Thứ Năm, 3 tháng 12, 2020

Viết Về Nhà Sử Học Công Giáo: Lê Ngọc Bích (1933 - 2009) - Nguyễn Đức Cung

 VIẾT VỀ NHÀ SỬ HỌC CÔNG GIÁO:

LÊ NGỌC BÍCH (1933-2009)


Nguyễn Đức Cung


Nhà sử học mà chúng tôi muốn đề cập đến trong bài viết này có lẽ cũng không xa lạ gì với giới nghiên cứu biên khảo về lịch sử Công Giáo mà những tác phẩm của anh đã từng mở ra những chân trời với những cống hiến, tìm tòi rất chu đáo hướng về những đối tượng mà trước đây ít người chịu khó bõ công tìm hiểu. Đó là nhà sử học Lê Ngọc Bích mà các công trình nghiên cứu sử học gồm trên chục đầu sách đã được in ấn dưới hình thức “lưu hành nội bộ”, in chui và hoặc với giấy phép công khai của nhà nước Việt Nam. Trong cuộc hội thảo chào mừng “Bốn trăm năm hình thành chữ Quốc Ngữ” tổ chức vào tháng 4 năm 2019 tại Trung Tâm Mục Vụ Tổng Giáo Phận Sài Gòn, một diễn giả, Linh Mục Px. Đào Trung Hiệu, OP đã nhắc đến nhà sử học Lê Ngọc Bích, đề cao sáng kiến của anh khi đề cập đến vai trò giáo dân trước tiên trong các tác phẩm biên khảo về một nền sử học Công Giáo Việt Nam. Việc nhấn mạnh đến sự quan trọng của các giáo dân Việt Nam trong bốn thế kỷ qua, phải chăng đó cũng là chấp hành những hướng dẫn tốt đẹp được Công Đồng Vatican II đề ra trong Sắc lệnh về Tông đồ giáo dân (Apostolicam actuositatem). Chính Đức Hồng Y Francis Cardinal Arinzé trong cuốn sách nhỏ nhan đề “Vai trò đặc biệt của người giáo dân” đã viết : “Bởi vậy, Công Đồng đã khẩn thiết đưa ra lời kêu gọi trong Chúa rằng người giáo dân hãy đáp trả vui tươi, quảng đại và mau chóng lời kêu khẩn nài đặc biệt của Thiên Chúa trong lúc này dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Linh.” (The Layperson’s Distinctive Role, Ignatius, 2013, trang 15).


I.- GẶP NHAU TRONG MÔI TRƯỜNG CHỮ HÁN, NIỀM TRI ÂN ĐỐI VỚI TT NGÔ ĐÌNH DIỆM.

Cách đây hơn sáu mươi năm, với Nghị định số 389-GD do Tổng Thống Ngô Đình Diệm ký ngày 8/10/1959, Viện Hán Học Huế ra đời tại cố đô Huế với chương trình đào tạo sinh viên trong thời hạn 5 năm qua các bộ môn Hán Văn, Bạch Thoại, Triết Học, Quốc Văn, Sử Địa, và Sinh Ngữ. Sau khi tốt nghiệp, sinh viên Viện Hán Học sẽ được bổ dụng giáo sư Trung học, chuyên viên viện Khảo Cổ, nhân viên các tòa đại sứ hay lãnh sự quán VNCH ở Đông Nam Á v.v… Một kỳ thi tuyển với trên 500 thí sinh toàn quốc mà chỉ chọn 40 người, thực tế chỉ có 30 người theo học trong khóa giảng đầu tiên 1959-1960 tổ chức tại Di Luân Đường tức Trường Quốc Tử Giám thời xưa. Tôi là một trong số những anh chị em theo học khóa đầu tiên của Viện Hán Học Huế trong đó có anh Lê Ngọc Bích và hai người bạn thân là GS Trần Vinh Anh (đã tử nạn vì công vụ năm 1967) và Nguyễn Lý Tưởng. Mục đích việc thành lập Viện Hán Học Huế, theo Linh Mục Cao Văn Luận, lúc bấy giờ là Viện Trưởng Viện Đại Học Huế kiêm Giám Đốc Viện Hán Học, trong diễn văn khai mạc khóa học đầu tiên thì “đây là mỹ ý của Tổng Thống Ngô Đình Diệm muốn bảo vệ nền cổ học và văn hóa đạo đức của nước nhà do tổ tiên để lại” (Nguyễn Lý Tưởng, Kỷ yếu Đại Học Huế, 2015, Viện Hán Học Huế sinh sau đẻ muộn, trang 129). Đây là một trường đào tạo chuyên biệt về Hán văn để phục vụ cho việc dạy chữ Hán, phiên dịch sử liệu và sách cổ (Hán Nôm) ngoài ra còn có ban nghiên cứu Đông Y Dược cũng là một bộ phận phụ thuộc của Viện.

Nếu ai là người đã từng để tâm theo dõi, nghiên cứu thì những việc làm mang tính chất văn hóa của gia đình Tổng Thống Ngô Đình Diệm được coi là những xây dựng căn bản trong lãnh vực tư tưởng cho con đường chính trị của nền Đệ I Cộng Hòa sau này. Từ những bài thơ của vua Tự Đức bằng chữ Hán do Thị Vệ Lang Đại Thần Ngô Đình Khả, (người đã có công nhiều trong việc thành lập Trường Quốc Học Huế, năm 1896) dịch ra tiếng Pháp đăng trên Tạp chí Đô Thành Hiếu Cổ (Bulletin Des Amis Du Vieux Huế) năm 1915, bài thi “Lên Núi Ngự Bình” của vua Tự Đức,  đến bài dịch ra tiếng Pháp có tên “Đoàn sứ giả Trung Hoa sắc phong vua Tự Đức” do Ngô Đình Khôi chấp bút cũng xuất hiện trên Tạp chí Đô Thành Hiếu Cổ tập 3, năm 1916, nhật ký bằng chữ Hán của Phái Đoàn Phan Thanh Giản năm 1862 do Tổng Thống Ngô Đình Diệm thời gian còn là Học viên Trường Hậu Bổ dịch ra tiếng Pháp, bài nghiên cứu của TT Ngô Đình Diệm về cái nghiên Tức Mặc Hầu, đến tập tham luận của Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục mang tên “Việt-nam through Vietnamese Eyes” đăng trên Tạp chí World Mission, tháng Hai 1951. Riêng ông Ngô Đình Nhu là lý thuyết gia của chủ nghĩa Nhân Vị vốn tốt nghiệp Trường Quốc gia Cổ học (École Nationale des Chartes) tại Paris năm 1935 với luận án nhan đề Moeurs et Coutumes des Tonkinois au XVIIè et XVIIIè d’après les voyageurs et missionaires “Phong tục và tập quán của người Bắc Kỳ từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII theo các du khách và các nhà truyền giáo” [bổ túc theo điện thư của Ông Lê Thiện Sĩ, ở Sài Gòn] và một kiệt tác mang tên “Chính Đề Việt Nam” in ở Hoa Kỳ khoản hơn 10 năm trước đây của ông Ngô Đình Nhu dưới bút danh Tùng Phong. Tất cả những công trình văn hóa đó dù ít hay nhiều và việc lựa chọn một cơ quan văn hóa có bề thế như Tạp chí Đô Thành Hiếu Cổ (BAVH) lúc bấy giờ lưu hành khắp Đông Dương và phát hành sang tận nước Pháp, để xuất hiện không phải là một việc làm ngẫu nhiên nhưng có tính toán. Ngoài ra khi đọc cuốn “Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm và Mặt Trận Giải Phóng” của Hồ Sĩ Khuê, ta thấy TT Ngô Đình Diệm cũng lưu tâm đến các tác phẩm viết về thế giới thứ ba trong đó có sách của Alfred Sauvy, của Tibor Mende để biết rằng TT Ngô Đình Diệm muốn tổ chức một nền đại học hoàn bị, tiến bộ, hướng đến khoa học và chuyên môn từ những năm 1947-48 (Hồ Sĩ Khuê, Nhà xb. Văn Nghệ, 1993, tr. 161). 

Về sau, so sánh các hoạt động văn hóa đó, ba sự kiện quan trọng nhất đó là việc thành lập Trường Quốc Gia Hành Chánh ở Sài-gòn, việc cải tổ Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt từ 2 năm lên 4 năm giai đoạn 1956-1965 được ghi lại “Thời gian này khởi đầu nền Đệ Nhất Cộng Hòa do Tổng Thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo. Trường có những thay đổi quan trọng, ảnh hưởng nhiều do chủ trương của Tổng Thống Diệm cùng với các cuộc thăm viếng và học hỏi của các chỉ huy trưởng từ các trường võ bị như Võ Bị Lục Quân Hoa Kỳ, Võ Bị Đài Loan  (Trường Võ Bị Quốc Gia Theo Dòng Lịch Sử, Nhà xuất bản Hương Quê, 2017, trang 87) rồi việc thành lập Viện Đại Học Huế năm 1957 trong đó về sau có Viện Hán Học Huế (1959) cũng nằm trong các quan điểm mang tính chiến lược của vị lãnh tụ nền Đệ nhất Cộng Hòa. 

Qua cái mỹ ý của Tổng Thống Ngô Đình Diệm trong việc thành lập Viện Hán Học Huế vẫn hàm chứa một dụng ý chính trị muôn đời muôn thuở, một cái nhìn chiến lược của nhà lãnh tụ đó là dùng văn hóa làm vũ khí lợi hại trong công cuộc đối kháng với nền văn hóa vô sản của chế độ Miền Bắc. Việc chọn Giáo sư Võ Như Nguyện, (con trai nhà cách mạng Võ Bá Hạp, bạn tranh đấu của cụ Phan Bội Châu) và Giáo sư Nguyễn Hồng Giao để soạn sách giáo khoa cho Viện Hán Học theo yêu cầu của Bộ Giáo Dục cũng là việc làm có cân nhắc. Viện Đại Học Huế với nhiều phân khoa trực thuộc và một cơ quan ngôn luận uyên bác là Tạp chí Đại Học, Trường Đại Học Y khoa với cơ sở bề thế được xây dựng theo chương trình chuyển ngữ tiếng Việt, Viện Hán Học Huế chuyên ngành cổ học, bạch thoại, triết học và văn chương, các trường Nữ Hộ Sinh Quốc gia, Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật v.v với cơ sở trường ốc phát triển đều đặn là những thách thức đối với chế độ CS Miền Bắc chỉ cách Huế không đầy 100 km rằng “Có chúng tôi đây!”.

Theo nhận định của Tiến sĩ Nguyễn Tuấn Cường, một trí thức xuất thân từ miền Bắc, từng là nghiên cứu sinh thuộc Đại học Harvard, cho biết một chi tiết thú vị là Viện Hán Học ở Miền Nam Việt Nam được thành lập sớm hơn về thời gian (1959) và tổng hợp hơn về nhiệm vụ công tác so với Ban Hán Nôm (năm 1972) và Viện nghiên cứu Hán Nôm. Như thế Viện Hán Học Huế của VNCH ra đời trước Ban Hán Nôm và Viện Nghiên cứu Hán Nôm là 13 năm, nhờ viễn kiến của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Nhận xét về Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Giáo sư Nguyễn Tuấn Cường, bây giờ là Viện Trưởng Viện Hán Nôm Hà Nội, trong bài Giáo dục Hán học tại Miền Nam Việt Nam trong bước chuyển văn hóa – xã hội: Viện Hán Học Huế (1959-1965), đã viết: “Nhân vật Ngô Đình Diệm (1901-1963) dù xuất thân trong một gia đình Công giáo mộ đạo, bản thân ông cũng là người Công giáo, nhưng lí lịch và cách hành xử của ông vẫn mang đậm tính chất của một con người Nho giáo, gắn với nền Hán học truyền thống.” Bài viết này trích từ một chuyên luận nghiên cứu về các hoạt động văn hóa Nho giáo –Hán học tại miền Nam Việt Nam [1955-1975] – Harvard-Yenching Institute. Viện Hán Học Huế, nơi mà thế hệ chúng tôi được đào tạo trong Khóa I, theo học trình dẫn trên, qua lời viết của GS Nguyễn Tuấn Cường, “được khai sinh năm 1959 bởi một “văn quan” 58 tuổi có tư tưởng Nho giáo truyền thống, tức Tổng Thống Ngô Đình Diệm (1901-1963), rồi được khai tử năm 1965 bởi một “võ tướng” trẻ, khi ấy mới 35 tuổi, tức Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương Nguyễn Cao Kỳ (1930-2011). Có thể thấy số phận Viện Hán Học gắn liền với sự thăng trầm của quyền lực chính trị. Viện được thành lập theo “mĩ ý” của Tổng Thống Ngô Đình Diệm năm 1959, và khó có thể nói rằng đó là một quyết định sai lầm. Trong một xã hội đang chuyển đổi theo hướng “Mĩ hóa” mạnh mẽ về nhiều mặt, thì việc thiết lập một đơn vị chuyên trách việc đào tạo và nghiên cứu văn hóa truyền thống là điều cần thiết, trước khi truyền thống ấy bị đứt gãy hoàn toàn với hiện tại do không còn có các nhân tố con người được đào tạo đến mức có đủ khả năng nối kết. Viện được thành lập ở Huế cũng là một sự lựa chọn đúng đắn nếu xét đến các khu vực trung tâm trong toàn bộ lãnh thổ VNCH khi ấy, bởi trong suốt gần 150 năm triều Nguyễn, đất Thần Kinh (神 京) là nơi hội tụ được nhiều nhà khoa bảng nổi tiếng, lưu giữ được nhiều di tích và tư liệu cổ, vẫn còn nhiều nhà cựu học tâm huyết với việc trao truyền văn hóa kinh điển Hán học.”

