Thứ Năm, 31 tháng 12, 2020

Việt Cổ Thi: Thơ Nguyễn Trung Ngạn - Phần 4 (Đỗ Chiêu Đức)

 Góc Việt Cổ Thi : 

      Thơ NGUYỄN TRUNG NGẠN
                        (Phần 4)
                                   
                                             

                      Vạn Thạch Đình

16. Bài thơ Vạn Thạch Đình :

     萬 石 亭                            VẠN THẠCH ĐÌNH
木 樨 花 下 酒 初 醒,    Mộc tê hoa hạ tửu sơ tinh,
乘 興 登 臨 萬 石 亭。    Thừa hứng đăng lâm Vạn Thạch Đình.
豪 傑 舊 遊 無 覓 處,    Hào kiệt cựu du vô mịch xứ,
曲 欄 杆 外 數 峰 青。    Khúc lan can ngoại sổ phong thanh.
              阮 忠 彥                         Nguyễn Trung Ngạn
       
                                       


* Chú Thích :
  - Vạn Thạch Đình 萬 石 亭 : Tên địa danh, nay thuộc huyện Nhạc Dương, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc.
  - Mộc Tê Hoa 木 樨 花 : là Hoa Quế.
  - Hứng 興 : là Hứng thú; nếu đọc là HƯNG thì là Hưng thịnh (động từ), nên THỪA HỨNG 乘 興 : là Nhân lúc còn đang hứng thú.
  - Vô Mịch Xứ 無 覓 處 : Không có chỗ để tìm; có nghĩa Tìm không thấy chỗ cũ.
  - Khúc 曲 : là Gãy, là Cong; KHÚC LAN CAN 曲 欄 杆 là Dãy lan can uốn khúc.
  - Sổ Phong Thanh 數 峰 青 : SỔ là Mấy, PHONG là Ngọn núi, THANH là Xanh; nên SỔ PHONG THANH là Mấy ngọn núi xanh xanh, chớ không phải "Mấy tiếng gió".

* Nghĩa bài thơ :
                            ĐÌNH VẠN THẠCH
      Mới vừa tỉnh rượu ở dưới chòm hoa quế, nhân lúc còn đang hứng thú bèn leo lên Vạn Thạch Đình để ngắm cảnh. Nhưng chẳng sao tìm được chỗ mà các hào kiệt ngày xưa từng dạo chơi, chỉ thấy bên ngoài dãy lan can khúc khuỷu là mấy ngọn núi xanh xanh mà thôi!
      Cảnh xưa vẫn còn đó và vẫn đẹp như xưa, nhưng anh hùng hào kiệt ngày xưa thì giờ đang ở nơi nao? Thật là cảm khái! Đọc bài thơ nầy lại làm cho ta nhớ tới hai câu thơ của nhà thơ Tiền Khởi 錢 起 đời Đường trong bài Tương Linh Cổ Sắc〈湘 靈 鼓 瑟〉như sau:

        曲 終 人 不 見,  Khúc chung nhân bất kiến,
        江 上 數 峰 青.   Giang thượng sổ phong thanh !
     Có nghĩa :
              Khúc tàn người đã vắng tanh,
       Trên sông mấy ngọn núi xanh một màu.

* Diễn Nôm:
                          VẠN THẠCH ĐÌNH
                              
                           

  Song thất lục bát : 
                Dưới hoa quế cơn say vừa tỉnh,
                Vạn Thạch Đình hướng đỉnh leo lên.
                Dấu xưa hào kiệt buồn tênh,
                Lan can uốn khúc núi xanh mấy hòn.
        Lục bát :
                Dưới hoa vừa tỉnh cơn say,
               Thạch Đình thừa hứng leo ngay lên đồi.
               Nào nơi hào kiệt dạo chơi...
               Lan can khúc khuỷu bồi hồi núi xanh !
                                 Đỗ Chiêu Đức

17. Bài thơ Vĩnh Dinh Hữu Hoài :

   永 營 有 懷                         VĨNH DINH HỮU HOÀI
別 此 繁 華 十 幾 年,     Biệt thử phồn hoa thập kỷ niên,
而  今重 過 大 非 前。     Nhi kim trùng qúa đại phi tiền.
眼 中 里 落 多 彫 耗,     Nhỡn trung lý lạc đa điêu háo,
心 上 知 交 半 瘠 捐。     Tâm thượng tri giao bán tích quyên.
人 雜 肆 移 前 後 市,     Nhân tạp tứ di tiền hậu thị,
潦 深 平 浸 夏 秋 田。     Lạo thâm bình tẩm hạ thu điền.
棠 梨 見 說 猶 濃 蔭,     Đường lê kiến thuyết do nùng ấm,
客 步 低 絗 思 惘 然。     Khách bộ đê hồi tứ võng nhiên.
               阮 忠 彥                         Nguyễn Trung Ngạn

                      
       
* Chú Thích :
  - Hữu Hoài 有 懷 : Có hoài cảm, là có xúc cảm về... cái gì đó.
  - Đại Phi Tiền 大 非 前 : ĐẠI ở đây là Trạng Từ, có nghĩa như Rất, Lắm; PHI TIỀN là Khác Trước, nên ĐẠI PHI TIỀN có nghĩa là Rất khác trước, là Khác trước rất xa.
  - Lý Lạc 里 落 : Lý là Hương Lý; LẠC là Bộ lạc, nên LÝ LẠC là từ kép chỉ Làng xóm, Láng giềng.
  - Điêu Háo 彫 耗 : ĐIÊU là Tàn tạ héo úa, HÁO vốn âm HAO, đọc HÁO cho đúng Bằng Trắc. HAO là Hao tổn, nên ĐIÊU HAO là Điêu tàn tiêu điều linh lạc.
  - Tích Quyên 瘠 捐 : TÍCH là Gầy còm ốm yếu; QUYÊN là Hiến, là Bỏ, như Quyên Sinh là Bỏ mạng sống là chết; nên TÍCH QUYÊN là Bệnh tật và chết chóc.
  - Nhân Tạp Tứ Di 人 雜 肆 移 : Người thì Tạp nhạp, Quán xá (TỨ) thì Dời đổi (DI).
  - Lạo Thâm Bình Tẩm 潦 深 平 浸 : Đầm nước đọng (LẠO) thì sâu ngập bằng cả mặt nước (BÌNH TẨM).
  - Đường Lê 棠 梨 : Một loại Lê, còn gọi là Cam Đường, trái ngon ngọt. CAM ĐƯỜNG còn là tên một bài thơ trong thiên Thiệu Nam 詩 經, 召 南 của Kinh Thi, kể lại tích của Thiệu Bá (Thiệu Công Thích) đời nhà Chu. Ông làm quan thanh liêm, tính tình giản dị, khi đi kinh lý các đất ở phương nam, ông thường hay ngồi dưới gốc cây cam đường để nghỉ ngơi, làm việc và xử án. Dân chúng cảm mến nên bảo vệ cây cam đường và làm thơ ca ngợi như sau:

             蔽 芾 甘 棠,   Tế phế Cam đường,
             勿 翦 勿 伐,   Vật tiễn vật phạt,
             召 伯 所 茇。   Thiệu Bá sở bạt.
    
              蔽 芾 甘 棠,   Tế phế cam đường,
              勿 翦 勿 敗,   Vật tiễn vật bị (bại),
              召 伯 所 憩。   Thiệu Bá sở khí.

              蔽 芾 甘 棠,   Tế phế cam đường,
              勿 翦 勿 拜,   Vật tiễn vật bế (bái),
              召 伯 所 說。   Thiệu Bá sở thuế (thuyết).

      Có nghĩa :
                        
                    

           Cam đường cành lá xanh xanh,
           Xin đừng cắt xén xin đừng đốn cây,
           Thiếu Bá đã từng ngồi đây.

            Cam đường cành lá xanh um,
            Xin đừng cắt xén xin đừng phá cây,
            Thiếu Bá từng nghỉ nơi đây.

             Cam đường cành lá um tùm,
             Xin đừng cắt xén xin đừng bẻ cong,
             Thiếu Bá đã từng dừng chân.
      
   - Nùng Ấm 濃 蔭 : NÙNG là Đậm đà, rậm rạp; ẤM là cái bóng cây, nên NÙNG ẤM chỉ Bóng cây to rậm rạp.       
   - Đê Hồi 低 絗 : là Chỉ tơ rối nùi.
   - Võng Nhiên 惘 然 : là Hoang mang, mơ hồ, thấp thỏm không yên.

* Nghĩa bài thơ :
                    CẢM XÚC KHI ĐẾN VĨNH DINH
       Từ biệt với chốn phồn hoa đô hội nầy cũng đã mười mấy năm trời rồi, nên nay khi trở lại thì thấy khác xa trước đây rất nhiều. Làng xóm nhìn qua một lượt thì thấy đã tiêu điều tàn tạ, còn bạn bè tri giao thân thuộc ngày xưa giờ đã già yếu chết chóc hơn phân nửa rồi. Chợ búa trước sau thì quán xá đã di dời nhân sự thì hỗn tạp, nước của các đầm sâu tràn ngập bằng cả đồng ruộng của vụ hè thu. Nghe thấy cây đường lê vẫn còn phủ bóng rậm rạp, nên chi khách bước đi mà lòng rối nùi như tơ, trong dạ hoang mang không dứt.

       Người cũ trở về đây, nhưng cảnh cũ đâu còn nữa, cả nhân sự cũng đổi thay, chỉ còn có cây đường lê trước ngõ là vẫn còn rợp bóng xanh om, khiến cho người viễn khách trở lại chốn xưa không khỏi bồi hồi cảm xúc!

* Diễn Nôm :
                    VĨNH DINH HỮU CẢM

                                                     
                   Cách biệt phồn hoa qúa chục năm,
                   Khác xa khi trước lúc về thăm.
                   Xóm làng nơi đổi nơi tan tác...
                   Bè bạn kẻ già kẻ mất tăm...
                   Chợ búa trước sau người tạp nhạp,
                   Hè thu đồng ruộng nước tràn xâm.
                   Đường lê rợp bóng như ngày trước,
                   Khách bước chân chồn vẻ khổ tâm.
      Lục bát :
                   Phồn hoa cách biệt mười năm,
                   Khác xa lúc trước về thăm nơi nầy.
                   Xóm làng tan tác đó đây,
                   Bạn xưa kẻ chết người gầy già nua.
                   Trước sau chợ chẳng như xưa,
                   Đầm sâu ruộng ngập lúa vừa hè thu.
                   Đường lê rợp bóng thâm u,
                   Khách dồn chân bước rối bù tâm can.

                                                  Đỗ Chiêu Đức

18. Bài thơ Xuân Trú :

       春 晝                                    XUÂN TRÚ
縈 迴 竹 徑 遶 荒 齋,    Oanh hồi trúc kính nhiễu hoang trai,
避 俗 柴 門 晝 不 開。    Tị tục sài môn trú bất khai.
啼 鳥 一 聲 春 睡 覺,    Đề điểu nhất thanh xuân thụy giác,
落 花 無 數 點 蒼 苔。    Lạc hoa vô số điểm thương đài.
              阮 忠 彥                         Nguyễn Trung Ngạn
      
                        


* Chú Thích :
  - Trú 晝 : là Ban ngày, nên Xuân Trú 春 晝 là Ban ngày trong mùa xuân.
  - Oanh Hồi 縈 迴 : là Lòng vòng, là loanh quanh.
  - Nhiễu 遶 (繞) : Đi vòng quanh, là bao bọc lấy. 
  - Hoang Trai 荒 齋 : là Thư trai hoang vắng, là phòng đọc sách nơi vắng vẻ.
  - Tị Tục 避 俗 : TỊ là lánh, là tránh xa, TỤC là Thế tục, nên TỊ TỤC là tránh xa nơi thế tục.
  - Thụy giác 睡 覺 : là Thức giấc, là Ngủ thức dậy.
  - Thương Đài 蒼 苔 : là Rêu xanh.

* Nghĩa bài thơ :
                                  NGÀY XUÂN
      Con đường mòn hai bên trồng trúc uốn quanh bao bọc lấy căn thư trai hoang vắng, Vì muốn tránh xa thế tục nên cánh cửa bằng cây sơ sài ban ngày vẫn đóng kín. Một tiếng chim hót làm cho tỉnh giấc mộng xuân, nhìn ra thấy vô số hoa đang rụng trên thềm rêu xanh biếc.

      Đọc bài nầy làm cho ta nhớ đến bài ngũ ngôn tứ tuyệt Xuân Hiểu của Mạnh Hạo Nhiên đời Đường là:

          春 眠 不 覺 曉,    Xuân miên bất giác hiểu,
          處 處 聞 啼 鳥。    Xứ xứ văn đề điểu.
          夜 來 風 雨 聲,    Dạ lai phong vũ thanh,
          花 落 知 多 少?!    Hoa lạc tri đa thiểu ?!
       Có nghĩa :
                     Đêm xuân ngủ quên sáng,
                     Nơi nơi tiếng chim kêu.
                     Suốt đêm nghe mưa gió,
                     Hoa rụng biết bao nhiêu ?!

      Mạnh Hạo Nhiên thì ngủ say trong đêm xuân, còn Nguyễn Trung Ngạn thì ngủ say trong ngày xuân, đều là những kẻ sĩ muốn tìm chốn thanh nhàn để "lánh xa trần tục"!

* Diễn Nôm:
                         NGÀY XUÂN
                      
                                 


            Quanh co ngõ trúc bọc thư trai,
            Thoát tục sài phi đóng ngủ ngày.
            Một tiếng chim kêu choàng tỉnh giấc,
            Vô vàn hoa rụng phủ rêu đài !
        Lục bát :
            Thư trai ngỏ trúc quanh co,
            Cửa sài đóng kín chẳng lo nhân tình.
            Chim kêu một tiếng giật mình,
            Bên thềm hoa rụng rêu xanh phủ đầy !

                                 Đỗ Chiêu Đức

19. Bài thơ Yên Tử Giang Trung :

    安 子 江 中                      YÊN TỬ GIANG TRUNG
春 潮 漠 漠 漲 平 川,    Xuân triều mạc mạc trướng bình xuyên,
蒲 裡 花 深 水 鳥 眠。    Bồ lý hoa thâm thủy điểu miên.
山 北 山 南 情 景 好,    Sơn bắc sơn nam tình cảnh hảo,
江 山 無 限 隔 歸 船。    Giang sơn vô hạn cách quy thuyền.
               阮 忠 彥                             Nguyễn Trung Ngạn

                     
      
* Chú thích :
  - Mạc Mạc 漠 漠 : là mênh mông mờ mịt.
  - Bình Xuyên 平 川 : là Mặt đất bằng phẳng mênh mông.
  - Bồ 蒲 : là cỏ Bồ, là Cói là lát.
  - Vô Hạn 無 限 : là không có hạn định, là dàn trải mênh mông...
  - Cách 隔 : là Ngăn , chia, là Cách trở.

*Nghĩa bài thơ :
                              TRÊN SÔNG YÊN TỬ
       Sóng xuân mờ mịt theo con nước tràn cả lên bờ bằng phẳng, sâu trong đám hoa lau hoa sậy các con chim nước đang ngủ gật ngủ gù. Phong cảnh của các dãy núi phía bắc và phía nam đều đẹp cả, núi sông dàn trải vô tận như đang ngăn cách con thuyền trở về.

* Diễn Nôm :
                  YÊN TỬ GIANG TRUNG
                        
                         


                     Sóng xuân mờ mịt thủy triều lên,
                     Chim nước trong lau sậy ngủ quên.
                     Núi bắc núi nam phong cảnh đẹp,
                     Non sông cách trở khó xuôi thuyền.
       Lục bát :
                     Sóng xuân mờ mịt tràn bờ,
                     Bên trong lau sậy dật dờ chim âu.
                     Núi nam núi bắc đẹp sao,
                     Non sông dàn trải đường nào về quê !

                                                        Đỗ Chiêu Đức

20. Bài thơ Yên Tử Sơn Long Động Tự :

 安 子 山 龍 洞 寺             YÊN TỬ SƠN LONG ĐỘNG TỰ
蒼 蘿 寒 磴 苦 躋 攀,  Thương la hàn đặng khổ tễ phan,
才 到 松 門 便 解 顏。  Tài đáo tùng môn tiện giải nhan.
一 簇 樓 臺 藏 世 界,  Nhất thốc lâu đài tàng thế giới,
四 時 花 鳥 別 人 間。  Tứ thời hoa điểu biệt nhân gian.
隔 林 有 恨 猿 啼 月,  Cách lâm hữu hận viên đề nguyệt,
倚 榻 無 言 僧 對 山。  Ỷ tháp vô ngôn tăng đối san.
安 得 身 輕 除 物 累,  An đắc thân khinh trừ vật lụy,
紫 霄 峰 頂 伴 雲 閒。  Tử Tiêu phong đỉnh bạn vân nhàn.
         阮 忠 彥                         Nguyễn Trung Ngạn

                  
   
* Chú Thích :
  - Thương La 蒼 蘿 : là những dây leo màu xanh.
  - Hàn Đắng 寒 磴 : là những bậc đá lạnh.
  - Tễ Phan 躋 攀 : là leo trèo.
  - Tùng Môn 松 門 : Cửa làm bằng cây thông, ở đây chỉ cửa chùa.
  - Giải Nhan 解 顏 : GIẢI là Mở ra, là buông thả; NHAN là Dung nhan, sắc mặt; nên GIẢI NHAN là Buông lỏng sắc mặt xuống không còn khẩn trương nữa, nghĩa bóng là Khỏe khoắn, hết căng thẳng. 
  - Nhất Thốc 一 簇 : Lượng từ, là Một xâu, một dãy, một cụm.
  - An Đắc 安 得 : Làm sao có được, làm sao để có được.
  - Vật Lụy 物 累 : là những vật chất phiền lụy.
  - Tử Tiêu 紫 霄 : là đỉnh cao nhất của Yên Tử Sơn, cao 1068m so với mực nước biển trong dãy núi Đông Triều. Núi nằm ở ranh giới giữa 2 tỉnh Bắc Giang và Quảng Ninh.

* Nghĩa bài thơ :
                    CHÙA LONG ĐỘNG Ở NÚI YÊN TỬ
      Khó khăn lắm mới leo trèo lên được những bậc đá lạnh quấn quít đầy những dây leo xanh, mới đến được trước cửa chùa là đã thấy khỏe khoắn ngay. Một cụm lâu đài của nhà chùa như ẩn dấu trong núi cách biệt hẵn với thế giới bên ngoài.
Bốn mùa hoa cỏ chim muôn đều như là của riêng của thế giới nơi đây. Cách mé rừng bên kia tiếng vượn như ai oán hú dưới trăng, và bên nây nhà sư đang yên lặng nhìn về phía núi xa xa. Làm sao để có thể dứt bỏ được những vật chất lụy phiền để thân thể được nhẹ nhàng, bay lên đỉnh Tử Tiêu để cùng bầu bạn với những đám mây nhàn nhã!

* Diễn Nôm :
                  YÊN TỬ SƠN LONG ĐỘNG TỰ
                     
                                


                  
                    Dây leo đá lạnh khó trèo qua, 
                    Đến trước cửa chùa mới khỏe ra.
                    Một dãy lâu đài xa thế giới,
                    Bốn mùa hoa điểu của riêng ta.
                    Bên rừng vượn hú trăng ai oán,
                    Tựa tháp sư nhìn núi cỏi xa.
                    Sao được bỏ buông thân nhẹ nhõm,
                    Tử Tiêu làm bạn mây nhàn qua !
      Lục bát :
                    Dây leo núi đá khó trèo,
                    Cửa chùa đến được thầm reo an lành.
                    Lâu đài lánh thế dường tranh,
                    Bốn mùa hoa cỏ riêng dành nơi đây.
                    Bên rừng vượn hú trăng gầy,
                    Nhà sư tựa tháp bên này núi xa.
                    Sao cho buông bỏ thân ta,
                    Tử Tiêu bạn với mây qua đỉnh trời !


                                                杜 紹 德
                                            Đỗ Chiêu Đức











Không có nhận xét nào: