Thứ Hai, 14 tháng 12, 2020

Góc Cổ Thi Việt: Thơ Nguyễn Trunng Ngạn (Phần I) - Đỗ Chiêu Đức

 Góc Việt Cổ Thi : 

                    Thơ NGUYỄN TRUNG NGẠN
                                    (Phần 1)

                          
                                    
        Nguyễn Trung Ngạn 阮 忠 彥 (1289-1370) tự Bang Trực 邦 直, hiệu Giới Hiên 介 軒, sinh tại làng Thọ Hoàng, huyện Thiên Thi, tỉnh Hưng Yên. Nguyễn Trung Ngạn từ nhỏ đã thông minh xuất chúng, nổi tiếng thần đồng. Năm 15 tuổi (1304) ông đã đỗ Hoàng Giáp đời vua Trần Anh Tông, có trong tay bằng tiến sĩ (cùng khoa với Mạc Ðĩnh Chi), năm 24 tuổi được làm Giám quân, năm 28 tuổi đi sứ nhà Nguyên. Tính ông cương trực, tài kiêm văn võ, có nhiều đóng góp cho công việc xây dựng và bảo vệ đất nước lúc bấy giờ. Ông phò tá Vua Trần Minh Tông trong các chiến dịch bình định vùng Đà Giang và dẹp loạn ở Lào. Trong cuộc đời làm quan qua năm đời vua triều Trần, ông từng được phong là Đại Học Sĩ Trụ Quốc Hướng Huyện Bá, Thiếu Bảo Khai Quốc Nội Hầu... cuối cùng làm đến chức Ðại Hành Khiển tước Thân Quốc Công, thọ 82 tuổi.

       Dưới đây là những bài thơ tiêu biểu của ông.

1. Bài thơ Bắc Sứ Sơ Độ Lô Giang:

 北 使 初 渡 瀘 江         Bắc Sứ Sơ Độ Lô Giang

叨 持 使 節 出 京 華,   Thao trì sứ tiết xuất Kinh hoa,
駐 馬 孤 亭 日 未 斜。   Trú mã cô đình nhật vị tà.
別 酒 一 杯 分 客 興,   Biệt tửu nhất bôi phân khách hứng,
瀘 江 東 畔 即 天 涯。   Lô Giang đông bạn tức thiên nha.
              阮 忠 彥                        Nguyễn Trung Ngạn

     
               


* Chú Thích :
  - Thao Trì 叨 持 : THAO là Nhờ vào, ké vào, May mà có được, nên THAO TRÌ: là may mắn mà cầm được. Bốn chữ THAO TRÌ SỨ TIẾT 叨 持 使 節 : May mắn mà cầm được cây cờ tiết của sứ giả. Đây là cách nói khiêm nhượng, ý là: Rất hân hạnh được cử đi sứ (nơi đất Bắc). 
  - Kinh Hoa 京 華 : là Kinh thành hoa lệ, chỉ kinh đô Thăng long.
  - Trú Mã 駐 馬 : là Dừng ngựa lại để nghỉ ngơi.
  - Cô Đình 孤 亭 : là cái trường đình cô độc, nơi để cho những người đưa tiễn nhau đặt tiệc tiễn hành.
  - Đông Bạn 東 畔 : là Ở phía đông của bờ sông.
  - Thiên Nha 天 涯 : là Chân trời, chỉ nơi rất xa xôi.

* Nghĩa Bài Thơ :

                  Lúc Mới Sang Đò Sông Lô Khi Đi Sứ Bắc Quốc
       Ta rất may mắn và hân hạnh ra khỏi kinh thành hoa lệ để đi sứ Bắc quốc. Dừng ngựa nơi trường đình cô độc khi trời chưa ngã bóng về chiều. Một chén rượu tiễn đưa chia cái tửu hứng của các người khách đến đưa tiễn. Khi đã qua được bên kia bờ đông của Lô Giang thì đã là nơi đất khách xa xôi như tận chân trời góc biển rồi !