Thông qua bài viết này, chúng tôi có đôi dòng về Viện Hán Học Huế để muốn nói lên tấm lòng tri ân đối với Tổng Thống Ngô Đình Diệm, một bậc vĩ nhân của đất nước. Sở dĩ chúng tôi có cơ hội học được chữ Hán trong trong thời buổi Nho Học đã suy tàn, qua khóa đầu tiên, cùng chung một lớp với rất nhiều bạn lớn tuổi lúc bấy giờ như quý anh Ngô Văn Lại, Phạm Liễu người Quảng Nam, Lê Ngọc Bích, Lê Nhất (người Huế), Nguyễn Lý Tưởng (Dương Lộc, Quảng Trị), Trần Vinh Anh (Hướng Hóa, Quảng Trị), Hoàng Xuân Minh (Huế), các anh La Cảnh Hùng, Dương Trọng Khương, Ngô Khôn Liêu v.v… đa số là người Hoa với vốn chữ Hán của họ lúc bấy giờ so với chúng tôi vốn rất trội xa, mà học trò lại có kẻ ngang tuổi với thầy…  Nhờ Tổng Thống Ngô Đình Diệm rất coi trọng việc học và việc giáo dục nên qua Viện Đại Học Huế và Viện Hán Học cũng như các cơ sở giáo dục khác như Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật, Trường Nữ Hộ Sinh Quốc Gia, Trường Kỹ Thuật Huế v.v… được thành lập và phát triển, đã giúp ích rất nhiều cho sinh viên nghèo của Miền Trung hiếu học. 

Cũng từ năm 1959, chúng tôi học môn triết học Trung Quốc với Giáo sư Tiến Sĩ Nguyễn Văn Dương (1932- 2017) qua tập giáo trình Đại cương triết học sử Trung Quốc của Phùng Hữu Lan 1895-1990 馮 友 蘭 (Fung Yu-lan) do thầy Dương dịch từ bản tiếng Pháp phối hợp với bản tiếng Anh (bản in ronéo năm 1966) sau này sách có in do Viện Đại Học Vạn Hạnh và Nhà xb Thanh Niên (1998). Phùng Hữu Lan là một triết gia rất có quyền uy trong lãnh vực lịch sử triết học Trung Hoa với trường phái Phùng Học ngày nay có uy danh tại Hoa Lục và khắp nơi trên thế giới. Một bộ “A History of Chinese Philosophy” gồm hai cuốn viết bằng tiếng Anh do Derk Bodde chuyển ngữ, Princeton University Press xuất bản với hơn 1330 trang,  năm 1952. Mới đây ở Việt Nam, bộ sách khá đồ sộ “Lịch sử triết học Trung Quốc”  gồm hai tập, tập I: Thời đại Tử Học (560 trang) tập II: Thời đại Kinh Học (808 trang) của triết gia Phùng Hữu Lan, do Lê Anh Minh dịch và in năm 2013, cũng rất cần thiết cho những ai muốn nghiên cứu về Hán học.

Công bình mà nói, ngành Hán Học ở Miền Bắc không phải là đến năm 1972 mới có, như Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Tuấn Cường đã phát biểu trong bài tham luận viết về Viện Hán Học của Miền Nam Việt Nam được ông trình bày tại Hội nghị về ngành Hán Học năm 2014 tại Philippines, mà đã được tổ chức từ cuối năm 1965 trong một phạm vi nhỏ hẹp. Một cuốn sách cho biết rằng, cuối thời điểm 1965 “Thủ tướng phủ ký quyết định tổ chức một Lớp đại học Hán học giao cho Viện Văn học quản lý, và bổ nhiệm Giáo sư Cao Xuân Huy là Giáo sư chính.” (Cao Xuân Huy, Tư tưởng phương đông gợi những điểm nhìn tham chiếu, Nguyễn Huệ Chi soạn, chú, giới thiệu, Nhà xb. Văn Học, 1995, trang 55). Tài liệu vừa trích cho thấy không rõ ai là người trong phủ Thủ Tướng ký quyết định (chắc là một cấp thừa hành nào đó, không phải Thủ Tướng Phạm Văn Đồng) và bức hình chúng tôi có trong quyển sách của Cao Xuân Huy nói là lớp Hán học từ năm 1965-1968 có khoảng gần 30 người trong đó chưa kể gia đình cụ Cao Xuân Huy, cháu nội cụ Cao Xuân Dục và ba đứa trẻ có đứa còn bồng trên tay. Đọc qua tài liệu và xem bức hình, chúng tôi thấy rõ Miền Bắc lúc bấy giờ chưa ý thức rõ tầm mức quan trọng của Hán Học trong nền văn hóa cổ truyền Việt Nam, như Tổng Thống Ngô Đình Diệm từng quan tâm đến trong viễn kiến chính trị của mình qua việc thành lập Viện Hán Học ở cố đô Huế năm 1959.

            
(Lê Ngọc Bích (đứng) trong ngày lễ Tưởng Niệm LM Nguyễn Văn Thích)

II.- LÊ NGỌC BÍCH VÀ THÂN PHẬN NỔI TRÔI CÙNG ĐẤT NƯỚC.

Khi chúng tôi gặp nhau tại khóa đầu Viện Hán Học Huế vào mùa thu 1959, anh Lê Ngọc Bích đã lớn hơn tôi đến tám tuổi, sinh ngày 6/9/1933 tại Hà Tĩnh. Quê anh vốn làng Thượng An, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên, bố là cụ Lê Ngọc Bổng vốn là Giáo Sư Trường Trung Học Kỹ Thuật Huế dạy về môn Kỹ Nghệ Họa. Trường Kỹ Nghệ Huế (Ecole Professionnelle) cũng gọi là Trường Bá Công được thành lập ngày 12/9/1899 theo Chỉ dụ của vua Thành Thái (1889-1907) dưới ảnh hưởng thúc đẩy canh tân của Diên-Lộc Quận Công Nguyễn Thân (1853-1914), sau việc thành lập Trường Quốc Học Huế (Nguyễn Đức Cung, Diên-Lộc Quận-Công, Nhà xb. bản Nhật Lệ, 2002, trang 386). Đến đầu năm 1900, trường này xây cất trên sở đất bên bờ sông Phủ Cam và tồn tại đến ngày nay được 100 năm. Năm 1921, Trường được chuyển giao cho chính quyền Bảo hộ Pháp quản lý và đổi tên thành Trường Kỹ Nghệ Thực Hành Huế Ecole Pratique Industrielle Hue. Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ năm 1946, trường di tản ra Nghệ Tĩnh. (Lê Ngọc Bích, Nhân vật Giáo phận Huế, Tập I, trang 133). Sau này ở nhiều giai đoạn lịch sử Trường có tám tên gọi khác nhau cho đến ngày nay với tên Trường Cao Đẳng Công Nghiệp Huế (Hue Industrial College – HUEIC).

Năm 1944, tức hồi 11 tuổi anh Lê Ngọc Bích được rửa tội tại Dòng Chúa Cứu Thế Huế với tên thánh Gérard rồi vào tu tại DCCT Huế. Nhân biến cố 19-12-1946, thân phụ anh kẹt ở Vinh không để tin tức gì lại cho gia đình. Cũng thời gian sau đó, Lê Ngọc Bích có lần về thăm quê mẹ ở làng Ngọc Anh và được một người cậu rủ Bích tham gia Vệ Quốc Đoàn của Việt Minh hoạt động trong Trung Đoàn 95 đóng tại chiến khu Nam Đông (Thừa Thiên) mà viên Trung Đoàn Trưởng là học trò của cụ Lê Ngọc Bổng, thân phụ anh Bích. Trong một lần tìm cách luồn rừng để đi xưng tội với linh mục ở một giáo xứ tên gọi Ngọc Hồ (Đá Hàn) gần Trung Đoàn bộ, anh Bích gặp Linh Mục Tôma Trần Văn Dụ coi sóc giáo xứ này (ở thượng nguồn Sông Hương), và khai với cha Dụ rằng anh là con cụ Bổng vốn là bạn thân của cha ở Giáo xứ Phủ Cam (Huế) và nói ý muốn của anh là “dinh tê” (tức về lại vùng Quốc Gia) để nhờ Cha tìm cách giúp đỡ. Cùng theo với anh Bích trong Trung đoàn 95 còn có anh Nguyễn Văn Thuận (sau này là Bác sĩ và Dân biểu thời Đệ Nhị VNCH, em ruột của Phụ Tá Nguyễn Văn Ngân làm việc cho TT Nguyễn Văn Thiệu), anh Bác sĩ Nguyễn Văn Bách hiện ở Tiểu bang Pennsylvania) đều ở trong nhóm “nghĩa tử” của Cha Tôma Trần Văn Dụ. Nhóm nghĩa tử này được cha Dụ đưa về lại Huế an toàn. Lúc bấy giờ Bích xin theo vào học Trường Kỹ Thuật Huế ở trong khuôn viên Trường Canh Nông trong Thành Nội Huế, và làm thợ sắp chữ tại nhà in Thánh Tâm vốn là một cơ sở sinh hoạt của Dòng Thánh Tâm Huế, đường Phan Đình Phùng trên bờ sông Bến Ngự, còn hai người kia vào học Trường Khải Định. Năm 1953, anh Bích cũng lần mò ra được tới Vinh và tìm gặp được thân phụ lúc ấy đang dạy học tại Dòng Phanxicô Vinh. Dòng này được xây dựng từ năm 1931 trong một khu đất gần 4 mẫu, nằm ở ngoại ô thành phố, gần Trường Thi, giữa Vinh và Bến Thủy do cha Maurice Bertin phụ trách. Khu đất này ngày nay là Bệnh Viện thành phố Vinh và một phần là Trường Mầm Non Hồng Sơn, nằm ở ba mặt đường: đường Lê Mao, đường Trần Phú, và đường Ngô Đức Kế. (Vương Đình Chữ [chủ biên], Lịch sử Giáo Phận Vinh, tập I, 2015, trang 563).

Năm 1954, sau hiệp định Genève chia đôi đất nước, hai bố con trốn ra Hải Phòng và theo tàu há mồm vào Sài Gòn. Bích có chung mẹ với một em trai là Bưu và mẹ của Bích vốn là bà mẹ quê chơn chất, thật thà, là người theo đạo Ông Bà, sống ở làng Mỹ Lợi, huyện Phú Thứ, Thừa Thiên, quê hương của Đức Từ Cung, mẹ vua Bảo Đại. Hai ông bà (song thân của Bích) lấy nhau theo lời hứa của người lớn hai gia đình, không thích hợp đời sống tình cảm nên ly dị nhau từ khi Bích còn nhỏ. Sau này tục huyền với một bà họ Phạm thuộc giáo xứ Phủ Cam, cụ Bổng trở lại đạo Công Giáo, sinh được năm người con, trong số đó có hai người làm linh mục thuộc Tổng Giáo Phận Huế và một người con gái là nữ tu thuộc Dòng Mến Thánh Giá Huế. Bà họ Phạm này ở trong dòng dõi gia tộc của bà Phạm Thị Thân, vợ cụ Ngô Đình Khả và là thân mẫu của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Bà họ Phạm này (kế mẫu của anh Bích) cũng có bà con với Cố Giám Mục Alexis Phạm Văn Lộc, nguyên Giám mục Giáo Phận Kontum. Hai người em của anh Lê Ngọc Bích là Linh mục Micae Hy Lê Ngọc Bửu thuộc Nhóm Tu hội Hy vọng có liên hệ nhiều với Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận nên bị chính quyền CS làm khó dễ và do Đức Cha Phạm Văn Lộc phong chức chui ngày 20-8-1997.  Linh Mục Lê Phú Ngọc Trản được Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Như Thể phong chức công khai cùng các linh mục khác tại Nhà thờ Phủ Cam ngày 29-06-2001. Cả hai cũng có khi tá túc với Linh Mục Nguyễn Văn Ngọc tại Giáo xứ Phan-xi-cô (tục gọi Nhà thờ Nhà nước). Nhờ sự can thiệp hữu hiệu của Đức Tổng Giám Mục Giuse Nguyễn Chí Linh năm 2018 Lm Micae Hy Lê Ngọc Bửu được Tòa Giám Mục Huế cấp bài sai đi làm quản xứ Hòa Đa. Kể thêm những chuyện này để thấy chế độ CS luôn luôn là thế lực của tà thần nhưng đức tin và lý tưởng của người Công Giáo là sức mạnh giúp ta vượt thoát mọi khó khăn.

Từ năm 1959 đến 1962, chúng tôi ban đầu “kết” nhau trong một nhóm mà các bạn khác thường gọi là nhóm “ABCT” tức là Trần Vinh Anh, người gốc Minh Hương, quận Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị, Lê Ngọc Bích (Thừa Thiên) và Nguyễn Đức Cung (Quảng Bình), sau có thêm Nguyễn Lý Tưởng (Triệu Phong, Quảng Trị) và Hoàng Văn Sự (dân Bắc, em ruột nhạc sư Hùng Lân). Tất cả cùng đồng ý giúp nhau học để lấy cho được Tú Tài I và II ban Cổ ngữ (Hán Văn) để liệu đường cho tương lai. Ngoài việc học hành, anh em chúng tôi là những người xông xáo nhất trong các hoạt động của Viện, thí dụ tổ chức các cuộc vui Tất Niên, khai giảng khóa học, chào đón các giảng viên mới. Niên khóa 1962-63, chúng tôi đồng thi đỗ vào Đại Học Sư Phạm ban Sử Địa chỉ trừ có Hoàng Văn Sự bị động viên vào quân đội và theo với cuộc sống binh ngũ cho đến năm 1975.

Theo học Viện Hán Học trong tinh thần của một nền giáo dục “dân tộc, nhân bản và khai phóng”, chúng tôi có dịp tiếp xúc với các vị giáo sư thuộc tầng lớp cựu học như cụ Nguyễn Duy Bột xuất thân từ trường Quốc Tử Giám, cụ Cử Nhân Hà Ngại, cụ Cử Nhân Lương Trọng Hối, Linh mục Sảng Đình Nguyễn Văn Thích, thầy Võ Như Nguyện, thầy Nguyễn Hồng Giao, nhà thơ tiền chiến Phan Văn Dật, học giả Bửu Kế, rồi với các vị tân học như Linh mục Giáo Sư Nguyễn Phương, Giáo sư Nguyễn Văn Dương, Giáo sư Vĩnh Quyền v.v… để thấy thế hệ chúng tôi đóng vai “bản lề” là được tiếp thu nền tinh hoa học thuật cũ từ các đấng bậc đi trước cho đến cái căn bản học thuật của nền giáo dục Miền Nam hôm nay. 

Sau ba năm theo học tại Viện Hán Học, chúng tôi giã từ môi trường chữ Hán để bước vào một khung cảnh học thuật mới với hai lãnh vực văn khoasư phạm, rồi có dịp quen biết thêm bạn bè và được thụ huấn với các vị giáo sư nổi tiếng trên toàn Miền Nam như Giáo sư Trần Văn Toàn dạy Triết, GS Thanh Lãng dạy môn Văn Học Việt Nam, Linh mục Nguyễn Phương phụ trách môn Sử, GS Nguyễn Thế Anh môn sử Đông Nam Á, Linh mục Nguyễn Hòa Nhã dạy môn Địa Lý, GS Dương Đình Khôi dạy môn Dân Tộc Học, Linh Mục Lefas môn Sử Tây Phương, Linh mục Oxarango môn cổ sử Tây Phương v.v… Mùa hè năm 1965, chúng tôi tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm, và ở Trường Đại Học Văn Khoa; tôi và Trần Vinh Anh lấy xong Cử Nhân Giáo Khoa Sử Học, còn Lê Ngọc Bích cũng chỉ còn một chứng chỉ nữa để hoàn tất học vị này mà phải bỏ dở đi dạy học để sinh sống đã.

Sau khi tốt nghiệp Ban Sử Địa của Trường Đại Học Sư Phạm Huế, Lê Ngọc Bích đi nhận nhiệm sở là Trường Trung Học Nguyễn Huệ ở Tuy Hòa (Phú Yên), tôi và Trần Vinh Anh về Trường Trung Học Trần Quý Cáp Hội An.

Bẵng đi mấy năm Lê Ngọc Bích yên phận dạy học ở vùng tháp Nhạn sông Đà, chăm chú đời sống gia đình, rồi năm 1973 anh xin đổi vào Trường Trung Học Tân Bình ở gần nhà thờ Ba Chuông thuộc Giáo xứ Đa Minh. 

Sau ngày 30-4-1975, Cộng Sản chiếm trọn Miền Nam đã làm thay đổi mọi nếp sống sinh hoạt của con người tại đây kể cả những người theo nghề dạy học như anh Lê Ngọc Bích.

Ngay sau khi Sài Gòn mới mất, một người tên Nguyễn Trường Liêm, Sư Phạm ban Toán ở Huế vào tiếp quản Trường Trung Học Tân Bình. Nguyễn Trường Liêm có người em là Nguyễn Trường Cổn vốn ly khai vào chiến khu VC trong nhóm Lê Hiếu Đằng. Một người khác tên Văn Đức Kim dạy học ở Trường Trung Học Nguyễn Thượng Hiền, quen biết với anh Nguyễn Lý Tưởng lúc bấy giờ (trước năm 1975) dạy học ở Trường Trung Học Hồ Ngọc Cẩn (Gia Định), cũng móc nối với Nguyễn Trường Liêm và nhỏ to tâng công, nói rằng Lê Ngọc Bích là “đảng viên” Đại Việt trốn học tập cải tạo, là “đồng chí” của Nguyễn Lý Tưởng và Nguyễn Đức Cung… Thế là Lê Ngọc Bích bị theo dõi, trù dập nhưng vì không có bằng chứng cụ thể nên chưa làm gì. Một hôm cụ Lê Ngọc Bổng ở Huế vào thăm con, anh Bích đưa câu chuyện ra giải bày với cụ. Cũng may cụ Bổng có một người học trò lúc bấy giờ làm Phó Giám Đốc Công An thành phố Sài Gòn. Cụ Bổng đến thăm anh này và trình bày sự thật về anh Bích. Người Phó GĐCA này được ông thầy cũ đến nhà thăm cũng rất mừng và hãnh diện nên cho lục hồ sơ đảng phái ở Sài Gòn không thấy tên Lê Ngọc Bích, cả trong hồ sơ điện toán cũng không, nên đã yêu cầu trường Trung học Tân Bình đối xử tử tế với Lê Ngọc Bích. Sau vụ này, trường Tân Bình không còn làm khó dễ gì Bích và còn cho phép Bích trong những ngày nghỉ dạy có thể coi việc giữ xe cho học sinh để có thêm chút lợi nhuận trong sinh kế, bởi vì đời sống giáo chức lúc bấy giờ rất gieo neo, cơ cực. Kể ra trong cái rủi cũng có điều may (Providence).


3.- BƯỚC VÀO LÃNH VỰC NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ ĐẠO CHÚA…

Cho đến bây giờ tôi cũng không biết nguyên nhân nào đưa anh Lê Ngọc Bích bước vào lãnh vực nghiên cứu lịch sử đạo Công Giáo ở Việt Nam bởi vì theo  lệ thường chỉ sau khi hoàn tất một học vị về sử học chẳng hạn Cử nhân Giáo Khoa Sử học (Bachelor of Art) hay Cao học Sử học (Master of Art) mà trong nước bây giờ người ta gọi là Thạc sĩ thì mới chọn một hướng nghiên cứu. Cuốn sách đầu  tiên anh Lê Ngọc Bích tặng tôi có tên “Người Việt Công Giáo, Chứng Nhân Đức Tin (1630-1885) không thấy đề năm in. Tôi lật trang cuối tìm vào bản kê “tài liệu tham khảo” thấy có cuốn  “Cuộc lữ hành đức tin” của Linh mục Đào Trung Hiệu, OP. do UBĐKCG Tp. Hồ Chí Minh tháng 6-1992 thì chắc rằng cuốn sách của Bích được viết sau cuốn sách này. Viết về “chứng nhân đức tin” tức là viết về các Thánh Tử Đạo Việt Nam, được Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolồ II phong thánh ngày 19-6-1988 tức một phần cũng để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu về danh thơm tiếng tốt của các bậc tiền nhân Việt Nam của người tín hữu, đồng thời cũng là phản ứng trước thái độ phá phách của chế độ CS đối với việc phong thánh lúc bấy giờ mà theo phương pháp sử học đó là “nguyên nhân gần, nguyên nhân gây sự” (Nguyễn Phương, Phương pháp sử học, Phòng Nghiên Cứu Sử, Viện Đại Học Huế, 1964, trang 156). Cho đến nay, vấn đề phong thánh ngày 19-6-1988 đã trở thành một biến cố lịch sử nhưng thiết tưởng cũng cần nhìn lại để thấy thực chất của vấn đề phản ánh đức tin của người Công Giáo và thái độ thù ghét đố kỵ của giới cầm quyền CS đối với tôn giáo này như thế nào.

Trước hết xin đọc vào hồi ký của một Giám Mục. Trong cuốn “Chứng từ của một Giám Mục, những câu chuyện về một thời”, Giám Mục Phao Lô Lê Đắc Trọng, Cố Giám Mục Phụ Tá TGP Hà Nội đã viết: “Cho tới năm 1988, khi Tòa Thánh quyết định phong thánh cho 117 Chân Phúc Việt Nam. Một luồng sóng phẫn nộ chống đối việc phong thánh đó. Trong buổi khai mạc chống đối việc phong thánh được phát động, hai nhân viên Đoàn Kết được phái tới Nam Định, do ông Dương Văn Đàm và ông Vũ Thái hòa, mở cuộc họp các linh mục Hà-Nam-Ninh. Đã mấy chục năm, tôi không đi họp, hôm đó không hiểu sao rồi lại đi. Nhưng đó lại là cơ hội rất may. Sau khi hai ông chỉ trích chê bai chống lại việc phong thánh. Tôi lên tiếng thay cho mọi linh mục, nêu lên đề tài: Việc tôn sùng Các Thánh Tử Đạo và chế độ này đi đôi với nhau. Để chứng minh, tôi gợi lại sự kiện ngày 2-9-1945: Ngày thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, cả hội nghị nghe. Rồi tôi đặt câu hỏi: cuộc kết duyên ban đầu đằm thắm thế, vì lẽ gì việc tôn sùng Các Thánh Tử Đạo lại gặp khó khăn thế? Không ai trả lời. Và từ đó, riêng với tôi không ai nói về vấn đề tử đạo. Các linh mục tỉnh Hà-Nam-Ninh (Hà Nội, Phát Diệm, Bùi Chu), không còn bị đi họp để nghe “tố” Các Thánh Tử Đạo, như các nơi khác.” (Diễn Đàn Giáo Dân tái bản lần thứ nhất, Hoa Kỳ, Giáng Sinh 2009, trang 289).

Sau đây là một số thông tin từ hải ngoại:

“Đầu năm 1988, TT Vatican loan báo tổ chức lễ phong thánh cho 117 vị tử đạo VN vào ngày 19-6-1988. Việc này lập tức gây ra những phản ứng khác nhau từ phía các giới khác nhau trong nước. 

Tại Hà nội, về phía Công giáo, HĐGMVN cũng họp về vấn đề phong thánh, UBTV HĐGMVN thông cáo về phong thánh ngày 2-4/3/1988. Các nữ tu Sài Gòn cũng đưa ra thỉnh nguyện về phong thánh ngày 10/3/1988. Nhưng HĐGMVN trong phiên họp thường niên tại Hà Nội không tán đồng các hành vi và cung cách mang màu sắc chính trị trần thế liên quan đến việc phong thánh (17/3/1988)”.[Nguyệt san Diễn Đàn Giáo Dân, Phong Trào Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại Cơ sở Đức quốc, Ba Mươi Năm Công Giáo Việt Nam Dưới Chế Độ Cộng Sản, tháng 8-2005, Đỗ Hữu Nghiêm , trang 414).

Tác giả Lê Thiên cho biết: “Năm 1988, Cộng sản Việt Nam tung chiến dịch ồn ào chống lại việc Giáo Hội Công Giáo quyết định phong thánh cho 117 Chân Phúc Tử Đạo Việt Nam. Một mặt chúng huy động các cây bút lý luận sắc bén về ý thức hệ Cộng sản, như Nguyễn Khắc Viện, Trần Bạch Đằng, viết bài xuyên tạc lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Mặt khác, chúng dùng Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu Nước qua tờ Công Giáo và Dân Tộc với Trương Bá Cần viết bài phụ họa.” (Ba Mươi Năm Công Giáo… Sđd, trang 476).

Cũng trong tài liệu nói trên, tác giả Đỗ Mạnh Tri nói rõ: “Ngày 22.6.1987 Gioan Phao lồ II chủ trì buổi họp Cơ Mật Viện và quyết định phong Hiển thánh 117 Chân Phúc Tử Đạo Việt Nam. Ngày 19.6.1988, lễ Tuyên Thánh đã được cử hành tại Quảng trường Thánh Phê Rô ở Rô-Ma, trong bầu khí trang trọng, thuần túy tôn giáo, với sự tham dự của khoảng 15 ngàn người, trong đó rất nhiều người Công giáo Việt Nam đến từ khắp thế giới, trừ Việt Nam. Thông cáo của Tòa Tổng Giám Mục Tp HCM: “Ngày 19.6.1988: các nhà thờ lớn nhỏ, các giáo xứ trong địa phận cử hành ngày Chúa Nhựt này như các ngày Chúa Nhựt khác, không tổ chức chi cả liên quan đến Lễ Phong Thánh”. Nguyễn Ngọc Lan bình phẩm: “Lễ ‘như các ngày Chúa Nhựt khác’ là lễ gì? Thà làm thinh đi hoặc nói rõ là bị ngăn cấm để khỏi bị mấy anh công giáo yêu quái xuyên tạc như họ đã bi bô tối hôm qua trên màn ảnh truyền hình: vì thế nọ vì thế kia cho nên mới có Thông cáo của Tòa Tổng Giám Mục. Những cái ‘vì’ hoàn toàn xa lạ với Đức cha Bình. Chính quyền cấm người công giáo không được làm gì liên quan đến Lễ Phong Thánh, cũng như đã cấm không cho HĐGMVN tham dự Lễ Phong Thánh bên Rôma. (Ba mươi năm Công Giáo, Đỗ Mạnh Tri, Sđd, trang 566; Nguyễn Ngọc Lan, Nhật Ký 1988, Nhà xb. TIN Paris, 1993, Chúa nhựt 19.6.88, tr. 93).

Cuốn tư liệu “Ba mươi năm…” ghi nhận thêm: “Ngày 24.11.1990, trong bài chào mừng Đức Thánh Cha nhân dịp viếng ad limina, Đc Nguyễn Minh Nhật, Chủ tịch HĐGMVN có nói: “Niềm vui sướng được quây quần chung quanh Đức Thánh Cha lại càng lớn lao hơn nữa vì nó bù đắp lại phần nào sự vắng mặt toàn diện của HĐGMVN trong ngày Lễ tấn phong Hiển Thánh cho 117 Chân phước Tử đạo Việt Nam tại Quảng trường Thánh Phê rô ở Rôma ngày 19.6.1988. Cử chỉ long trọng này của Tòa Thánh đã và sẽ ghi dấu trong niên giám của các thế hệ mai sau một ơn cao trọng mà Chúa Quan phòng đã muốn ban cho Giáo hội trẻ trung của chúng con.” (Đỗ Mạnh Tri, trang 567).

Một câu danh ngôn của Tertullian (155-222) văn sĩ La-Tinh và cũng là một nhà hộ giáo đã từng nói: “Máu của người tử đạo là hạt giống sinh người tín hữu” (Semen est sanguis christianorum! Apologeticus 50, 13) (Pope Benedict XVI, Great Christian Thinkers, from The Early Church through The Middle Ages, Fortress Press, 2011, trang 26). Biết đâu, giữa bầu khí chống báng đạo Công Giáo nhân vụ phong thánh lúc bấy giờ, đây chẳng phải là sự huyền diệu giúp Lê Ngọc Bích dấn thân nghiên cứu về lịch sử Công Giáo Việt Nam với nhiều tác phẩm giá trị về sau với ý hướng “hộ giáo” (apologetics) tiềm tàng trong anh?

Cuốn sách đầu tiên của Lê Ngọc Bích, “Người Việt Công Giáo, Chứng nhân Đức Tin, 1630-1885”, dày 189 trang dưới hình thức “Giáo trình lưu hành nội bộ” có lẽ là một tài liệu nhỏ dùng cho việc dạy học trong giáo xứ hay một học viện nào đó. Bìa sách in tương đối trang nhã, mẫu chữ lịch sự rõ ràng, ghi lại tiểu sử của 109 vị Thánh tử đạo Việt Nam theo thứ tự thời gian tuy nhiên việc đặt “Giáo dân PHANXICO” lên hàng tử đạo tiên khởi là vấn đề phải được xét lại. 

Trong tác phẩm “Người Chứng Thứ Nhất”, nhà văn Phạm Đình Khiêm có viết: “Ở đây, chúng tôi tưởng cũng nên nhận định rõ về tước hiệu “Tiên khởi Tử đạo Việt Nam” dành cho ông An-rê Phú-yên. Đúng ra, thày giảng An-rê là “Tiên khởi Tử đạo” ở Xứ Nam (Đàng Trong). Còn nếu kể toàn quốc, thì ở Xứ Bắc (Đàng Ngoài), vào năm 1630, có một giáo hữu tên thánh là Phan-chi-cô, gia nhân của một vị quan lớn trong phủ Chúa Trịnh, đã bị quan này tự ý giết vì giữ đạo Thiên Chúa. Tài liệu của Cha Đắc-lộ, nguồn duy nhất, chỉ kể rất sơ lược về ông, khen ngợi ông đổ máu vì Chúa, tuy không dùng danh từ rõ rệt “Tử đạo” (Martyr). Về phần thày giảng An-rê, đời sống và cuộc tử đạo với những phép lạ sau khi chết, đã biểu dương rất rõ rệt với đầy đủ chi tiết, lại được lập hồ sơ để chờ ngày phong thánh, cho nên ta có thể kể người như vị Tử đạo vinh quang đầu tiên của Việt nam.” (Phạm Đình Khiêm, Người Chứng Thứ Nhất, Tinh Việt Văn Đoàn, Sài Gòn, 1959, trang 23).

Nói chung các tài liệu khác như “Các Thánh Tử Đạo Việt Nam trong lịch sử Giáo hội Công giáo” của Linh mục Bùi Đức Sinh hoặc “ Việt Nam Giáo Sử” của Lm Phan Phát Huồn, “Lịch sử Truyền Giáo” của Lm Nguyễn Hồng, “Lịch sử Phát triển Công giáo Việt Nam” của Lm Trương Bá Cần, và nhất là trong danh sách 117 vị Thánh Tử Đạo VN do Tòa Thánh tuyên phong không nhắc đến người giáo hữu tên thánh Phan-chi-cô này nên danh xưng đó cũng cần để lại như một vấn đề “tồn nghi”.

Nếu cuốn sách nhỏ “Người Việt Công Giáo, Chứng Nhân Đức Tin, 1630-1885 được viết do sự thúc đẩy của biến cố phong thánh 19-6-1988, thì bộ sách tiếp đồ sộ hơn, súc tích hơn và hoàn hảo hơn (gồm hai tập, tập I gồm 398 trang và tập II gồm 300 trang, in khổ lớn) nhằm kỷ niệm 150 năm thành lập Giáo phận Huế (1850-2000), có tên Nhân vật Giáo phận Huế phát hành dưới hình thức ‘lưu hành nội bộ’ tỏ ra xứng tầm với một nhà nghiên cứu sử học.

Về nội dung tập I, tác giả Lê Ngọc Bích trình bày như sau:

PHẦN MỘT : GIÁO DÂN

Chương một : Giáo dân thế kỷ XVII-XVIII

- Thời Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635)

- Thời Thượng Vương Nguyễn Phúc Lan (1635-1648)

- Thời Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1648-1687)

- Thời Ngãi Vương Nguyễn Phúc Thái (1687-1691)

- Thời Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725)

- Thời Ninh Vương Nguyễn Phúc Thụ (1725-1738)

- Thời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765)

- Thời Định Vương Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777)

- Thời Cảnh Thịnh Tây Sơn (1783-1802)


Chương hai : Giáo dân thế kỷ XIX

                     -Thời Hoàng đế Minh Mạng (1820-1840)

 -Thời Hoàng đế Tự Đức : Giai đoạn 1848-1860; Giai đoạn 1860-1862: Phân Sáp.

 - Gian đoạn 1883-1886 : Lực lượng Văn Thân “Bình Tây Sát Tả gồm Giai đoạn cuối năm 1883 và Giai đoạn 1885-1886.


Chương ba: Giáo dân thế kỷ XX


PHẦN HAI : CÁC VỊ CHỨNG NHÂN ĐỨC TIN ĐƯỢC GIÁO HỘI SUY TÔN

Chương một: Thời Cảnh Thịnh Tây Sơn 1798.

Chương hai: Các vị chứng nhân đức tin thời Hoàng đế Minh Mạng 1820-1840.

Chương ba: Các vị chứng nhân đức tin thời Hoàng đế Tự Đức 1857-1861.

Chương bốn: Các vị chứng nhân đức tin ngoài Giáo phận qua đời trên đất Giáo phận Huế.

PHẦN BA : CÁC VỊ TU SĨ VÀ LINH MỤC

Chương một: Các vị tu sĩ

-Tu sĩ thế kỷ XVII

-Tu sĩ thế kỷ XIX

-Tu sĩ thế kỷ XX

Chương hai: Các vị linh mục

-Các vị linh mục thế kỷ XVII-XVIII

-Các vị linh mục thế kỷ XIX : Thời kỳ trước “Phân Sáp”; Thời kỳ “Phân Sáp” 1860-1862; Thời kỳ Văn Thân “Bình Tây Sát Tả” 1883-1886.

-Các linh mục thế kỷ XX.

Chương ba: Các linh mục ngoài Giáo phận sống phục vụ Tổ quốc trên đất Giáo phận Huế.

Tập II “Nhân Vật Giáo Phận Huếgồm:

PHẦN BỐN : CÁC VỊ THỪA SAI NGOẠI QUỐC TRUYỀN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN GIÁO PHẬN HUẾ

Chương một: Các vị thừa sai Dòng Tên

Chương hai: Các vị thừa sai thuộc Hội Truyền giáo Paris

Chương ba:  Các vị thừa sai Dòng Chúa Cứu Thế

Chương bốn: Các vị thừa sai ngoại quốc lập dòng trên địa bàn Giáo Phận Huế

PHẦN NĂM: CÁC VỊ GIÁM MỤC VÀ ĐAN VIỆN PHỤ

Chương một: Các vị giám mục thời kỳ Giáo Phận Đàng Trong qua đời trên đất Giáo Phận Huế

Chương hai: Các vị giám mục và đan viện phụ gốc Giáo Phận Huế

Chương ba: Vị giám mục khai sinh Giáo Phận Huế, Tephan Cuénot

Chương bốn: Các vị giám mục trực tiếp lãnh đạo Giáo phận Huế.

Phê bình bộ sách này trước hết chúng tôi đi vào phần nói về các tư liệu do soạn giả sử dụng, thiết nghĩ tạm chia làm hai loại đó là chính sử và dã sử. Chính sử ở đây gồm các bộ Đại Nam Thực Lục, Liệt Truyện, Địa bộ, Phủ Biên Tạp Lục v.v… nghĩa là những bộ sử do Quốc Sử Quán viết và dã sử nói chung là những tập tài liệu do tư nhân viết. Dĩ nhiên trong bộ sách này phần lớn tài liệu lấy từ các sách tư nhân hoặc do các cơ sở tôn giáo biên tập gồm nhiều loại ngôn ngữ Việt, Pháp, Anh, Hán Văn được biên tập theo nhiều thể loại.

Tóm tắt, chính sử 正 史 là sử sách do cơ quan chính thức của triều đình quân chủ biên soạn thường gọi là Quốc Sử Quán do các viên chức khoa bảng của triều đình được chỉ dịnh đứng ra sưu tập tài liệu và biên soạn lịch sử các triều đại hay các biến cố của quốc gia. Dã sử 野 史 ( là đồng nội, chốn dân gian – theo Đào Duy Anh) là sử sách do dân chúng ngoài xã hội viết về các biến cố quân sự, chính trị, văn hóa, kinh tế v.v... Sử gia Nguyễn Phương đã gọi một cách tổng quát hai nguồn sử liệu chính sử và dã sử là sử liệu công và sử liệu tư. (Nguyễn Phương, Phương pháp sử học, Phòng nghiên cứu Sử, Viện Đại Học Huế, 1964, trang 71.)

Dù sử dụng các loại tư liệu nào nhưng cần phải tôn trọng các nguyên tắc về trích dẫn khi dùng tới. Ở đây tác giả rất thận trọng khi tham khảo các sách vở, báo chí, tài liệu dịch thuật kể cả khi phải đọc vào các tư liệu Hán Văn hay tiếng La-Tinh hoặc các ngoại ngữ khác. Tuy nhiên, các sách của Lê Ngọc Bích ngoài phần ghi các tài liệu tham khảo đã không có mục sách dẫn (index) vốn là một trong những danh mục giúp tìm ra mau chóng tên các nhân vật được nói đến trong tác phẩm và mục sách dẫn này là một đòi hỏi nằm trong phạm trù của Phương pháp sử học.

“Nhân vật Giáo phận Huế” viết về con người của vùng đất này gồm ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên vốn là con cháu của những người dân thuộc Thanh Hóa, Nghệ An đi theo các chúa Nguyễn trong các đợt Nam tiến trước đây. Theo sự nghiên cứu của Li Tana “vùng đất cực nam thoạt đầu đã được coi là nơi nhà Hậu Lê đầy các phạm nhân. Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí viết là từ năm 1474, chính quyền nhà Lê quyết định đưa các phạm nhân tới vùng đất trước đây thuộc Champa. Kẻ nhẹ tội thì được đưa đến Thăng Hoa (vùng Thăng Bình trong tỉnh Quảng Nam). Tội nặng hơn được đưa đến Tư Nghĩa (Quảng Ngãi), Hoài Nhơn (Quy Nhơn, Bình Định ngày nay) là vùng đất xa nhất để đày tù nhân”. (Xứ Đàng Trong, Lịch sử Kinh tế - Xã hội Việt Nam Thế kỷ 17 và 18, Nhà xb. Trẻ 1999, trang 29).

Nếu Thuận Hóa được xem là một vùng đất đầy bất trắc, bấp bênh về một số lãnh vực như sự khẳng định của Li Tana (trang 38), thì việc chấp nhận định cư trên vùng đất ấy cũng nói lên tính can trường của người dân địa phương trước thử thách cùng với sự thiết lập chính quyền tại đây qua các đợt di dân ngày càng nhiều hơn với mục đích rõ ràng. Sử gia Trần Văn Giàu cũng từng cho biết “tính dọc ngang” của người dân Ngũ Quảng (Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức [Thừa Thiên], Quảng Nam, Quảng Ngãi góp sức mạnh cho các cuộc Nam tiến về sau (Trần Văn Giàu, Nam Bộ xưa và nay, 1999, trang 161). Người Huế là dân Đàng Trong vốn là những người có tư tưởng tự do, có “óc tò mò và cởi mở đối với những cái mới, với những tư tưởng mới, tính hồn nhiên và khoáng đạt hơn, thái độ không mấy dễ dàng để mình bị ràng buộc bởi lịch sử và truyền thống” (Li, Tana, Sách đã dẫn, trang 217). Đây cũng là những đức tính mà người dân ba tỉnh Bình Trị Thiên nói chung chấp nhận tinh thần Ki Tô Giáo từ những năm đầu thế kỷ XVII khi hạt giống phúc âm được các vị giáo sĩ Dòng Tên đến gieo vãi.

Tuy nhiên, đọc sách của Lê Ngọc Bích, người Công Giáo Bình Trị Thiên đã phải chịu biết bao đau khổ, nhục nhằn trong các cuộc bắt đạo của chín đời chúa, mười ba đời vua nhà Nguyễn, có lẽ nhiều người cũng như ông Nguyễn Gia Kiểng đã từng tự hỏi và đưa ra một lời giải đáp qua những dòng chữ sau đây: “Mặc dầu bị bách hại đẫm máu họ đã không vùng lên chống lại chính quyền, trong khi đó là một phản ứng tự vệ rất bình thường… Người Công Giáo ở Miền Bắc lúc đó rất đông đảo chiếm hơn 10% dân số, lại rất tập trung và rất gắn bó. . Nếu họ nổi loạn, nhờ người Pháp huấn luyện và giúp khí giới, họ đủ khả năng đánh bại được quân nhà Nguyễn lúc đó rất suy yếu về cả vật chất lẫn tinh thần. Một viên thiếu úy với bảy tên lính Pháp đã có thể nghênh ngang vào tỉnh Ninh Bình, bắt tất cả tuần phủ, án sát trói lại, tịch thu mấy chục khẩu đại bác, bắt quân Việt Nam hạ khí giới quỳ hai bên đường. Người Công Giáo, nếu muốn, thừa sức đánh bại thứ quân đội vô dụng đó. Nhưng họ vẫn chịu đựng thà chết vì đức tin chứ không nổi loạn. Ở vào thời buổi đó, đâu đâu cũng có nổi loạn, nhưng những người Công Giáo, có lý do nhất và có khả năng nhất để nổi loạn, lại không nổi loạn. Cái gì đã khiến người Việt Nam theo đạo Công Giáo đông đảo như vậy? Đó chính là thông điệp Ki-Tô. Vào buổi nhiễu nhương, con người chà đạp và chém giết lẫn nhau, còn gì an ủi hơn là được nghe một thông điệp hòa bình, bác ái, là được nghe những lời nhắn nhủ “ai thương xót người ấy là phúc thật, ai chịu khốn khổ vì lẽ phải ấy là phúc thật.” (Nguyễn Gia Kiểng, Tổ Quốc Ăn Năn, Paris, 2001, trang 193).

Vả lại Tin Mừng Mát-thêu đã viết: “Khi người ta bách hại anh em trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác.” (Mát-thêu 10: 25, Sách đã dẫn, trang 91). Và sách Tin Mừng Lu-Ca cũng đã dạy: “Người ta sẽ tra tay bắt và ngược đãi anh em, nộp cho các hội đường và nhà tù, và điệu đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy. Đó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy.” (Kinh Thánh Tân Ước, Nhóm Phiên dịch Các giờ kinh phụng vụ, Lu-ca 21: 12-13, 1994, trang 360). Kinh nghiệm giữ đạo của các Ki-Tô hữu thế kỷ I-II ở Rô-ma cho người giáo hữu Việt Nam một đường lối áp dụng đó là  đoạn Tin Mừng Mát-thêu nói trên. Các hang toại đạo (Catacomb) ở Rô ma như Callixto với những đường hầm bí mật để giáo dân và các dự tòng có thể lên xuống hội họp, ngày nay trở thành các địa điểm du lịch hấp dẫn nhiều triệu du khách trên thế giới chứng tỏ tinh thần nhẫn nại chịu đựng của người Công Giáo để giữ vững đức tin của mình.

Nhận định về các sự ngược đãi (stimulus of penalizations) của các chính quyền đối với Thiên Chúa giáo, sử gia Nguyễn Thế Anh (vốn là thầy dạy của tôi và của Lê Ngọc Bích, Trần Vinh Anh và Nguyễn Lý Tưởng tại Trường Đại Học Văn Khoa Huế) đã viết rằng: “Thiên-chúa-giáo khi còn âm thầm hoạt động trong bóng tối, đã có một sinh hoạt cường mạnh gấp ngàn lần khi được chính thức nhìn nhận, đó là nhờ ở sự ngược đãi của các hoàng đế La Mã.” Và cũng theo vị sử gia này “… thử thách càng mạnh thì đáp ứng lại càng linh động. Nhưng sự kiện này cũng chỉ đúng đến một giới hạn nào đó mà thôi, chứ thử thách quá đáng thì cũng sẽ không đáp ứng nổi.” (Nguyễn Thế Anh, Nhập môn phương pháp sử học, Sài Gòn, 1974, trang 19).

Và ở một đoạn khác, sử gia Nguyễn Thế Anh ghi tiếp: “Thiên-chúa-giáo là một tôn giáo lịch sử: tín ngưỡng của nó đòi hỏi phải tin tưởng rằng những biến cố xảy ra trong đời Gia-Tô phải có thật, phải đã là những sự kiện lịch sử xảy ra trong thời gian và trong không gian, vì đây là sự can thiệp của Đức Chúa Trời trong lịch sử nhân loại để cứu nhân loại. Cho nên Thiên-chúa-giáo sẽ không bao giờ hờ hững với các vấn đề lịch sử: tín đồ của đạo này, cũng như kẻ thù của nó phải biện hộ cho nó, hay đả kích nó trên bình diện lịch sử, với những bằng chứng lịch sử, nghĩa là phải đặt câu hỏi xem các bằng chứng của tín ngưỡng truyền thuyết Thiên-chúa-giáo có giá trị lịch sử hay không.” (Nguyễn Thế Anh, Sách đã dẫn, trang 14).

Sự dấn thân của Lê Ngọc Bích vào việc nghiên cứu lịch sử Công Giáo bao gồm hai thái độ tinh thần mà sử gia H. I. Marrou gọi là óc phê bìnhcảm tình. “Óc phê bình là đức tính đầu tiên mỗi người nghiên cứu sử cần phải có. Là một ngành học đi tìm chân lý, sử học phải là một khoa học phê bình: sử gia có phận sự phát giác những điều sai lầm, nhhững sự gian dối, những điều thiếu sót trong sử liệu. Nhưng đức tính thứ hai, cảm tình, sẽ bổ túc cho đức tính thứ nhất ấy. Sự hiểu biết bắt buộc phải có một phần lớn đồng tâm đồng ý giữa sử gia và sử liệu; sử gia phải có cảm tình với sử liệu để có thể hiểu sử liệu.” (Nguyễn Thế Anh, Sđd, trang 55).

Hai tập Nhân Vật Giáo Phận Huế gồm rất nhiều câu chuyện về đạo Công Giáo từ những ngày đầu tiên hạt giống Tin Mừng được gieo vãi tại đây, qua những năm tháng phát triển rồi chịu biết bao sóng gió thử thách trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc. Tác giả Lê Ngọc Bích đã chịu khó tìm tòi sử liệu, đọc và tham khảo nhiều sách vở, vùi đầu trong các thư viện, tìm hỏi nhiều nhân chứng. Một điểm đặc biệt là giữa trào lưu của kỹ thuật số trong thời đại hiện nay, Lê Ngọc Bích vẫn không biết sử dụng máy computer mà nỗ lực cặm cụi viết tay như các tác giả mấy chục năm về trước, hết cuốn sách này đến cuốn sách khác, bày tỏ lòng kiên nhẫn đến cùng.

Nhân vật khởi đầu cho tập I là một bậc mệnh phụ phu nhân, Bà Maria Mađalêna Minh Đức Vương Thái Phi, vị đứng đầu các bà “Phi của chúa Nguyễn Hoàng. Nhà văn Phạm Đình Khiêm đã có một tác phẩm nổi tiếng giá trị sưu khảo về cuộc đời của bà này nhan đề “Minh Đức Vương Thái Phi, lịch sử khai nguyên Công Giáo Việt Nam”, (Sài Gòn 1957). Bà Minh Đức Vương Thái Phi theo đạo Công Giáo khi bà 45 tuổi (khoảng năm 1625), là mẹ của hoàng tử Phúc Khê, và là chỗ dựa của giáo đoàn Châu Hóa. Bà sống thọ ngoài 80 tuổi. Hồi ký của Cha Đắc Lộ viết khá nhiều về cuộc sống thánh thiện của bà.

Trong tập I, Lê Ngọc Bích có viết về cha Đắc Lộ nhưng chỉ thuần viết về các hoạt động mục vụ của ngài mà không đề cập tới các tài liệu giáo lý như “Phép giảng tám ngày” là một cuốn sách vô cùng quan trọng, cũng như các nỗ lực nghiên cứu đóng góp vào việc hình thành chữ Quốc ngữ. 

Đọc sách của Lê Ngọc Bích, độc giả theo dõi những sự đau thương của Giáo Hội dưới thời cấm đạo của vua chúa triều Nguyễn, chẳng hạn những gian lao vất vả của biết bao mục tử như Giám Mục Sohier (tên Việt là Bình), Giám mục Cuénot (Thể), sự giúp đỡ tận tình của các giáo hữu đối với các đấng chủ chăn, sự khôn ngoan của các linh mục như linh mục Mactino Nguyễn Văn Thanh (1802-1869) đã đóng vai phu gánh quan tài, người gánh nước mướn để đi nơi này qua nơi khác dò xét tình hình bắt đạo để báo cáo cho các đấng bề trên v.v… Hơn bảy trăm trang sách của Lê Ngọc Bích qua hai tập Nhân Vật Giáo Phận Huế đã cung cấp cho người đọc hình ảnh sinh động của một Giáo Hội Công Giáo trên dãi đất Miền Trung tuy nghèo nàn vật chất nhưng lúc nào cũng sẵn sàng mến thương đùm bọc những người đau khổ. 

Đọc những trang sách viết về “Giáo dân Thế kỷ XX” khởi đầu là các ông Hường Tế, Hường Chức, Hường Thuyền vốn là các cháu nội của vua Minh Mạng, người được các sử gia Công Giáo gọi là “Néron Việt Nam”, vua Minh Mạng đã độc ác nhúng tay vào máu của các vị thánh tử đạo Việt Nam thì hậu duệ của ông lại có những người được hạnh phúc đón nhận Tin Mừng, trở thành những người tín hữu đạo đức, thánh thiện. Cuộc đời của cụ Ngô Đình Khả, TT Ngô Đình Diệm, Họa sĩ cung đình Tôn Thất Sa, Quận Công Nguyễn Hữu Bài, Nam Phương Hoàng Hậu, Thi sĩ Hàn Mặc Tử, Giáo sư Bùi Xuân Bào v.v… xuất thân từ Giáo Phận Huế nhưng mang tầm vóc Việt Nam mà tài năng đức độ đã tỏ rõ trên nhiều phương diện.

Nếu Thomas Carlyle đã có lý khi nói rằng : “Lịch sử thế giới, lịch sử của những gì con người đã thực hiện trên thế gian này, kỳ thực là lịch sử của những nhân vật đã hoạt động ở đây. Các đại nhân vật này là những lãnh tụ của những người khác, là những người nặn họ, là gương mẫu của họ, và theo một nghĩa rộng, là những người sáng tạo tất cả những gì mà khối lớn các con người đó đã có thể gắng sức sáng tạo nên hay đạt đến…” (On heroes and Heroworship. Dẫn theo Nguyễn Thế Anh, Sđd, trang 37) thì trong lãnh vực tôn giáo, những “đại nhân vật” ấy có thể xuất thân từ những giai tầng khác nhau trong xã hội, với những trình độ hiểu biết khác nhau, có thể có nhiều vị đến từ những phương trời xa lạ nhưng cùng chung một đức tin Công Giáo, đã đổ máu đào ra để làm chứng đức tin của mình, đã thực hiện những công việc tốt đẹp nhất trên mảnh đất hình chữ S vì sứ điệp yêu thương của Đức Ki-Tô.

Với tập sách thứ ba của Lê Ngọc Bích, cuốn Nhân Vật Công Giáo Việt Nam thế kỷ XVIII-XIX-XX in theo khổ sách bình thường 14x20cm gồm 710 trang với hình bìa thật vừa mắt mà bức ảnh mờ Nhà thờ đá Phát Diệm làm bối cảnh với cảnh chim vạc thường thấy trên trống đồng cho biết giá trị thoạt nhìn của tác phẩm và dòng chữ “Lưu hành nội bộ” được in rõ ở dưới. Bốn chữ này nhắc tôi một câu chuyện cũ, khi năm 1971, tôi đang chuẩn bị tư liệu để viết tiểu luận Cao học Sử học trình ở Đại Học Văn Khoa Huế, đề tài là chú dịch Vũ Man Tạp Lục Thư撫 蠻 雜 緑 書 , tác giả là cụ Ôn-Khê Nguyễn Tấn người đã tình nguyện về quê nhà, bình định được người Mọi Đá Vách ở Quảng Ngãi năm 1863 dưới triều vua Tự Đức. Sau cuộc đánh dẹp vất vả này, Nguyễn Tấn viết cuốn Vũ Man Tạp Lục Thư bằng chữ Hán, trong đó ghi lại đầy đủ địa lý vùng cao nguyên, chiến thuật, chiến lược, phong tục tập quán, ngôn ngữ, sông ngòi, khe suối vùng cao v.v… của ba tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Cụ Nguyễn Tấn cất dấu kỹ sách này trong nhà (bí vu gia 祕 于 家) và chỉ truyền cho con cháu mà thôi. Sau này con của cụ Nguyễn Tấn là Diên-Lộc Quận Công Nguyễn Thân dựa vào sách này mà xây dựng lực lượng Sơn Phòng Nghĩa Định, giúp ông trấn giữ được người Mọi là nhờ có cẩm nang (vade mecum) quý trong tay. Bốn chữ “Lưu Hành Nội Bộ” trên tác phẩm Nhân Vật Công Giáo Việt Nam Thế Kỷ XVIII-XIX-XX của Lê Ngọc Bích ngoài thủ thuật “qua mặt” sự kiểm duyệt khắt khe dễ ghét của nhà nước Cộng Sản Việt Nam, nhưng tác phẩm này cũng là bảo vật “bí vu gia”, và dĩ nhiên có đọc vào mới thấy và sách quý chỉ truyền đạt cho những người trong dòng tu, học viện hay cơ sở riêng biệt mà thôi. Người ngoài lại ở xa như tôi nhưng cũng được “đọc ké” kể cũng là một điều may. Tôi nghĩ rằng các cuốn sách của anh Lê Ngọc Bích, như cuốn này chẳng hạn, thuộc loại văn hóa samizdat (tự in ấn ngoài luồng) đối chọi lại gosizdat (nhà nước xuất bản), và tamizdat (tư liệu được đưa lậu vào Liên Xô), một loại hình văn hóa chỉ có sau bức màn sắt, - và nếu vậy thì cũng tội nghiệp cho những người cầm bút chân chính đạo đức như anh Lê Ngọc Bích và một số rất ít các tác giả khác còn trong nước. Trước đây tôi có theo dõi các ấn phẩm của Nhà xuất bản Giấy Vụn với những bài văn, thơ của Bùi Chát, Lý Đợi, Bùi Chí Vinh v.v. và mới đây với các tác phẩm của Nhà xuất bản Tự Do với Phạm Đoan Trang hay Nhà xuất bản Tri Thức của Tiến Sĩ Chu Hảo. Đây là những hình thức tự cởi trói của giới văn nghệ sĩ trước cường quyền bạo lực!

Với tác phẩm Nhân Vật Công Giáo Việt Nam thế kỷ XVIII-XIX-XX, phải thành thật nói rằng tôi đã đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, cũng như rất tâm thành chia xẻ với nhà thơ Lê Đình Bảng qua những dòng ông viết sau đây trong bài tựa “Đốt lò hương cũ” in đầu cuốn sách này: “Nay được đọc tập NHÂN VẬT CÔNG GIÁO VIỆT NAM – trong điều kiện ồn ã, trong khung cảnh xô bồ, tất bật của cơm áo gạo tiền - chẳng hiểu mình có thất lễ không? Dù sao trong muôn một, tôi xin cảm ơn Ông Lê Ngọc Bích đã dành cho kẻ vô danh này cái vinh dự to lớn mà đáng lẽ người ấy phải là một bậc thức giả có uy tín được trọng thị giữa làng. Tôi biết ông (xin lỗi) – trong buổi hoàng hôn sinh lão bệnh tử của đời người, trong những thiếu thốn quay quắt về kinh tế và cả trong nỗi cô đơn  của những người làm công việc văn hóa, của kẻ ngoại đạo trước computer - vẫn lặng lẽ miệt mài kiếm tìm, sao chép, viết lách… Nguyên một cái tình cảnh đa đoan, một nỗ lực bền bĩ “mài mực ru con” để viết và viết, ấy cũng quá đủ cho chúng ta ngả mũ chào." (trang 8).

Đối với tôi, mỗi trang sách là một gắn bó của tác giả với con đường đã chọn lựa, và với niềm tin tôn giáo đã được chắt chiu, gạn lọc qua thời gian cùng thử thách. Hơn bảy trăm trang sách, với hằng trăm nhân vật thuộc nhiều thế hệ và nhiều lãnh vực tài năng, thuộc đủ mọi đề tài, với những khám phá mới về con người, hình như chưa bao giờ Lê Ngọc Bích chịu dừng lại để thủ thường an phận như người ta thường nói “lão giả an chi”.

Tôi gặp thấy trong cuốn này nhiều vị giáo sư của mình đó là Linh Mục Nguyễn Phương, dạy môn Sử ở Đại Học Văn Khoa và Đại Học Sư Phạm, Linh Mục Sảng Đình Nguyễn Hy Thích dạy môn Hán Văn, Họa Sĩ cung đình Tôn Thất Sa dạy môn vẽ khi tôi còn ở trong Tiểu Chủng Viện Kim Long (Huế) nhưng tôi muốn dừng lại với một vị Giáo sư của Trường Đại Học Văn Khoa Huế (tuy không dạy tôi) nhưng tôi rất kính phục đó là Giáo Sư Đỗ Đình Thạch hay Pierre Đỗ Đình, với tôi là một nhân vật “kỳ bí” mà bây giờ, nhờ những trang sách của Bích, tôi được hiểu rõ hơn về thầy. Từ năm 1937, Pierre Đỗ Đình đã viết bài thơ bằng tiếng Pháp, Le Grand Tranquille, trong đó ‘ông nói lên sự luyến tiếc quá khứ văn hóa tôn giáo của ông, nhưng ông đã tìm được một niềm tin vững chắc.” (trang 177) Trong một đoạn được trích dẫn qua sách của Lê Ngọc Bích, tư tưởng của Pierre Đỗ Đình thật miên man khi ông đi tàu biển trở về quê hương VN năm 1932: “Nghe tiếng sóng ngày đêm, có lúc tôi tưởng mình là người thủy thủ. Nhưng tôi không phải là người đi câu cá. Tôi là con cá ở vực sâu. Mà Chúa Giêsu là người đi câu cá.” (trang 176, Bài “Ta là con cá” của Đỗ Đình trong tạp chí Đức Mẹ La Vang (Huế) số 1, tháng 8-1961, tr. 84-86). Ở trang 175, Lê Ngọc Bích cho biết: “Tại Pháp ông giao thân với nhiều danh sĩ như Daniel Rops, Léopold Dedar Senghor, nhà thơ nổi tiếng của Sénégal của Châu Phi.” Ông Senghor sau này từ 1960-1963, làm Tổng Thống Cộng hòa Sénégal (Châu Phi). Daniel-Rops (1901-1965) là Giáo sư sử học của Đại học Lyon, nhà văn và sử gia nổi tiếng của Pháp, Thành viên của Hàn Lâm Viện Pháp (Membre de l’Académie francaise, được bầu vào năm 1955), tác giả bộ sách gồm mười cuốn về lịch sử Giáo hội Công Giáo và rất  nhiều tác phẩm giá trị khác.

Một nhân vật khác tôi gặp trong cuốn sách này là Giáo sư Bùi Xuân Bào, Thứ Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục, Khoa trưởng Đại học Văn khoa Sài Gòn, người đã cùng chúng tôi bị bắt và đày ra trại tù Nam Hà (tỉnh Hà Nam Ninh) năm 1976 và có lần ở chung một buồng (buồng 1). Lúc bấy giờ tôi còn trẻ (khoảng 34 tuổi) và thấy Thầy Bào cũng đã lụ khụ, tôi thương cảm vô cùng tìm cách làm quen và được thầy cho mượn vài cuốn sách quý của Thầy để đọc. Có lần Thầy nói với tôi: “ Lúc này mà có bộ Histoire de L’Eglise của Daniel-Rops mà đọc lại thì thật tuyệt.” Năm 1978 Thầy được tha về vì bệnh tim đến thời kỳ trầm trọng (trang 167). Thầy sang Pháp điều trị bệnh và mất năm 1991 tại bệnh viện Villejuif, thọ 75 tuổi, nhắc lại câu nói cuối đời của Bernanos “Tout est grâce” (Tất cả đều là ân sủng).

Nếu những cuốn sách nói trên là các công trình nghiên cứu cá nhân thì với tác phẩm Giám Mục người nước ngoài qua chặng đường 1659-1975 với các giáo phận Việt Nam lại là một công trình mang tính tập thể do Lê Ngọc Bích (chủ biên) cùng Lê Đình Bảng và Lê Thiện Sĩ, do Nhà xuất bản Tôn giáo ở Hà Nội in năm 2009 gồm 480 trang có đề giá bán 40.000đ. Sách này là một bộ sưu tập gồm 126 vị Giám mục người nước ngoài mà cuộc đời và sự nghiệp đã hoàn toàn dâng hiến cho Giáo hội Công giáo Việt nam.

Lúc sinh thời Thánh Phaolô đã chọn Ti-mô-thê làm Giám mục và trong Thư 2 gửi ông này, thánh nhân đã viết: “Thiên Chúa đã đặt tôi làm người rao giảng Tin Mừng đó, làm tông đồ và thầy dạy… Vậy hỡi anh, người con của tôi, anh hãy nên mạnh mẽ trong ân sủng của Đức Ki-tô Giê-su. Những gì anh đã nghe tôi nói trước mặt nhiều nhân chứng, thì hãy trao lại cho những người tin cẩn, những người sẽ có khả năng dạy cho người khác. Anh hãy đồng lao cộng khổ như một người lính giỏi của Đức Ki-tô Giê-su.” (Kinh Thánh Trọn Bộ Cựu Ước và Tân Ước, Nhóm Phiên dịch Các giờ kinh phụng vụ, Nhà xb. TPHCM, 1999, trang 1537).

Trong Giáo Hội Công Giáo, Giám mục là người kế vị các Thánh Tông Đồ vốn do Chúa Giêsu chọn lựa. Thánh Augustino đã từng nói một câu về Giám Mục: “Vì anh chị em, tôi là giám mục; cùng với anh chị em, tôi là Ki-tô hữu.” (Vobis sum episcopus, vobiscum sum christianus) (Augustino, Sermo 340.1.)

Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong cuốn sách “Vượt qua ngưỡng cửa hy vọng” (Varcare la soglia della speranza tiếng Ý, bản tiếng Anh Crosssing The Threshold of Hope) với sự cộng tác của Vittorio Messori, có trích dẫn câu câu nói ở trên của Thánh Augustino với lời nhận định rằng “Suy nghĩ cho kỹ thì danh xưng Ki-tô hữu có ý nghĩa cao cả hơn danh xưng Giám mục, dù đó là Giám mục thành Rôma”  (bản tiếng Việt của Nguyễn Thanh Lượng & Trần Văn Trí, Phong Trào Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại, Cơ sở San Diego, CA, USA, trang 26). Một lời dạy về đức khiêm nhượng cho hàng giáo phẩm đã trở thành danh ngôn cho hết mọi người.

Nhờ công lao và nỗ lực của Cha Đắc Lộ, hàng giáo phẩm Việt Nam được thành lập năm 1659. 

Ngày 10-11-1659, Bộ Truyền Giáo khi cử hai giám mục đầu tiên Lambert de La Motte và Francois Pallu đến Đàng Trong và Đàng Ngoài, đã có chỉ thị rõ rệt như sau: “Các vị đừng tìm cách, đừng tìm lý lẽ để thuyết phục các dân tộc thay đổi nghi thức, tập tục và phong hóa của họ, ngoại trừ tất cả những gì rõ rệt trái ngược với tôn giáo và luân lý. Không có gì vô lý bằng đem nước Pháp, nước Tây Ban Nha, nước Ý Đại Lợi hay một nước Âu châu nào khác vào Trung quốc. Đừng đem đến cho các dân tộc ấy xứ sở của quý vị, mà chỉ đem đến đức tin, một đức tin không chối từ cũng không làm tổn thương các nghi thức, các tập tục của bất cứ một dân tộc nào, miễn là tất cả những cái đó không có gì là xấu, mà trái lại, đức tin của chúng ta muốn người ta cứ duy trì và bảo vệ các thứ đó. Có thể nói rằng tự bản chất con người luôn quý trọng, yêu mến và trân trọng tập tục của xứ sở mình hơn hết. Vậy nguyên nhân gây nên xa cách và hận thù là tìm cách thay đổi tập tục riêng của mỗi dân tộc, nhất là những tập tục đã có lâu đời. Vậy việc gì sẽ xảy ra, nếu các vị xóa bỏ các tập tục đó để thay thế bằng tập tục của xứ sở của các vị, đưa từ ngoài vào? Đừng bao giờ so sánh tập tục của các dân tộc đó với các tập tục của các nước Âu châu. Trái lại các vị hãy tìm cách làm quen với những tập tục đó. Hãy chiêm ngưỡng và tán dương những gì đáng tán dương. Những gì không đáng ca ngợi, nếu không nên ca ngợi om xòm như những kẻ nịnh hót, thì cũng nên khôn ngoan đừng phê phán hay đừng bao giờ kết án một cách thiếu suy xét hoặc quá đáng.” (Nguyễn Thái Hợp, O.P., Đường vào Thần học về Tôn giáo, Định Hướng Tùng Thư xb., 2004, trang 10).

Đọc tác phẩm Giám Mục Người Nước Ngoài… của ba tác giả họ Lê, chân dung mỗi vị Giám Mục được khắc họa với những nét khác nhau nhưng không đi ra ngoài những lời căn dặn của Thánh Phaolô với Giám mục Ti-mô-thê, câu nói của Thánh Augustino và nhất là với chỉ thị rõ rệt căn bản nói trên của Bộ Truyền Giáo ở Rôma. 

Thật vậy, những lời tha thiết trong Thư 2 gửi Ti-mô-thê cũng là những thúc giục khôn ngoan của vị Tông Đồ cột trụ của Giáo Hội buổi sơ khai, đã trở thành những chỉ dẫn khích lệ cho các giám mục ngoại quốc trên bước đường truyền giáo ở Đông phương, dạy họ phải là “người lính giỏi của Đức Ki-tô”.

Ngoài ra những lời khôn ngoan tha thiết của Bộ Truyền Giáo từ thế kỷ XVII khi thiết lập hàng giáo phẩm Việt Nam (1659) đã là cẩm nang hành động của các vị Giám Mục mà khả năng đa diện của họ đã giúp cho đất nước Việt Nam trong nhiều lãnh vực văn hóa, tôn giáo, kinh tế, xã hội v.v…từ đó cho đến ngày nay.

Tinh thần dấn thân rõ rệt nhất đối với các vùng truyền giáo là các linh mục, giám mục đã tự chọn cho mình một tên Việt Nam, dấu chỉ hội nhập văn hóa nặng ký nhất của các ngài.

Về phương diện văn hóa, người ta không thể phủ nhận công ơn của các vị linh mục, giám mục đối với việc hình thành chữ Quốc ngữ, một công trình để đời cho dân tộc Việt Nam, một cố gắng mà ngay cả các dân tộc Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên dù muốn lúc bấy giờ mà không thể thực hiện được. Những nhà truyền giáo tiên khởi như Lm Francisco de Pina, Buzomi, Borri rồi sau này Lm Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ), Giám mục Pigneau du Béhaine (Bá Đa Lộc), Giám Mục Taberd (tên Việt là Từ) v.v…đã nỗ lực học tiếng Việt, chữ Hán và nhất là chữ Nôm để giảng đạo, viết sách giáo lý, tổ chức các công tác mục vụ, xây dựng giáo đường, trường học, bệnh viện, nghiên cứu văn hóa Việt Nam, đã để lại nhiều công trình văn học đáng kể như các sách tự điển Việt, Bồ, La, các sách nghiên cứu văn học, lịch sử v.v… Các vị thừa sai đã không coi chữ Nôm là “nôm na mách qué” mà chịu khó học và viết, không như các Văn thân trong phong trào “Bình Tây Sát Tả” khinh người, ngạo mạn và dốt nát đến độ viết sai chữ (Giê-su), hiểu sai nghĩa giáo lý Công Giáo (thuyết tam phụ, xem Trần Văn Toàn, Đạo trung tùy bút, Nhà xb. Tôn Giáo, 2008, trang 90-113 và 203).

Về văn học, Đức Cha Jean Baptiste Louis Taberd (tên Việt là Từ) đã để lại một cuốn tự vị trong đó có sự cộng tác của Thánh Philipphê Phan Văn Minh đó là cuốn Nam Việt Dương Hiệp Tự Vị (Dictionarium Anamitico-Latinum in năm 1838 tại Serampore (Calcutta ?). Qua sự trao đổi với Giáo sư Ngô Thanh Nhàn dạy Hán Nôm tại Đại Học New York, tôi được biết sách này hiện được lưu giữ tại Thư viện Vatican. Giáo sư Trần Văn Toàn cho biết sách tự vị này là bản cũ của Giám mục Bá Đa Lộc soạn những năm 1772-1773 nhưng chưa xong hẳn. Đức Cha Bá Đa Lộc còn soạn một cuốn tự vị khác Hán-Việt-Latinh gồm hơn 900 trang.

Về tôn giáo và xã hội, các vị giám mục thừa sai đã đem đến cho dân tộc Việt Nam một tặng phẩm tinh thần là đạo Công Giáo đã và sẽ biến đổi đất nước và nhân dân này thành mỗi ngày một tốt đẹp hơn nhất là các ngài đã thể hiện tinh thần yêu thương giữa các cộng đồng dân tộc mà trường hợp Đức Cha Jean Baptiste Cassaigne là một tấm gương điển hình (trang 135-140). Năm 1929 cha lập làng phong Di Linh mời 21 người phong đến ở, rồi cha học tiếng Kơ Ho, biên soạn cuốn Từ điển Kơ-HoPháp Việt, lập họ đạo Công Hinh ở Bảo Lộc, giáo xứ Kala dưới chân núi Yan Doan. Năm 1941, cha được bổ nhiệm làm Giám mục Đại diện Tông Tòa ở Địa phận Sài Gòn, tiếp đón gần một triệu người di cư ở Bắc vào Nam trong đó đa số Công Giáo, khiến cho dân số giáo phận này từ 137.000 lên 500.000 người. Đức Cha bị lây nhiễm vi trùng Hansen và năm 1955 ngài xin Tòa Thánh nghỉ hưu. Đức Cha Cassaigne trở lại với làng cùi Kala và sống yêu thương giúp đỡ những người bất hạnh, chia xẻ với họ cho đến ngày 31-10-1973 thì ngài qua đời.

Các vị thừa sai giám mục là những nhà trí thức dấn thân, đã chuẩn bị học tiếng Việt, học nghề in, mua máy móc ở quê nhà trước khi lên đường sang truyền giáo ở Việt Nam, như trường hợp Đức cha Jacques de Bourges (tên Việt là Gia, trang 207), Đức cha Jacques Benjamin Longer (cũng tên Việt là Gia, trang 225) lập nhà in, cho khắc chữ Nôm rồi in sách đạo, thay các bản khắc gỗ bằng chữ rời, dựng nhà máy cắt và đóng sách, dạy kỹ thuật đúc và khắc chữ bằng đồng hay bằng chì, có vị như Giám mục Joseph Theurel phải sống dưới hầm nhiều năm mà soạn được cuốn “Tự vị Annam-Latinh” bổ sung cho cuốn tự điển của Đức Cha Taberd, rất nổi tiếng. Nét đặc biệt trong công tác mục vụ của các vị Giám mục Thừa sai là biên soạn các sách giáo lý để dạy dỗ cho giáo dân, như Đức Cha Joseph Theurel là tác giả “Sách lễ chữ Đỏ” (Kẻ Sở 1905), ngài còn dịch cuốn “Vũ trụ học” của Desdouits, bộ “Phụng vụ thực hành” của Falise (trang 240).

Nói chung các vị giám mục đều để lại nhiều sách soạn về giáo lý, thần học, văn học, lịch sử, ngôn ngữ, lập các chủng viện, các dòng tu nam nữ để đào tạo đội ngũ những người lo việc nhà Chúa, khuyến khích nhiều vị lo công tác ngoài xã hội như lập trường học, nuôi trẻ cô nhi, lo cấp dưỡng cho người già neo đơn, tàn tật bị xã hội bỏ bê quên lãng, có trách nhiệm giáo dục hướng dẫn giáo dân làm việc lành, việc thiện, chống các bất công và tệ đoan xã hội, tuân thủ pháp luật quốc gia, xã hội. Cuốn sách Giám Mục Người Nước Ngoài…” của ba tác giả họ Lê đề cập tới 126 vị giám mục ngoại quốc đã sống những cuộc đời hy sinh vì lý tưởng Công Giáo, vì môi trường xã hội VN trong suốt hơn 350 năm qua thật sự là một cuốn sách bổ ích, rất đáng đọc của mọi người Công Giáo Việt Nam, hơn nữa rất nên có trong các tủ sách gia đình của các bậc thức giả dù thuộc tôn giáo nào.

4.- TÌNH SƯ ĐỆ TRONG KHUNG CẢNH ĐẠO HẠNH CỦA MIỀN NAM.

Nếu trong phần mở đầu của bài viết này, tôi đã nói lên niềm tri ân chân thành đối với TT Ngô Đình Diệm trong việc thành lập Viện Hán Học Huế trong năm 1959, mà chúng tôi cùng anh Lê Ngọc Bích và một số thân hữu có cơ hội thấm nhuần Hán học, thì cuốn sách Sưu tập Thơ-Văn-Nhạc-Họa của Linh mục SẢNG ĐÌNH NGUYỄN VĂN THÍCH của Lê Ngọc Bích in tại Sài Gòn năm 2003, “Lưu hành nội bộ” được coi như là một nén hương anh dâng lên để tưởng niệm một Vị Thầy đã khuất, một bậc chân tu, “là nghĩa tình của các môn sinh đối với người Thầy của mình” và một “hiền nhân của thời đại” (Nguyễn Lý Tưởng, Tam nguyệt san ĐỊNH HƯỚNG, số 6 Mùa đông 1994). Đây là một tác phẩm khổ lớn, hình bìa màu trắng trang nhã với bức tranh thủy mạc vẽ dòng suối nhỏ từ trên cao đổ xuống (chắc là tranh vẽ thác Bạch Mã) cùng với bốn chữ Hán viết theo lối chữ thảo Cao sơn lưu thủy 山 流 水 ở trang bìa trước và bìa sau là một bài thơ chữ Hán do thủ bút của Linh Mục Sảng Đình. Toàn bộ tập sách gồm 335 trang.

Đây là một cuốn “tập đại thành” viết về Linh mục Sảng Đình có lẽ tác giả đã tham khảo tập Sảng Đình Thi Tập của Giáo Sư Đoàn Khoách vốn cũng môn sinh và là người nhà của cha Thích được ấn hành tại California năm 2001. Trong cuốn Sảng Đình Thi Tập của Giáo sư Đoàn Khách, chúng tôi thấy có rất nhiều bài thơ bằng chữ Hán được in lại trong nguyên bản và chú thích so với cuốn sách của Lê Ngọc Bích. Cả hai cuốn sách này đều đề cập đến cuộc đời và sự nghiệp của Linh mục Sảng Đình Giuse Maria Nguyễn Văn Thích (1891-1978).

Linh mục Sảng Đình Nguyễn Văn Thích sinh giờ sửu (13 giờ đến 15 giờ) ngày 20 tháng 8 năm Tân mão (1891) tại làng An Thái, phủ An Nhơn, tỉnh Bình Định, khi than phụ ngài là cụ Phó bảng Tiểu Cao Nguyễn Văn Mại làm Tri phủ tại Bình Định. Mẹ ngài là bà Thân Thị Vỹ, con gái cụ Thân Trọng Đôn, người làng An Lỗ. huyện Phong Điền, Thừa Thiên, thuộc dòng thế phiệt trâm anh tại Huế. Cụ Nguyễn Văn Mại vốn gốc láng Niêm Phò (tục gọi làng Kẻ Lừ), tổng Phước Yên, huyện Quàng Điền, Thừa Thiên, là một nhà khoa bảng đã có nhiều công lao trong chốn hoạn trường thời nhà Nguyễn và nhất là đã góp công điều hành trường Quốc Học Huế trong giai đoạn sơ khởi của cơ sở giáo dục này.

Thuở nhỏ, Linh mục học chữ Hán với thân phụ, lớn lên theo đòi Nho học nhưng vì lận đận chốn trường ốc (hai lần thi rớt trường ba nên bỏ thi Hương) đành giã từ cái học nhà Nho đề theo đòi Tân học. Thời thanh niên, linh mục theo học tại trường Quốc Học và trường Pellerin của Dòng Sư Huynh Thiện Giáo tại Huế, tốt nghiệp Trung Học và Sư Phạm, được bổ Trợ giáo Pháp Việt trường tỉnh Khánh Hòa trong tháng 2 năm 1911. Ngày 29-61911, Sảng Đình trở lại đạo Công Giáo, chịu phép rửa tội tại nhà thờ Bình Cang (Nha Trang) mặc dù cụ thân sinh của ngài là Nguyễn Văn Mại phản đối với những biện pháp quyết liệt. Sau đó Sảng Đình xin đi tu tại Tiểu Chủng Viện An Ninh (Cửa Tùng, Quảng Trị) và được phong chức thánh linh mục ngày 18-12-1926.

Với sở trường là nghề dạy học nên linh mục Nguyễn Văn Thích được giáo quyền cử làm giáo sư tại các trường Công giáo ở Huế như Trường Dòng Thánh Tâm, Trường Providence (Thiên Hựu) và năm 1937 làm giáo sư Tiểu Chủng Viện An Ninh, Quảng Trị. Năm 1942, ngài được điều về làm tuyên úy Trường Pellerin (Bình Linh), rồi Tổng tuyên úy Hướng Đạo Toàn Quốc.

Năm 1946, cha Thích làm chánh xứ Xuân Long (Huế). Ngài được giáo quyền ủy thác chuyên trách về giáo dục thiếu nhi, lập dòng “Ả Vườn Trẻ” mà lý thuyết được ngài trình bày trong sách L’ éducation Des Sens. Linh mục thiết lập Vườn Trẻ Hương Linh ở phía tay mặt trường Bình Linh. Từ năm 1959, linh mục Nguyễn Văn Thích dạy chữ Hán ở Viện Hán Học Huế và Trường Đại học Văn khoa mà chúng tôi là môn sinh của ngài.. Năm 1970, ngài về hưu trí nhưng vẫn tiếp tục dạy học tại Viện Đại Học Huế và Viện Đại Học Sài Gòn. Ngày 10-12-1978, linh mục Nguyễn Văn Thích qua đời và được an táng trên núi Thiên Thai.

Thuở sinh thời, linh mục Nguyễn Văn Thích sáng lập và làm chủ bút báo VÌ CHÚA là tuần báo tam ngữ Việt-Hán-Pháp số đầu ra ngày 18-9-1936, đăng đủ mọi bài các thể loại, có sự cộng tác của cụ Phan Bội Châu lúc này bị giam lỏng tại Huế. Tuần báo VÌ CHÚA được phát hành khá sâu rộng nhất là tại các tỉnh miền Trung và đã sống đến năm 1945 mới tự đình bản. Nhờ cơ quan ngôn luận này, các hoạt động tôn giáo, văn hóa được triển khai và nảy nở tốt đẹp.

Khi viết báo, linh mục Nguyễn Văn Thích thường ký tên J.M.T hoặc J.M.Thích hoặc Kẻ Lừ trên các bài luận văn, tạp thuyết. Trong khoảng năm 1945-1946, tạp chí Tổ Quốc xuất bản ở Huế cũng được cha Nguyễn Văn Thích cộng tác thường xuyên. Một số các tạp chí khác như nguyệt san Vinh-Sơn do linh mục Nguyễn Văn Lập (1911-2001) chủ trương từ năm 1949-1958 tại Huế và nguyệt san Nguồn Sống, khoảng năm 1958-1961 của giáo phận Huế cũng được linh mục Sảng Đình cộng tác rất nhiệt thành. Ngoài ra ngài cũng thường xuyên viết bài cho Cổ học quý san vốn là cơ quan ngôn luận của Hội Cổ Học được thành lập tại Huế.

Ngoài kỹ năng làm báo, linh mục Nguyễn Văn Thích còn là một họa sĩ có tài. Tại Tòa Giám Mục Huế hiện còn trưng bày bức họa “Từ Mẫu” (Mater Misericordiae) do ngài vẽ. Các bức họa như Thác lớn Bạch Mã, hoặc bức tự họa Trầm ngâm chiếc bóng dựa bên tường (báo VÌ CHÚA số 144, ra ngày 12-11-1939 đã để lại nhiều ấn tượng trong lòng người xem. Ngoài ra ngọn bút tài hoa của ngài còn toát lộ trong rất nhiều câu đối bằng chữ Hán ngài viết tặng các giáo đường, các đại chủng viện như ở nhà thờ Tam Kỳ (Quảng Nam), đại chủng viện Xuân Bích (Huế), thí dụ hai câu tặng cho cơ sở này như:

Hậu ngô chi sanh giáng thế cánh thành ngô thánh lữ,

Bảo ngã dĩ đức tuẫn thân hoàn tác ngã thần lương.

 

厚 吾 之 生 降 世 更 成 吾 聖 旅

保 我 以 德 殉 身 還 作 我 神 糧

Dịch nghĩa là:

Vì rộng lòng thương chúng tôi Người đã sinh xuống thế mà trở nên bạn thánh đồng hành với chúng tôi.

Để nuôi sống chúng tôi Người đã hiến thân hy sinh mà làm nên lương thực (thần lương) cho chúng tôi.

 

Câu đối tặng nhà thờ Tam Kỳ như sau:

 

Thế giới đại đồng Thiên tác chủ

Tam kỳ hợp nhất Đạo vi quy.

 

世 界 大 同 天 作 主

三 期 合 一 道 爲 規

 

Dịch nghĩa là:

Thế giới này có đại đồng thì (do) Trời làm chủ,

Tam kỳ có hợp nhất thì (phải lấy) Đạo làm quy củ, phép tắc.

 

Trong lãnh vực thư pháp, nhiều người nhắc nhở đến nét bút rồng bay phượng múa của Linh mục Nguyễn Văn Thích và cho rằng nét bút của ngài không thua kém thủ pháp của tay đại danh bút Trung Hoa Vương Hy Chi đời nhà Tống. Trong một bài viết đăng trên báo Xuân Tuổi Trẻ cách đây mười mấy năm, Hoàng Phủ Ngọc Phan đã có nhắc đến một bức tranh thư pháp viết chữ Mẫu của linh mục Nguyễn Văn Thích tặng một gia đình hiện còn lưu giữ ở Pháp.

Thêm một tài năng nữa của linh mục Nguyễn Văn Thích là âm nhạc. Linh mục có thể sử dụng được các nhạc cụ dân tộc như đàn tranh, đàn bầu, sáo trúc, thong hiểu các thể loại dân ca miền Trung, đặc biệt là của Huế như các điệu đăng đàn cung, lưu thủy, hành vân, tứ đại cảnh. Linh mục cũng chơi thạo các nhạc cụ Tây phương như đàn violon, dương cầm, harmonium. Một số bài hát mang tính tôn giáo như bài Magnificat ca tụng Đức Mẹ được cha phổ nhạc, các bài Trời cao đất thấp gặp nhau, Bao giờ tôi được lên trời, Mười lăm cái mến, Lạy Đức Mẹ La Vang được nhiều người biết đến. Có những bài hát của linh mục Nguyễn Văn Thích mang tính giáo dục cao như bài Cái nhà là nhà của ta đã được đài BBC giới thiệu đế trong chuyên mục “Lịch sử âm nhạc Việt Nam qua các thời đại”. Nhiều bài hát về Hướng Đạo như bài Nguồn Thật, Chim Bay, Cầm Tay… do Cha sáng tác cũng được phổ biến khắp nơi.

Với cuốn sách viết về Linh Mục Sảng Đình Nguyễn Văn Thích, tác giả Lê Ngọc Bích đã phân chia rõ ràng sự nghiệp văn chương của Cha qua bốn phần đó là thơ, văn, nhạc, họa mà trong lãnh vực nào Ngài cũng tỏ ra rất là tài hoa. Tác phẩm này đã giúp cho các nhà nghiên cứu cùng bạn đọc tiếp cận được với các tư liệu cần thiết, thí dụ những bài văn của linh mục đăng trong báo VÌ CHÚA hay các tạp chí khác mà sách Sảng Đình Thi Tập của Giáo sư Đoàn Khoách đã không có.

Một giai thoại văn chương cũng được coi là giai thoại bang giao giữa VNCH với Đài Loan có liên hệ tới Linh mục Nguyễn Văn Thích đã được Lê Ngọc Bích (trang 132), GS Nguyễn Lý Tưởng (Định Hướng số 6 – 1994), GS Ngô Văn Lại (Đặc san 50 năm Viện Hán Học, trang 147-48) kể lại trong một số bài viết trước đây.

Năm 1958 người cháu 76 đời của Khổng Tử là Khổng Đức Thành được chính quyền của TT Ngô Đình Diệm mời sang thăm Sài Gòn, được Tổng Thống tiếp kiến, được Tổng hội Cổ học tiếp đãi long trọng do đó năm 1959 phía Đài Loan đáp lễ bằng cách mời Ban Trị sự Tổng hội Cổ học VN tham quan Trung Hoa Dân Quốc. Về phía Việt Nam Cộng Hòa có 3 nhà Nho nổi tiếng là Cụ Tiến sĩ Nguyễn Huy Nhu, Hội trưởng hội Khổng học Việt Nam, Cụ Cử nhân Lương Trọng Hối, Niên trưởng Quốc hội và Linh mục Nguyễn Văn Thích. Trong dịp này phía Đài Loan cũng nhiều vị học giả tiếng tăm như Hồ Thích, giáo sư đại học, triết gia, Hoàng Quý Lục, Quán trưởng Quốc sử quán, linh mục Phương Hào, giáo sư đại học, chủ tịch Hội Sử học Đài Bắc…Trên bàn tiệc có nhiều món ăn nhưng đặc biệt có món đề tên “Giá cô” tức chim đa đa, Linh mục Sảng Đình Nguyễn văn Thích chợt nhớ đến bài thơ “Qua Đèo Ngang” của bà Huyện Thanh Quan (Nguyễn Thị Hinh) bằng quốc âm:

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,

Cỏ cây chen đá lá chen hoa.

Lom khom dưới núi tiều vài chú,

Lác đác bên sông chợ mấy nhà.

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Dừng chân đứng lại trời, non, nước,

Một mảnh tình riêng ta với ta.

 

Mượn ý của bài thơ trên, Linh mục Sảng Đình đã dịch ra bằng một bài thơ chữ Hán như sau:

 

Bộ đáo Hoành quan nhật dĩ tà,

Yên ba gian thạch, thạch gian hoa.

Tiều qui nham hạ ta ta tiểu,

Thị tập giang biên cá cá đa.

Đỗ vũ tâm thương thanh quốc quốc,

Giá cô hồn đoạn tứ gia gia.

Đình đình trữ vọng thiên, sơn, hải,

Nhất phiến cô hoài ta ngã ta.

 

步 到 橫 關 日 已 斜

煙 波 間 石 石 間 花

樵 歸 巖 下 些 些 小

市 集 江 邊 个 个 多

杜 宇 心 傷 聲 國 國

鷓 鴣 魂 斷 思 家 家

亭 亭 佇 望 天 山 海

  一 片 孤 懷 嗟 我 嗟 

 

Bài thơ đó, với lời dẫn giải của Linh mục làm cho các vị lãnh đạo trong chính phủ Đài Loan rất hoan hỉ và khen ngợi. Linh mục đã viết bài thơ lên phía sau thực đơn và chuyển trên bàn tiệc cho mọi người cùng xem.

 

Ngoài ra, Linh mục Nguyễn Văn Thích cũng là người rất nhạy bén trong vấn đề chính trị. Ngay từ năm 1927, khi đảng Cộng Sản Đông Dương chưa ra đời ở VN, linh mục Sảng Đình đã viết một cuốn sách nhỏ có tên Vấn Đề Cộng Sản [The Question of Communism] in tại Qui Nhơn cảnh giác về cái ý thức hệ tai hại này. (David G. Marr, Vietnamese Tradition on Trial 1920-1945, University of California Press, 1984, trang 84).

 

LỜI KẾT

Một câu ngạn ngữ Nga ghi lại rằng: “Điều gì đã được viết bằng mực thì chẳng thể lấy búa mà đẽo đi được.” Lê Ngọc Bích là cây bút sử học Công Giáo khôn ngoan và nhất là chịu khó kiên nhẫn vốn dĩ là đức tính thường hằng của một sử gia. Anh chịu khó viết, viết ngày viết đêm (dĩ nhiên bằng tay), như chúng tôi thường học trong sách Luận Ngữ trước đây và hay đem ra giỡn nhau “viết xuân hạ, viết thu đông”, và nhờ vậy anh đã để lại nhiều tác phẩm giá trị có lợi ích trong lãnh vực truyền giáo và truyền thụ kiến thức.

 

Tháng 10 năm 2009, Lê Ngọc Bích mua vé đi Huế để tham dự kỷ niệm 50 năm thành lập Viện Hán Học nhưng chưa kịp đi thì ngày 28-11-2009 bị đột quỵ vào lúc 18 giờ và qua đời, hưởng thọ 76 tuổi. Tang lễ đồng tế được tổ chức ở Nhà thờ Vườn Xoài, tro cốt anh được gửi tại đây, và được biết lúc sinh thời anh tham gia Hội đồng Mục vụ giáo xứ này, thuộc Quận 3, Sài Gòn trong nhiều năm.  

 

Lê Ngọc Bích còn để lại một số tác phẩm trong dạng bản thảo viết về : Địa danh lịch sử Công Giáo Việt Nam (bốn tập) và Các Trại Phong Công Giáo Việt Nam : Hình Thành và  Phát Triển (bốn tập). Tôi viết bài này để đốt nén hương lòng tưởng niệm lần thứ 11 ngày lễ giỗ của Lê Ngọc Bích, một nhà sử học Công Giáo Việt Nam, bạn nối khố của tôi và GS Nguyễn Lý Tưởng.

 


Nguyễn Đức Cung

Ngày Lễ Tạ Ơn tại Hoa Kỳ

Philadelphia, November 26-2020








Không có nhận xét nào: