩn thì thấy ai như thằng Tý… Ồ, nhưng nó giám đốc rồi, sao lại ăn mặc xềnh xoàng cũng như mình vậy chứ, có lẽ nắng quá hoa mắt rồi… nhưng đến gần thì quả là thằng Tý. Tèo rối rít gọi nó. Nó quay lại, thấy bạn thì mừng rơn.
 
Tèo nhớ lại tấm danh thiếp, liền hỏi nó:
- Mày khoe với tao là làm giám đốc gì gì đó, in danh thiệp trên giấy thơm lừng mà, sao bây giờ lại chạy xe ôm ở đây? Chắc mày bị sạt nghiệp rồi sao?

Tý cười hề hề:
- Mày ơi, giấc mơ và hy vọng là hai thứ không mất tiền mua! Để tao giải thích cái danh thiếp cho mày hiểu nha. “Giám đốc công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên” thì ai tự xưng mà chẳng được? Có luật nào cấm đâu? Cứ tự xưng cho nó tự sướng! Còn “chuyên ngành giao thông vận tải X.O” có nghĩa là chở người ta bằng xe ôm đó thôi! Mày tưởng X.O là mác rượu quý lâu năm, đắt tiền của các đại gia hả? X.O chỉ là Xe Ôm thôi con ơi! Tao vẫn chạy xe ôm ở đây từ đó đến giờ.
 
Tèo cười ha hả:
- Mày có máu hài vậy sao không thi vào trường sân khấu kịch nghệ cho rồi? - Trình độ lớp 9 ai cho thi vào hả mày? Mà thi vào rồi lấy tiền đâu đóng học phí? Hai đứa bá vai nhau cười ngất, Tèo bảo: - Thôi mời ông “Giám đốc… hài” đi theo tao uống ly nước mía lề đường, rồi tao còn chạy về bến xe Miền Tây kiếm mối đây.
 
                                             Hoàng Hương Trang








Gió và Cát (Mai Xuân Thanh)

 Gió và Cát

Nàng thoảng như làn gió
Chàng như cát trơ trơ
Hồn thơ bay đâu đó
Gặp gở nhau không ngờ 

Bàn chân không nóng hổi
Mà cát trắng lao xao 
Trái tim hồng vô tội 
Ước sao cơn mưa rào !

Đời tôi đây lữ thứ
Giữa thiên nhiên đất trời 
Ai tưởng về quá khứ
Sao lại quay tìm nơi 

Lỡ dừng chân ở đó
Ta cát bụi bên đàng
Lỡ quay cuồng lướt gió
Hồn thơ mộng thênh thang...!

Mai Xuân Thanh 
Ngày 06/12/2020




Một Vần (Mai Xuân Thanh)

  Một Vần

Họ là ai mà thường hay giả dối...?
Họ ở đâu sao dơ bẩn tanh hôi
Họ rất đông xúm xít chi chật chội
Tưởng như người cùng nỗi khổ đó thôi

Họ cứ tưởng qua mặt người trông dõi
Họ nơm nớp lo sắp bị nhốt rồi
Họ luôn sợ có ngày bị bỏ đói
Đêm miền nam lá rụng ánh vàng rơi !

Họ vẫn tưởng nói dối chơi không tội
Kẻ nhận mình như kẻ sống đơn côi...!

Mai Xuân Thanh
Ngày 18/12/2020




Thứ Ba, 29 tháng 12, 2020

Năm Mới 2021 Sắp Về (Mai Xuân Thanh)

                    Năm Mới 2021 Lại Sắp Về

Âu Mỹ, Tết Tây, chúc tỷ nhà...(?)
Chủng ngừa trị dịch tháng ngày qua 
Ngũ châu tín hữu mơ thân thiện
Tứ hải anh em mộng thiết tha
Khẩu nghiệp ăn năn mà nghĩ lại 
Cẩn ngôn hối cải đặng nhìn xa 
Tu tâm bản sắc muôn điều thuận
Dưỡng tánh chân như một chữ hoà ...!

Mai Xuân Thanh 
Ngày 25/11/2020





 

Việt Cổ Thi: Thơ Nguyễn Trung Ngạn - Phần 3 (Đỗ Chiêu Đức)

 Góc Việt Cổ Thi : 

                Thơ NGUYỄN TRUNG NGẠN
                                   (Phần 3)

                                                           

                         Bến đò Thái Thạch

11. Bài thơ Thái Thạch Độ :
  采 石 渡                 THÁI THẠCH ĐỘ
采 石 乃 天 塹,    Thái Thạch nãi thiên tiệm,
江 南 舊 霸 圖。    Giang Nam cựu bá đồ.
群山連建業,    Quần sơn liên Kiến Nghiệp,
一 水 接 蕪 湖。    Nhất thủy tiếp Vu Hồ.
風 景 愁 猶 在,    Phong cảnh sầu do tại,
英 雄 事 己 無。    Anh hùng sự dĩ vô.
六 朝 興 廢 事,    Lục Triều hưng phế sự,
攬 轡 獨 長 呼。    Lãm bí độc trường hô !
         阮 忠 彥               Nguyễn Trung Ngạn
    
                                                     
* Chú Thích :
  - Thái Thạch Độ 采 石 渡 : là Bến đò Thái Thạch. THÁI THẠCH là tên ghềnh đá nằm ở phía nam của sông Trường Giang thuộc thành phố Mã Yên Sơn tỉnh An Huy Trung Quốc. Hình thế nơi đây hiểm trở, hùng tráng. Từ đời Lưỡng Hán trở về sau là chỗ  chiến trường hay xảy ra các cuộc chiến tranh giành nhau ở nơi đây.
  - Thiên Tiệm 天 塹 : là Trời đẻo tạc ra, chỉ địa thế hiễm trở.
  - Kiến Nghiệp 建 業 : là tên gọi của thành phố Nam Kinh thời Đông Ngô, là đô thành của Đông Ngô thời Tam Quốc. 
  - Vu Hồ 蕪 湖 : Còn gọi là Giang Thành 江 城, gọi tắt là Vu, là hồ ở phía tây nam huyện Vu Hồ, tỉnh An Huy, Trung Quốc.
  - Lục Triều 六 朝 : Sáu triều đại của Trung Quốc trong khoảng từ năm 222 đến năm 589, gồm Đông Ngô, Đông Tấn, Lưu Tống, Nam Tề, Lương, Trần. Sáu triều đại này đều đóng đô ở Kiến Khang (tức Kiến Nghiệp thời Tam Quốc, Nam Kinh của ngày hôm nay).
  - Lãm Bí 攬 轡 : LÃM là Nắm, là Ôm đồm. BÍ là dây cương ngựa, nên LÃM BÍ là nắm chặt lấy dây cương ngựa, là ghìm cương ngực lại.

* Nghĩa bài thơ:
                               Bến Đò THÁI THẠCH

       Thái Thạch là hào rãnh của trời đất tạc dựng nên. Đây là nơi tranh bá đồ vương của đất Giang Nam xưa. Các dãy núi nối liền nhau chạy dài đến tận vùng Kiến Nghiệp và một dòng sông nối tiếp với đất Vu Hồ. Vẻ ưu sầu của cảnh vật thì vẫn hãy còn đây, nhưng những sự tích anh hùng ngày xưa thì đã không còn nữa. Biết bao nhiêu là chuyện hưng vong thành bại của thời buổi Lục Triều, ta chỉ còn biết nắm chặt dây cương mà một mình hú to lên để tỏ niềm cảm khái mà thôi!
       Đây quả là một bài thơ hoài cổ vô cùng cảm khái! Khiến người đọc cũng không khỏi bâng khuâng trước đỗi thay thành bại của cuộc đời. Lịch sử đã sang trang, thời gian đà biền biệt. Than ôi, thời oanh liệt nay còn đâu!?...

* Diễn Nôm :
                        THÁI THẠCH ĐỘ

                                            

                  Thái Thạch hào rãnh đất trời,
                  Giang Nam tranh bá tự thời Đông Ngô.
                  Núi liền Kiến Nghiệp lô nhô,
                  Một dòng sông tiếp Vu Hồ đâu đây.
                  Cảnh xưa sầu vẫn đong đầy,
                  Anh hùng thế sự đã phai mất rồi.
                  Lục Triều hưng phế đầy vơi,
                  Ghìm cương cảm khái bên trời hú vang!

                                              Đỗ Chiêu Đức

12. Bài thơ Trường An Thành Hoài Cổ :

  長 安 城 懷 古             TRƯỜNG AN THÀNH HOÀI CỔ

木 落 禾 凋 帝 業 移,    Mộc lạc hòa điêu đế nghiệp di,
李 家 收 得 版 圖 歸。    Lý gia thâu đắc bản đồ quy.
山 圍 故 國 規 模 小,    Sơn vi cố quốc quy mô tiểu,
竹 暗 荒 城 草 木 非。    Trúc ám hoang thành thảo mộc phi.
古 寺 僧 鍾 敲 落 日,    Cổ tự tăng chung xao lạc nhựt,
斷 溪 牛 笛 弄 斜 暉。    Đoạn khê ngưu địch lộng tà huy.
英 雄 舊 事 無 尋 處,    Anh hùng cựu sự vô tầm xứ,
獨 倚 江 亭 看 翠 微。    Độc ỷ giang đình khán thúy vi.
               阮 忠 彥                        Nguyễn Trung Ngạn
        
                   

* Chú Thích :
  - Trường An 長 安 : là Trường kỳ bình an 長 期 平 安, là Bình an dài lâu, từ dùng để đặt tên cho kinh đô từ đời nhà Hán, trải qua 13 triều đại sau đó đều gọi kinh đô là Trường An, cho đến đời nhà Minh mới đổi tên thành Tây An cho đến hiện nay. Trong lịch sử Việt Nam ta cũng gọi Thăng Long thành là Trường An.
  - Mộc Lạc Hòa Điêu 木 落 禾 凋 : Cây rụng lá, lúa rơm tàn tạ; chỉ cảnh hoang tàn buổi cuối thu, cảnh tiêu điêu hoang phế của di tích bị bỏ hoang. Bốn chữ đầu câu 1, lẽ ra có thể nói đơn giản là THẢO MỘC ĐIÊU LINH 草 木 凋 零 (Cỏ cây tàn tạ), nhưng lại được nói cầu kỳ là MỘC LẠC HÒA ĐIÊU, phải chăng cụ Nguyễn Trung Ngạn muốn nhắc cho ta nhớ lại bài sấm cây gạo của Sư Vạn Hạnh làm ra để hợp thức hóa cho Lý Thái Tổ Lý Công Uẩn lên ngôi, trong đó có 2 câu chính là:
                 ...禾 刀 木 落     Hòa đao mộc lạc,
                    十 八 子 成...  Thập bát tử thành.
Có nghĩa :
        - 禾 Hòa 刀 Đao 木 Mộc : ghép ba chữ này lại với nhau thành chữ 梨 LÊ, đồng âm với chữ LÊ là họ LÊ 黎; LẠC là rơi rụng; chỉ Nhà LÊ mất.
        - 十 Thập 八 Bát 子 Tử : ghép ba chữ này lại với nhau thành chữ 李 LÝ; THÀNH là Thành lập, chỉ nhà LÝ sẽ được thành lập nên.                 
  - Lý Gia 李 家 : Nhà họ Lý, ở đây chỉ triều đại của Lý Thái Tổ 李 太 祖, tên thật là Lý Công Uẩn 李 公 蘊, là vị hoàng đế lập ra nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, ông trị vì từ năm 1009 đến khi qua đời vào năm 1028.
  - Tăng Chung 僧 鍾 : Tiếng chuông do các nhà sư dộng lên ở trên chùa.
  - Ngưu Địch 牛 笛 : Tiếng sáo của những đứa trẻ chăn trâu.
  - Giang Đình 江 亭 : Cái đình cất ở ven sông.
  - Thúy Vi 翠 微 : Tên của một loại hoa Lan; đồng thời THÚY VI cũng có nghĩa là cảnh vật xanh tươi của núi sông, hay chỉ cây cỏ xanh tươi rậm rạp.

* Nghĩa bài thơ :
                     TRƯỜNG AN THÀNH HOÀI CỔ
       Cây rụng lá, cỏ rơm tàn tạ héo úa, cảnh vật hoang tàn khi cơ nghiệp của đế vương đã vời đi nơi khác, Nhà họ Lý đã thâu tóm được bản đồ của giang san nầy về một mối. Những dãy núi vây quanh nước cũ quy mô như bị nhỏ lại; những rừng trúc dại che mờ cả thành trì bị bỏ hoang, cây cỏ như chẳng biết gì. Tiếng chuông chùa cổ ngân lên trong ánh nắng tà huy và tiếng sáo của trẻ mục đồng cũng véo von trong buổi chiều tà. Chuyện hào hùng xưa của các anh hùng giờ biết tìm nơi đâu? Ta chỉ còn một mình dựa vào cái đình bên sông nầy mà ngắm cảnh vẫn xanh tươi của núi non cây cỏ mà thôi!
                       
                                           
       Đọc bài thơ nầy làm cho ta nhớ đến bài "Thăng Long Thành Hoài Cổ" của Bà Huyện Thanh Quan với:

                 Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
                 Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
và thật cảm khái với :
                Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
                Nước còn cau mặt với tang thương !

       Cảnh hoài cổ nào mà chẳng buồn, chẳng làm xúc động lòng người!?

* Diễn Nôm :
              TRƯỜNG AN THÀNH HOÀI CỔ
                    
                                       
             Cỏ cây tàn úa nghiệp vua vời,
             Nhà Lý gồm thâu hết mọi nơi.
             Núi phủ nước xưa quy mô nhỏ,
             Trúc che thành cũ cỏ cây phơi.
             Chuông ngân cổ tự chiều nghiêng bóng,
             Sáo vẳng mục đồng nắng xế lơi.
             Sự nghiệp anh hùng đâu thấy nữa,
            Tựa đình lặng ngắm núi mây trôi !...
       Lục bát :
            Vua vời cây cỏ tàn phai,
            Gom về họ Lý đất đai một nhà.
            Núi vây cố quốc quanh ta,
           Thành hoang trúc phủ la đà cỏ cây.
           Chuông chùa cổ vẳng đâu đây,
           Mục đồng sáo trúc hây hây nắng chiều.
           Anh hùng chuyện cũ buồn thiu,
           Tựa đình nước ngắm non chiều xanh xanh!
                                             Đỗ Chiêu Đức

13. Bài thơ Túc Hoa Âm Tự :

  宿 花 陰 寺                  TÚC HOA ÂM TỰ
偶 徬 招 提 宿,      Ngẫu bạng chiêu đề túc,
僧 留 半 榻 分。      Tăng lưu bán tháp phân
石 泉 朝 汲 水,      Thạch tuyền triêu cấp thuỷ,
紙 帳 夜 眠 雲。      Chỉ trướng dạ miên vân.
松 子 臨 窗 墜,      Tùng tử lâm song truỵ.
猿 聲 隔 岸 聞。      Viên thanh cách ngạn văn
粥 魚 敲 夢 醒,      Chúc ngư sao mộng tỉnh,     
花 雨 落 繽 紛。      Hoa vũ lạc tân phân.  
        阮 中 彥                   Nguyễn Trung Ngạn
       
                                              
* Chú Thích :
  - Hoa Âm Tự 花 陰 寺 : Chùa Hoa Âm, ở phía bắc của thành phố Loan Châu thuộc đông bộ của tỉnh Hà Bắc hiện nay. HOA ÂM TỰ hiện đã phát triển thành Bắc Tự Công Viên 北 寺 公 園. 
  - Ngẫu Bạng 偶 徬 : NGẪU là Ngẫu nhiên, là Tình cờ đến bên cạnh...
  - Chiêu Đề 招 提 : Có gốc tiếng Phạn là caturdeśa, phiên âm tiếng Hoa là "Thác đấu đề xa 拓 鬥 提 奢", gọi tắt là THÁC ĐỀ, sau nhầm chữ THÁC 拓 thành chữ CHIÊU 招, nên mới gọi là CHIÊU ĐỀ. Vốn có nghĩa Phạn là "Bốn Phương", dùng để chỉ các tăng lữ vân du bốn phương gọi là "CHIÊU ĐỀ TĂNG 招 提 僧". Bắc Ngụy Thái Võ Đế cất tăng viện, gọi là CHIÊU ĐỀ, nên sau gọi chung chùa chiền là CHIÊU ĐỀ hoặc GIÀ LAM 伽 藍, tiếng Phạn là samghrma, cũng là từ dùng để chỉ "Thiền Môn Chùa Chiền"  như trong Truyện Kiều tả lúc Thúy Kiều ở Chiêu Ẩn Am với sư Giác Duyên có câu:

                   Gió quang mây tạnh thảnh thơi,
            Có người đàn việt lên chơi cửa GIÀ.

      Cửa GIÀ là cửa GIÀ LAM là Cửa Chùa giống như là CHIÊU ĐỀ vậy. Nên...
   - Chiêu Đề Túc 招 提 宿 : là Tá túc lại trong chùa, là ngủ qua đêm trong chùa. 
   - Tháp 榻 : là cái sạp, cái giường hẹp mà dài, như TRÚC THÁP 竹 榻 là cái Chỏng bằng tre. BÁN THÁP 半 榻 là Nửa cái chỏng, nửa cái giường nằm.
   - Cấp Thủy 汲 水 : là Múc nước, rút nước.
   - Chỉ Trướng 紙 帳 : là Màn giấy, là cái mùng ngủ được làm bằng vỏ của cây mây đai kết sơ sài lại để làm mùng, phía trên được phủ bởi một lớp vải mỏng có vẽ hình các loại hoa, ở trong chùa thì vẽ hình mây bay ở trên trời, nên câu thơ "Chỉ Trướng dạ miên vân 紙 帳 夜 眠 雲" có nghĩa: "Ban đêm ngủ với MÂY trong mùng giấy" là thế.
   - Chúc Ngư 粥 魚 : là cái Mỏ, là khúc cây đẽo hình con cá được móc rổng ruột để gỏ cho kêu, còn gọi là MỘC NGƯ 木 魚.
   - Tân Phân 繽 紛 : là Sặc sỡ, là lả tả. LẠC TÂN PHÂN là Rơi lả tả.

* Nghĩa Bài Thơ :
                        ĐÊM TRỌ CHÙA HOA ÂM
       Tình cờ đến cạnh ngôi chùa và tá túc qua đêm nơi đây, nhà sư đã chia cho ta nửa chiếc giường để nằm. Buổi sáng thì đi lấy nước ở các khe suối đá, còn ban đêm thì ngủ với mây trong mùng giấy. Những trái thông sột soạt rụng ngay trước song cửa và tiếng vượn hú gọi đàn vẳng bên kia bờ khe suối. Tiếng mỏ sáng vang lên làm tỉnh giấc mộng buổi ban mai, nhìn ra ngoài thấy những cánh hoa đang lả tả rơi rụng như mưa!  

* Diễn Nôm:
                    ĐÊM TRỌ CHÙA HOA ÂM

                      
                   

                       Ngủ lại chùa đêm xuống,
                       Nửa giường sư nhượng ta.
                       Nước đá khe sáng lấy,
                       Mùng mây giấc đêm qua.
                       Bên song nghe thông rụng,
                       Tiếng vượn vẳng bờ xa.
                       Mỏ sớm choàng tỉnh mộng,
                       Lả tả trận mưa hoa !                              
  Lục bát :
                      Tình cờ tá túc Hoa Âm,
                      Sư chia một nửa giường nằm qua đêm.
                      Nước trong suối đá êm êm,
                     Màn mây trướng giấy êm đềm giấc mơ.
                     Ngoài song tùng rụng ơ hờ,
                     Cách bờ vượn hú ngẩn ngơ khách chùa.
                     Giật mình tiếng mỏ sáng khua,
                     Tơi bời hoa rụng như mưa trước thềm !

                                 Đỗ Chiêu Đức (diễn Nôm)

14. Bài thơ Tư Quy :   
 
      思 歸                                 TƯ QUY
百 歲 能 堪 幾 別 離,Bách tuế năng kham kỷ biệt ly ?
異 鄉 久 客 未 成 歸。Dị hương cửu khách vị thành quy.
春 深 庭 院 槐 陰 合,Xuân thâm đình viện hòe âm hợp,
日 暖 池 塘 柳 絮 飛.   Nhật noãn trì đường liễu nhứ phi.
萬 斛 鄉 愁 難 當 酒,Vạn hộc hương sầu nan đáng tửu,
三 分 病 骨 不 勝 衣。Tam phân bệnh cốt bất thăng bi.
黃 塵 無 限 都 門 外,Hoàng trần vô hạn đô môn ngoại,
早 趁 南 薰 賦 式 微。Tảo sấn nam huân phú Thức Vi.
              阮 中 彥                       Nguyễn Trung Ngạn

                     

  
* Chú Thích :
  - Cửu Khách 久 客 : Ở nơi đất khách lâu ngày.
  - Xuân Thâm 春 深 : Xuân đã vào sâu, có nghĩa là đã cuối xuân rồi.
  - Liễu Nhứ 柳 絮 : Hạt và hoa liễu màu trắng ở buổi cuối xuân.
  - Vạn Hộc 萬 斛 : Một Hộc = 10 đấu; VẠN HỘC ở đây chỉ Thật nhiều thật nhiều.
  - Nan Đương Tửu 難 當 酒 : Khó mà uống được rượu, khó mà rót rượu uống cho nổi.
  - Bất Thăng Y 不 勝 衣 : Không mặc nổi áo, không có sức để mặc áo.
  - Sấn 趁 : Nhân lúc, Thừa dịp...
  - Nam Huân 南 薰 : Theo Khổng Tử Gia Ngữ, có dẫn bài ca của Đế Thuấn là: "Nam phong chi huân hề, khả dĩ giải ngô dân chi uẩn hề. 南 風 之 薰 兮,可 以 解 吾 民 之 愠 兮。 "... Có nghĩa: Cái mát mẻ ấm áp của gió Nam, có thể giải tỏa được nỗi lòng u uẩn ẩn ức của dân Nam ta! Với thâm Ý nầy, ông Phạm Qùynh đã lập ra Nam Phong Tạp Chí với Ý đồ mở mang dân trí và xoa dịu lòng dân để ẩn nhẫn đợi thời! NAM HUÂN ở đây chỉ sự mát mẻ của gió nam vào những buổi trưa.
 - Thức Vi 式 微 : Tên bài thơ thuộc chương Bắc Phong 邶 風 trong Kinh Thi 詩 經 như sau:
                           
                



               式 微,式 微 !     Thức vi! Thức vi! 
               胡 不 歸 ?             Hồ bất quy? 
               微 君 之 故,            Vi quân chi cố,
               胡 為 乎 中 露 !   Hồ vi hô trung lộ ? 
     Có nghĩa :
                        Tối rồi đa, tối rồi đa !
                        Sao chẳng về nhà, ở đó làm chi ?
                        Vì vua nên phải chay lì,
                        Dầm sương dãi nắng xá chi thân nầy !

   - Phú Thức Vi 賦 式 微 : Ngâm bài ca dao Thức Vi, ý nói "Sao chẳng về nhà?"

* Nghĩa bài thơ :
                            MUỐN TRỞ VỀ
      Đời người trăm năm có thể chịu đựng được mấy lần ly biệt đây ? Làm khách nơi xứ lạ quê người đã lâu nhưng còn chưa về được. Trong buổi tàn xuân nhìn bóng cây hòe trong sân họp lại. Ánh nắng ấm áp bên ao hồ tơ liễu trắng tung bay. Rượu cả vạn hộc nhưng vì lòng đang mang mối sầu quê hương nên không thể chuốc chén được; Bệnh tật đã thâm vào xương hết ba phần rồi nên hầu như không còn sức để mặc áo nữa! Ngoài cửa Đô môn bụi vàng (của những ngựa xe qua lại) cuốn bay mờ mịt. Ta muốn sớm nhân lúc gió nam còn mát mẻ nầy mà tìm đường về lại quê nhà (hát bài Thức Vi, tức là Ý muốn về lại quê nhà).

* Diễn Nôm :
                               TƯ QUY
                    
               

                 Trăm năm chịu được mấy phân ly ?
                 Đất khách muốn về dễ mấy khi.
                 Sân trước xuân tàn hòe rợp bóng,
                 Ao truôm nắng ấm liễu bay đi.
                 Lòng quê trước rượu khôn nâng chén,
                 Bệnh tật vào xương áo khó ghì.
                 Mù mịt bụi vàng bay trước ngõ,
                 Gió nam hát khúc "Thức Vi" thi !
    Lục bát :
                 Trăm năm chịu mấy chia ly ?
                 Xứ người thân khách mấy khi được về !
                 Xuân tàn sân rợp bóng hòe,
                 Bên ao nắng ấm đón hè liễu bay.
                 Nhớ quê muôn chén khó say,
                 Xương tàn bệnh tật khôn cài áo khuy.
                 Cửa Đô bụi cuốn bay đi,
                 Gió nam hát khúc Thức Vi muốn về !
                                    Đỗ Chiêu Đức diễn nôm

15. Bài thơ Tương Giang Tặng Biệt:

    湘 江 贈 別                 TƯƠNG GIANG TẶNG BIỆT
數 杯 別 酒 驛 亭 邊,  Sổ bôi biệt tửu dịch đình biên,
君 上 征 鞍 我 上 船。  Quân thướng chinh yên ngã thướng thuyền.
獨 倚 蓬 山 愁 不 語,  Độc ỷ Bồng sơn sầu bất ngữ,
一 江 湘 水 碧 連 天。 Nhất giang Tương thủy bích liên thiên !
              阮 中 彥                          Nguyễn Trung Ngạn
       
               

* Chú thích :
  - Tương Giang 湘 江 : Còn được gọi là Tương Thủy 湘 水, là một trong những con sông nhánh quan trọng của Trường Giang và con sông lớn nhất của tỉnh Hồ Nam.
  - Sổ 數 : là Một vài, là Mấy. Nếu là Động từ thì có nghĩa là Đếm; Còn nếu đọc là SỐ thì là Danh từ chỉ các chữ số, con số.
  - Dịch Đình 驛 亭 : là Cái trạm, cái đình cất ở ven đường hay ven sông để nghỉ chân và để làm nơi đưa tiễn nhau.
  - Chinh Yên 征 鞍 : là cái yên ngựa, mà cũng để chỉ con ngựa sẽ được cởi đi xa.
  - Bồng Sơn 蓬 山 : Núi Bồng Lai, chỉ chung nơi tiên ở.
  
* Nghĩa bài thơ :
             TẶNG LÚC CHIA TAY TRÊN SÔNG TƯƠNG
      Bên cạnh quán dịch bên đường, ta cùng bạn uống vài chung rượu chia tay. Đoạn bạn lên ngựa để vượt đường xa còn ta thì bước xuống thuyền. Ta một mình đứng tựa thuyền nhìn núi Bồng Lai mà buồn nói chẳng nên lời. Xa xa dòng nước sông Tương xanh biếc như nối liền cả nước trời lại với nhau.

     Đọc hai câu chót của bài nầy làm cho ta nhớ đến bài thất ngôn tứ tuyệt "黃 鶴 樓 送 孟 浩 然 之 廣 陵 Hoàng Hạc Lâu Tống Mạnh Hạo Nhiên Chi Quảng Lăng" của Thi Tiên Lý Bạch:

 故 人 西 辭 黃 鶴 樓,    Cố nhân tây từ Hoàng Hạc Lâu, 
 煙 花 三 月 下 陽 州。    Yên ba tam nguyệt hạ Dương Châu. 
 孤 帆 遠 影 碧 空 盡,    Cô phàm viễn ảnh bích không tận, 
 惟 見 長 江 天 際 流。    Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.

     Diễn Nôm :
                          
                 

              Giả từ Hoàng Hạc phía lầu tây,
              Xuân đến Dương Châu rực cỏ cây.
              Chỉ thấy cánh buồm côi khuất dạng,
             Trường Giang nước chảy lẫn trời mây !  

      Lý Bạch không nói gì đến tình cảm thắm thiết của mình với "cố nhân", nhưng qua hình ảnh đứng nhìn theo cánh buồm của chiếc thuyền chở bạn đi đến khi mất hút trong bầu trời xanh mà vẫn còn nhìn mãi dòng nước chảy đã đưa bạn đến tận phía chân trời, ta cũng thấy được sự quyến luyến vô vàn của một tình bạn nồng nàn thắm thiết đến cở nào! Nhà thơ Nguyễn Trung Ngạn của ta cũng vậy, một mình đứng tựa thuyền mà trông dòng sông Tương xa xa mênh mông xanh biếc trời nước liền nhau mà buồn nói chẳng nên lời.  

* Diễn Nôm :
                     TƯƠNG GIANG TẶNG BIỆT
                     
                 

                   Dịch quán chia tay rượu mấy hồi,
                   Xuống thuyền lên ngựa tách đôi nơi.
                   Núi Bồng sầu tựa buồn không nói,
                   Một dãi sông Tương nước lộn trời.
       Lục bát :
                   Tiễn đưa mấy chén quan hà,
                   Bạn thì lên ngựa còn ta xuống thuyền.
                   Bồng Sơn sầu tựa núi tiên,
                   Sông Tương một dãi nối liền trời mây!
                                    

       Mời đọc tiếp Thơ NGUYỄN TRUNG NGẠN (phần 4)
       
                                             杜 紹 德
                                         Đỗ Chiêu Đức