* Diễn Nôm :

                          Bắc Sứ Sơ Độ Lô Giang

  
               

                Giương cờ sứ tiết xuất kinh thành,
                Dừng ngựa bên đình bóng nắng hanh.
                Một chén rượu đưa chia tửu hứng,
                Sông Lô bên ấy ngút trời xanh !
  Lục bát :
                Ơn Vua cờ sứ rời kinh,
                Bóng chiều chưa ngã bên đình dừng chân.
                Tiễn đưa chén rượu bâng khuâng,
                Chân trời mờ mịt bên dòng sông Lô !

                                           Đỗ Chiêu Đức
                  
 2. Bài thơ Bắc Sứ Túc Khâu Ôn Dịch :     

北 使 宿 丘 溫 驛           Bắc Sứ Túc Khâu Ôn Dịch
  
挽 盡 天 河 洗 甲 兵,     Vãn tận Thiên Hà tẩy giáp binh,
廟 堂 無 意 事 邊 征。     Miếu đường vô ý sự biên chinh.
江 山 有 限 分 南 北,     Giang sơn hữu hạn phân nam bắc,
胡 越 同 風 各 弟 兄。     Hồ Việt đồng phong các đệ huynh.
月 滿 蠻 村 閒 夜 柝,     Nguyệt mãn man thôn nhàn dạ thác,
雨 餘 野 燒 樂 春 耕。     Vũ dư dã thiếu lạc xuân canh.
君 恩 未 效 涓 埃 報,     Quân ân vị hiệu quyên ai báo,
一 介 寧 辭 萬 里 行。     Nhất giới ninh từ vạn lý hành.
               阮 忠 彥                            Nguyễn Trung Ngạn
 
        
              

* Chú Thích :
  - Vãn tận Thiên Hà tẩy giáp binh 挽 盡 天 河 洗 甲 兵 : Câu thơ nầy có xuất xứ từ hai câu thơ trong bài Tẩy Binh Mã (Rửa khí giới) của Đỗ Phủ như sau: 
     An đắc tráng sĩ vãn thiên hà;           安 得 壯 士 挽 天 河,
    Tịnh tẩy giáp binh trường bất dụng.  淨 洗 甲 兵 長 不 用. 

Có nghĩa:
      Làm sao có được một tráng sĩ nào đó kéo nước sông Ngân xuống (dịch chữ Thiên hà); Rửa sạch khí giới và áo giáp, mãi mãi không dùng đến nữa. (Ý chỉ có người tài giỏi, dẹp yên chiến tranh để dân chúng được an hưởng thái bình, nhưng mà... thực tế thì đâu có được người như thế!)
     Đọc câu nầy làm cho ta lại nhớ đến câu "Tẩy binh vô lộ vãn Thiên hà 洗 兵 無 路 挽 天 河" trong bài Thuật Hoài của danh tướng Đặng Dung cũng ở đời Trần. Nhưng Đặng Dung 鄧 容 (1373 – 1414) sanh sau hơn Nguyễn Trung Ngạn 阮 忠 彥 (1289-1370). Có thể khi viết câu thơ trên Đặng Dung đã đọc qua bài thơ của Nguyễn Trung Ngạn rồi, nên mượn ý để viết lại mà thôi.
  - Miếu Đường 廟 堂 : Chỉ Triều đình.
  - Biên Chinh 邊 征 : Chiến chinh vùng biên giới biên ải xa xôi.
  - Man Thôn 蠻 村 : MAN là Dã Man 野 蠻 chưa khai hóa; THÔN xóm. MAN THÔN chỉ bản làng của người dân tộc.
  - Dạ Thác 夜 柝 : Ban đêm trăng sáng đi hái những nhánh cây khô để làm củi.
  - Dã Thiêu 野 燒 : Chữ THIÊU là Đốt được đọc thành THIẾU cho đúng luật Bằng Trắc ở trong câu, nên DÃ THIÊU: là Đốt cỏ khô và rơm rạ ngoài đồng để làm phân, chuẩn bị cho vụ mùa canh tác của mùa xuân tới (XUÂN CANH).
  - Quyên Ai 涓 埃 : QUYÊN là dòng nước nhỏ; AI là hạt bụi nhỏ, nên QUYÊN AI là nhỏ nhoi, nhỏ nhặt, là Một chút xíu.
  - Nhất Giới 一 介 : chỉ Cá nhân nhỏ nhoi của mình (lời nói khiêm tốn).

* Nghĩa Bài Thơ :
         Đi Sứ Phương Bắc Trú Tại Dịch Quán Khâu Ôn
   (Làm sao có thể) kéo hết nước của sông Thiên hà xuống để rửa sạch khí giới và áo giáp (để không còn chiến tranh nữa). Triều đình cũng không có ý gây sự chiến tranh ở các vùng biên cương xa xôi. Núi sông có mốc giới phân định hẵn hoi hai vùng Nam Bắc, người Hồ kẻ Việt đều cùng chung phong tục tập quán nên đều cùng là anh em cả. Đêm trăng sáng nhàn rỗi nên dân của các bản làng đi bẻ nhánh gom cành làm củi, sau cơn mưa lại đốt cỏ khô rơm rạ để làm phân cho mùa xuân canh tác sắp tới. Ơn vua thì chưa báo đáp được mải mai nào cả, nên bản thân cũng không dám tỏ ý từ nan mà phải đem thân đi sứ ở ngoài muôn dặm như thế nầy.

* Diễn Nôm :

                    Bắc Sứ Túc Khâu Ôn Dịch

                  
                 

                Kéo nước Thiên Hà rửa giáp binh,
                Triều đình chẳng có ý chiến chinh.
                Núi sông định rõ phân nam bắc,
                Hồ Việt đành rành cũng đệ huynh.
                Trăng sáng bản làng đi kiếm củi,
                Lửa thiêu cỏ rạ đợi xuân canh.
                Ơn vua chưa mải mai đền đáp,
                Sao dám từ nan vạn lý hành !?
   Lục bát :
                Kéo sông Ngân, rửa giáp binh,
                Triều đình chẳng ý chiến chinh biên thùy.
                Núi sông nam bắc phân kỳ,
                Anh em Hồ Việt tông chi cùng đồng.
                Đêm trăng tìm củi rổi công,
                Sau mưa đốt cỏ cho đồng xuân canh,
                Ơn vua chưa đáp mong manh,
                Dẫu đi muôn dặm không đành từ nan.

                                         Đỗ Chiêu Đức

3. Bài thơ DẠ TỌA:
         
                  

         夜 坐                        DẠ TỌA
      蝶 夢 家 千 里,    Điệp mộng gia thiên lý,
      鵑 啼 夜 五 更。    Quyên đề dạ ngũ canh.
      悲 風 號 野 館,    Bi phong hào dã quán,
      古 木 暗 荒 城。    Cổ mộc ám hoang thành.
      飄 蕩 蓬 萍 客,    Phiêu đãng bồng bình khách,
      淹 留 犬 馬 情。    Yêm lưu khuyển mã tình.
      有 懷 成 獨 坐,    Hữu hoài thành độc tọa,
      茅 店 又 雞 聲。    Mao điếm hựu kê thanh.
               阮 忠 彥                 Nguyễn Trung Ngạn
           
               

* Chú Thích :
  - HÀO 號 : Tiếng gầm của con hổ, nên HÀO có nghĩa là Gào, thét, gầm gừ; ở đây chỉ tiếng gió hú, tiếng gió gào. Chữ nầy còn một âm nữa đọc là HIỆU 號 : là Lời kêu gọi, như Hiệu Triệu 號召. Khi là Danh Từ thì có nghĩa là Tên Hiệu.
  - ÁM 暗 : là Mờ, là Tối. Ở đây ÁM là Động từ, có nghĩa là Làm Cho Mờ Tối.
  - Phiêu Đãng 飄 蕩 : là Trôi nổi dật dờ. 
  - Bồng Bình Khách 蓬 萍 客 : BỒNG là cỏ bồng, BÌNH là bèo; một bay theo gió, một trôi theo nước; nên BỒNG BÌNH KHÁCH là Người khách lạc loài trôi nổi vô định. 
  - Yêm Lưu 淹 留 : Từ có xuất xứ từ Thiên LY TAO của SỞ TỪ, có nghĩa: Lưu lạc nơi xứ lạ quê người.
  - Khuyển Mã Tình 犬 馬 情 : Là Cái tình của chó và ngựa, hai con vật rất trung thành với chủ; Ở đây mượn chỉ "Cái lòng trung thành đối với nhà vua".
  - Mao Điếm Hựu Kê Thanh 茅 店 又 雞 聲 : Câu thơ nầy làm cho ta nhớ đến 2 câu thơ trong bài Thương Sơn Tảo Hành 商 山 早 行 của Ôn Đình Quân 溫 庭 筠 là :

     雞 聲 茅 店 月,     Kê thanh mao điếm nguyệt,
    人 跡 板 橋 霜。     Nhân tích bản kiều sương.

    ...mà cụ Nguyễn Du đã mượn để gom lại thành một câu thơ rất hay để tả cảnh khi Thúy Kiều trốn khỏi Quan Âm Các là:

                  (mịt mờ dặm cát đồi cây),
         Tiếng gà điếm nguyệt, dấu giày cầu sương!
                    
                 


* Nghĩa bài Thơ :
                           Ngồi Trong Đêm
        Ngồi một mình trong đêm chỉ mơ về quê hương ngàn dặm trong mộng điệp mà thôi; Tiếng cuốc kêu suốt cả năm canh đêm hè. Gió buồn rít mạnh nơi quán trọ hoang vắng, và các cây cổ thụ che kín mờ cả thành hoang. Thân ta nơi đất  khách trôi nổi như cỏ bồng như bèo nước, nhưng luôn luôn giữ lòng trung như khuyển mã đối với quân vương. Vì trong lòng hoài cảm nên mới ngồi suốt trong đêm khi tiếng gà đã eo óc gáy nơi quán cỏ nầy.

* Diễn Nôm :
                      Ngồi Trong Đêm

               Nhớ nhà ngàn dặm qua mơ,
               Cuốc kêu ra rả tờ mờ năm canh.
               Gió sầu rít mạnh quán tranh,
               Thành hoang u ám bóng xanh cây già.
               Nổi trôi bèo dạt gió qua,
               Gửi thân đất khách tình nhà không khuây.
               Một mình đêm vắng ngồi đây,
              "Tiếng gà điếm nguyệt dấu giày cầu sương"!

                                          Đỗ Chiêu Đức

4. Bài thơ Đăng Dương Châu Thành Lâu :

登 楊 州 城 樓        Đăng Dương Châu Thành Lâu
 
八 千 餘 里 客,     Bát thiên dư lý khách,
二 十 四 橋 秋。     Nhị Thập Tứ Kiều thu.
異 國 逢 佳 景,     Dị quốc phùng giai cảnh,
忙 中 強 倚 樓。     Mang trung cưỡng ỷ lâu !
          阮 忠 彥                 Nguyễn Trung Ngạn
    
                 

* Chú Thích :
  - Nhị Thập Tứ Kiều 二 十 四 橋 : là Cây cầu nổi tiếng ở Tây Hồ thành phố Dương Châu tỉnh Giang Tô. Cầu gồm một nhịp tròn như cầu vòng, lan can bằng ngọc trắng, dài 24 m, rộng 2,4m, có 24 trụ lan can, 24 bậc thang... mỗi mỗi đều lấy 24 làm tiêu chuẩn, nên mới gọi là "NHỊ THẬP TỨ KIỀU".
  - Giai Cảnh 佳 景 : Vừa có nghĩa là "Cảnh đẹp" vừa có nghĩa là "Hoàn cảnh tốt".
  - Cưỡng 強 : là Gắng gượng, là miễn cưỡng. Khi đọc là CƯỜNG thì có nghĩa là Mạnh.

* Nghĩa bài thơ :

                  Lên Chơi Thành Lầu Ở Dương Châu
      Khách từ ngoài tám ngàn dặm đến đây, gặp lúc Nhị Thập Tứ Kiều đang vào thu. Ở nước lạ mà gặp được cảnh đẹp như thế nầy, nên mặc dù rất bận vẫn ráng cố gắng lên thành tựa lầu mà ngắm phong cảnh đẹp hiếm có nầy.

      Đọc bài thơ nầy làm ta nhớ tới bài thất ngôn tứ tuyệt của Đỗ Mục 杜 牧  "Ký Dương Châu Hàn Xước Phán Quan 寄 揚 州 韓 綽 判 官" như sau:

                    
                     
      青 山 隱 隱 水 迢 迢,  Thanh sơn ẩn ẩn thủy điều điều,
      秋 盡 江 南 草 未 凋。  Thu tận Giang Nam thảo vị điêu.
      二 十 四 橋 明 月 夜,  Nhị thập tứ kiều minh nguyệt dạ,
      玉 人 何 處 教 吹 簫。  Ngọc nhân hà xứ giáo xuy tiêu !?

    Có nghĩa :
                     Núi xanh thấp thoáng nước mênh mông,
                     Thu úa Giang Nam hoa vẫn hồng.
                     Nhị Thập Tứ Kiều trăng sáng qúa,
                     Nơi nao người ngọc tiếng tiêu lồng!?

      Từ xưa đến nay, Tây Hồ ở Dương Châu vừa nổi tiếng là nơi có phong cảnh đẹp, có nhiều người đẹp và lắm thức ăn ngon.

* Diễn Nôm :

              Đăng Dương Châu Thành Lâu
                    
                    

                    Tám ngàn dặm, khách cô liêu, 
                    Đến đây Nhị Thập Tứ Kiều vào thu.
                    Nước người gặp cảnh thanh u,
                    Bận sao cũng gắng vựa lầu ngắm xem. 
                                           Đỗ Chiêu Đức

5. Bài thơ  Động Đình Hồ :

   洞 庭 湖                              Động Đình Hồ
雲 濤 雪 浪 四 漫 漫,    Vân đào tuyết lãng tứ man man,
砥 柱 中 流 屹 一 山。    Chỉ trụ trung lưu ngật nhất san.
鶴 蹟 不 來 松 歲 老,    Hạc tích bất lai tùng tuế lão,
妃 魂 猶 在 竹 痕 斑。    Phi hồn do tại trúc ngân ban.
乾 坤 卵 破 洪 蒙 後,    Càn khôn noãn phá hồng mông hậu,
日 月 萍 浮 浩 渺 間。    Nhật nguyệt bình phù hạo diễu gian.
岸 芷 汀 蘭 無 限 興,    Ngạn chỉ đinh lan vô hạn hứng,
片 心 空 羡 白 鷗 閒。    Phiến tâm không tiện bạch âu nhàn.
              阮 忠 彥                                Nguyễn Trung Ngạ
       
               

* Chú Thích :
  - Vân Đào Tuyết Lãng 雲 濤 雪 浪 : Những đợt sóng cuồn cuộn như mây, vỗ vào nhau làm cho những hạt nước bắn tung tóe trắng xóa như tuyết rơi.
  - Chỉ Trụ Trung Lưu Ngật Nhất San 砥 柱 中 流 屹 一 山 : Một ngọn núi đứng sừng sững vươn lên giữa dòng nước chảy (chỉ ngọn núi Quân Sơn ở giữa Hồ Động Đình).
  - Hạc Tích 鶴 蹟 : Vết tích của chim hạc; ở đây chỉ dấu chân hạc.
  - Phi Hồn 妃 魂 : Chỉ hồn phách của hai bà Tương Phi là Nga Hoàng và Nữ Anh. Theo tích vua Thuấn chết ở cuối sông Tương, nơi chảy vào hồ Động Đình. Hai bà phi là Nga Hoàng và Nữ Anh tìm đến khóc chồng suốt chín ngày chín đêm, máu và nước mắt hòa vào nhau bắn tung toé khắp rừng trúc hai bên bờ, làm cho tất cả các cây trúc ở đây đều có lốm đốm các vết màu đỏ, màu nâu, màu tím rất đẹp, gọi là TƯƠNG PHI TRÚC 湘 妃 竹 như những hình ảnh kèm theo sau đây.
         
       
  - Ngân Ban 痕 斑 : NGÂN là Vết sẹo (thẹo), BAN là cái Vệt, cái Đốm. nên NGÂN BAN là Các vết các vệt lốm đốm  (trên cái gì đó...)
  - Noãn Phá 卵 破 : là Trứng nứt ra.
  - Hồng Mông 洪 蒙 : là Thuở trời đất còn mờ mịt khi mới được tạo lập ra.
  - Hạo Diễu 浩 渺 : là mênh mông bát ngát, diệu vợi bao la.
  - Tiện 羡 : là Tiện Mộ  羨 慕, là Hâm mộ, ái mộ, ngưỡng mộ.

* Nghĩa bài thơ :
                                   Hồ ĐỘNG ĐÌNH
       Những đợt sóng cuồn cuộn như mây, vỗ vào nhau làm cho những hạt nước bắn tung tóe trắng xóa như tuyết rơi khắp bốn phương trời mênh mông mờ mịt. Ngọn núi Quân Sơn sừng sững như dựng đứng giữa dòng chảy của lòng hồ. Những vết chân hạc không đến được nơi nầy, chỉ trơ trọi có mấy cây thông già; Hồn của hai bà Tương Phi như còn phảng phất đâu đây còn in ngấn lệ trên thân cây tre trúc. Trời nước lẫn lộn mịt mờ như mới từ trong trứng vỡ ra sau buổi hồng hoang, và mặt trời mặt trăng như bèo dạt hoa trôi trong khoảng không mênh mông bát ngát nầy. Cỏ chỉ cỏ lan hai bên bờ tạo nên niềm cảm hứng vô cùng, một tấm lòng chỉ ước ao ngưỡng mộ sao cho được nhàn tản như những con chim âu trắng đang tự do bay lượn trên hồ nước !

* Diễn Nôm :

                           ĐỘNG ĐÌNH HỒ

                                                                    

                 Như mây như tuyết sóng mênh mông,
                 Sừng sững Quân Sơn đứng giữa dòng.
                 Dấu hạc bặc tăm thông lão cổi,
                 Hồn Phi còn đó trúc nâu hồng.
                 Đất trời tựa nhập sau hoang hóa
                 Nhật nguyệt như bèo giữa cỏi không.
                 Cỏ chỉ cỏ lan thêm hứng thú,
                 Ước như âu trắng lượn thong dong. 
     Lục bát :    
                 Sóng như mây tuyết chập chùng,
                 Quân Sơn sừng sững giữa dòng nước trôi.
                 Bặc tăm dấu hạc thông còi,
                 Hồn Tương Phi đó rạng ngời dấu tre.
                 Càn khôn hỗn độn chưa chia,
                 Trời trăng mây nước bèo kia bềnh bồng.
                 Cỏ lan cỏ chỉ hứng lòng,
                 Ước như âu trắng thong dong bên trời !

                 
               

       Mời đọc tiếp Thơ NGUYỄN TRUNG NGẠN (phần 2)

                                                  杜 紹 德
                                              Đỗ Chiêu Đức






                             
  

Không có nhận xét nào: