Thứ Sáu, 31 tháng 8, 2018

Mùa Vu Lan 2018 - Ngu Uyên

                               Mùa Vu Lan 2018

                            Hương thơm gởi Bố Mẹ hiền
                     Chút quà tháng bảy lòng riêng nhớ ngưới



                                                 Vu Lan 2018
                                                   Ngu uyên




Ghềnh Ráng Quê Tôi - Ngu Uyên

           

Ghềnh Ráng Tiên Sa [ Quy Nhơn ]

Ghềnh Ráng quê tôi những chiều xuống chậm
Nắng cuối ngày hấp hối trên ngọn cây
Sóng biển xô nghiêng nắng chiều vụn vở
Và dần dấn tất cả chạy vào đêm

Ghềnh Ráng bây giờ tung tăng rực rỡ
Bởi ánh đèn màu, chợt tím chợt xanh
Phố lên đèn chim về tổ bay nhanh
Điện đường lung linh như dòng sông chảy

Ghềnh Ráng xanh, mờ sương trong mỗi sáng
Chân trời hồng biển lặng sóng lăn tăn
Người bên người quên hềt mọi khó khăn
Tay trong tay xem bình minh ló dạng...

                     Qui Nhơn  2018
                     Ngu uyên





Mùa Thu - Mai Xuân Thanh

   

          Mùa Thu

Ấm áp Cali tóc muối tiêu
Hè qua lặng lẽ gió cô liêu
Quên đi cái nắng trưa gay gắt
Nhớ lại mùa Thu tớ quạnh hiu

Mấy tháng về quê con viếng mộ
Bao ngày lên lớp học trường yêu
Bạn bè gặp lại thầy cô giáo
Niên khóa bắt đầu bạn quý nhiều

Mùa Thu liễu rũ gió vi vu
Thay lá rừng phong sương sớm mù
Đất khách Cali dân tứ xứ
Quê nhà Đà Lạt mẹ lời ru

Hồng nhung hoa thắm luôn chào đón
Đại đóa cúc vàng lạnh lẽo Thu
Áo trắng học trò em kẹp tóc
Heo may mưa nhẹ với cây dù...

Mai Xuân Thanh
Ngày 22/08/2018





Nụ Hôn Rớm Máu - Trầm Vân




    Nụ Hôn Rớm Máu

Mưa buồn bỗng nhớ hôm nao
Nụ hôn sũng ướt em trao nồng nàn
Cơn mưa thánh thót ngân vang
Hàng cây nghiêng cõi thiên đàng đôi tim
Một làn tóc xõa em nghiêng
Làn hương ngây ngất êm đềm qua vai
Xuân chừng về cạnh vàng mai
Cành cây chừng nở thêm vài bông hoa
Bàn tay năm ngón nõn nà
Bấm vào thân thể thịt da rùng mình
Đôi hồn cứ thế lênh đênh
Trôi trên dòng mộng bồng bềnh phiêu du
Chìm trong hồ biếc mắt thu
Tình tôi ngụp lặn quanh bờ chiêm bao
Lời em thủ thỉ ngọt ngào
Treo trên trời biếc trăng sao hẹn hò
Nhưng rồi ai học chữ ngờ
Bóng đen địa ngục chực chờ phía sau
Một ngày lòng xé nát đau
Tình xa lỡ gãy nhịp cầu lứa đôi
Em đành phiêu lạc xa xôi

Con thuyền giông bão bầu trời ngả nghiêng
Cơn mưa rời rã niềm riêng
Tôi- trời cô lẻ- nhớ chìm phong ba
Nụ hôn ngày ấy mượt mà
Đã chia rớm máu chảy qua môi người
Tìm trong ký ức nụ cười
Cỏ sương che lấp giăng lời mộ bia
Người xa tít tắp lối về
Tình tôi ai đắp mộ khuya trăng tàn ?
      Trầm Vân



Thứ Năm, 30 tháng 8, 2018

Đôi Điều Tâm Sự: Một Thời Mới Lớn - Đỗ Chiêu Đức

Đôi Điều Tâm Sự
                       Một Thời Mới Lớn
     Trước tiên, xin mời đọc bài "thơ tình tuổi học trò" mà tôi làm hồi 10 năm trước để thấm thía hơn với Đôi Điều Tâm Sự sắp kể...   

CHIẾC LÁ CUỐI CÙNG
                         Tặng 2 bạn Liêu Chương Cầu
                                         và Kha Huệ
     Image result for chiếc lá cuối cùng  

Ai đâu kéo lại được thời gian
Dõi bóng mây xa tận cuối ngàn
Góp lại muôn rừng cây lá rụng
Cho lòng ấm lại mỗi thu sang...

Còn nhớ năm xưa em mười lăm
Mỗi độ vào thu má ửng hồng
Lay láy mắt huyền xa vắng quá
Mỗi lần nhìn lá rụng bên song (1)

Lá rụng ! Cuốn vàng bay
Lá rụng ! Biết bao ngày
Tim lòng nghe rạo rực
Em hỡi, em có hay ?!

Ở một góc trường anh trộm ngắm
Tóc thề ai xõa chấm ngang vai
Amh cũng " thề " rằng, muôn kiếp nữa
Lòng nầy vẫn tạc bóng hình ai.

Rồi như "Hà Nội băm sáu phường"
Lòng anh cũng "vướng một tơ vương"
Dẵm nát lối mòn qua trước ngõ
Nhà em, "tơ" phủ kín mặt đường! (2)

Đến ngõ nhà em, vội trở về...
Trở về, lại muốn đến... làm chi?!
Mỗi lần không gặp nghe nhung nhớ
Nhung nhớ dâng trào, lại bước đi!...

Lá rụng ! Tựa tình si
Như lứa tuổi xuân thì
Lớp lớp tràn muôn nẽo
Nhuộm vàng khắp lối đi !

Tình si ấp ủ biết bao ngày
Chấp vá tim lòng gởi tới ai
Cả một trời yêu trong nét bút
Mực mồng tơi tím, nhạt, không phai!

Mấy độ thư đi tuy bặt tăm
Dường như cũng cảm "kiếp tơ tằm"
Mỗi lượt bên song nhìn lá rụng
Gợn buồn, đôi mắt dõi... xa xăm!...

Lá rụng ! Thấy lòng sao...
Lá rụng ! Nhớ hôm nào
Bên nàng tôi đếm bước
Chợt thấy lòng nao nao !

Em trộm nhìn tôi khẽ mỉm cười
Thẹn thùng cuối mặt tóc buông lơi
Cả một trời tình như choáng ngợp
Quay cuồng mặt đất... dưới chân tôi !

Từ đó, lòng tôi ngây ngất say
Lâng lâng mơ ước chuyện ngày mai
Đẹp sao lá rụng vàng muôn lối
Đường vàng ta bước đến tương lai...

Lá rụng rạt rào phủ kín sân
Ba gian nhà trống biết bao lần
Phận nghèo, đi học trông chừng nắng
Mơ ước ngày kia đậu " Cử Nhân "...(3)

Lá rụng ! Những mơ màng
Kiệu chàng son thếp đỏ
Võng nàng theo sau đó...
Xào xạc tiếng lá vàng !...

Một hôm, thấp thỏm ngang qua ngõ
Khẩn khoản mời anh ghé lại nhà
Mẹ bảo : " Em nó còn bé lắm ! 
Buông tha xin hãy dứt nhau ra ! "

Mẹ tưởng đâu anh lính " Mã tà " (4)
Bắt ai, mà bảo hãy buông tha ?!
Chẳng qua nói khéo vì chê phận
Anh nghèo, nên lắm nỗi xót xa !

Anh biết rằng em đẹp, em giàu
Yêu em, anh xá kể chi đâu
Thói tục hay " khinh bần trọng phú "
" Môn đăng hộ đối sử nhân sầu! " (5)

Lá rụng ! Gió sầu trêu
Lá rụng ! Vấn vương nhiều
Hết rồi, ba mùa lá
Lòng tôi vẫn cô liêu!...

Ba năm mơ ước được gì đâu!
Một sớm thu sang lá đổi mầu
Rộn ràng tiếng pháo vu quy tiễn
Mỗi bước em đi, một khối sầu!

Xác pháo đỏ hồng vương khắp lối
Vàng chen xác lá gợi muôn sầu
Anh biết, em anh "còn bé lắm!"
Lấy chồng kham nổi phận làm dâu?!

Lá rụng ! Gió tơi bời
Giẫy chết lá vàng rơi
Lòng anh nghe giá buốt
Mênh mông, Ôi, đơn côi !

Vườn cũ chiều hoang lá rụng rồi
Bóng trăng chênh chếch, bóng trăng côi
Người trong giấc mộng đâu còn nữa
Chợt tỉnh ra rồi, chỉ thấy tôi!

Lá rụng ! Cuốn vàng bay
Lá rụng ! Những ai hoài
Đã năm mươi mùa lá
Ai có nhớ tình ai ?!!!

Giấc mộng tàn thu đã vỡ rồi
Tơ lòng vương vấn mãi không thôi
Năm mươi năm lẻ bao thay đổi
Lã lướt trên cành, lá vẫn rơi !

Lá rụng ! ...
Lá rụng !......
Lá rụng !..........
Chiếc lá cuối cùng sắp rụng rơi !

                          Đỗ Chiêu Đức
Chú thích :
(1) Bên SONG là bên song cửa (cửa sổ)
(2) Nhại ý bài thơ "Hà Nội ba mươi sáu phố phường" của thi sĩ Nguyễn Bính:
             Hà Nội ba mươi sáu phố phường
             Lòng chàng như có một tơ vương
             Chàng qua chiều ấy, qua chiều khác
             Góp lại đường đi, vạn dặm đường!

(3) "...đi học trông chừng nắng."  Nhà nghèo không có đồng hồ, nên chỉ xem bóng nắng trước hiên nhà để đoán giờ mà đi học cho đừng bị trễ.
(4) Lính "Mã Tà" là Cảnh Sát thời Pháp thuộc, chuyên bắt người phạm pháp. Ở Mỹ hiện nay là "Phú Lít" (Police).
(5) "Khinh bần trọng phú" là khinh nhi, coi rẻ người nghèo, và ân cần, kính trọng đối với người giàu. 
(6) "Môn đăng hộ đối" là Nhà cửa ngang bằng nhau, ý chỉ xứng hợp nhau về tài sản, gia thế, chứ không kể đến tình cảm con người.
"Môn đăng hộ đối sử nhân sầu" nhái ý câu thơ cuối trong bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu "Yên ba giang thượng sử nhân sầu." Câu thơ có nghĩ
a: "Cái chuyện Môn đăng hộ đối làm cho người ta cảm thấy buồn lòng!"
          Bài thơ nầy đã được một em học sinh cũ của tôi, nhạc sĩ La Tuấn Dzũng phổ nhạc với tựa đề "Tình Đẹp Mùa Lá Rụng" do ca sĩ Khánh Duy trình bày. Xin bấm vào link dưới đây để nghe bài hát:
 
                              .........................................
                             
        Nhớ xưa, khi khoảng 14, 15 tuổi, cứ chiều chiều là tôi và ông bạn Liêu Chương Cầu (Nhân vật Nam chính trong Bài Thơ Lá Rụng), 2 đứa lại thả bộ vào trường Tân Triều Cái Răng để học chữ Nho với Lặc Bệ ( 六伯 là Bác Sáu: Người đứng tên làm Hiệu Trưởng Hành Chánh của Trường Tiểu học Tân Triều Cái Răng) và tâm sự vụn vặt với Thầy NGUYỄN KIM LƯỠNG (Thầy LƯỠNG là con trai thứ 5 của ông Hương Quản MUÔN, ở cách nhà cô QUANG  4, 5 căn gì đó!)  
        Khi đó, cả 2 đứa đều mới vừa lỏm bỏm học các câu trong MINH TÂM BỬU GIÁM như: Kiến thiện như bất cập, kiến bất thiện như thám thang. Kiến hiền tư tề yên, kiến bất hiền nhi nội tự tĩnh dã V.V. và. V.V...
           Bây giờ thì...
        Tôi giới thiệu sơ lược về ông bạn vàng nầy của tôi nhé! Cũng là một học sinh TÂN TRIỀU cũ (Tân Hưng Cái Răng sau nầy) của ta mà!
       Học trong trường tên là LIÊU KỲ 廖其, nhưng giấy Khai Sanh thì tên LIÊU CHƯƠNG CẦU 廖章求, lớn hơn tôi 5 tuổi, học thấp hơn tôi 2 lớp.  Lý do: Học tiếng Việt trước rồi mới vào học chữ Hoa sau. Người Quảng Đông, nên tôi thường gọi anh ta bằng "TÀI LŨ" (như Anh Hai trong tiếng Việt ta vậy). Nhà nghèo, Ba làm "Tổng Khậu" nấu ăn cho trại cưa của ông "Tắc Yìn", má bán bánh chuối, nên đi học phải... "trông chừng nắng" vì không có đồng hồ. 
       Lúc đó, buổi trưa, hai đứa thường chắc mót chút đỉnh tiền còm để đi uống cà phê ở quán nước Thắng Ký của ông "Síl sán Hòn", buổi chiều thì vào trường  học chữ Nho với "Lặc Bệ" và để... nhìn lên cửa sổ phía bên hông trường, trong cánh cửa sổ đó có cô bạn học gái Kha Huệ mà anh ta để ý thương thầm. 
        Bài Thơ Lá Rụng có những đoạn: Lá rụng! Lá rụng! là do Ý của anh ta đó, vì lúc đó anh ta rất mê quyển tiểu Thuyết Hồn Bướm Mơ Tiên của Khái Hưng, nên mới nhại các từ LÁ RỤNG! LÁ RỤNG! ở cuối quyển tiểu thuyết đó.
       Một điều rất đáng tự hào là anh ta và Tôi đều là học sinh chỉ tốt nghiệp Tiểu Học tiếng Hoa ở trường Tân Triều Cái Răng, rồi cùng nhau tự học, tự nghiên cứu, và cuối cùng... cùng được dạy ở các Trung Tâm ngoại ngữ của các Đại Học, cùng đi gác và chấm thi cho các Chứng Chỉ A,B,C của môn Ngoại Ngữ tiếng Hoa.  
       Hiện giờ, ông bạn của tôi vẫn còn dạy cho Trung Tâm Ngoại Ngữ của Đại Học Khoa Học Xã Hội Nhân Văn Sài Gòn, mặc dù năm nay đã 76 tuổi rồi! (vượt qúa Thất thập nhị Huyền công, 72 phép như Tề Thiên Đại Thánh, mà còn gân lắm!)  Có người vui miệng hỏi: "Tôi thấy ông học chữ Tàu có mấy năm, ít quá, mà sao đi dạy được?" thì ông bạn của tôi cười mà trả lời rằng: "Có một bửa đang đi ngoài đường, bỗng đá được một vật gì ở dưới chân, lượm lên, thì ra là sách dạy làm THẦY GIÁO DẠY TIẾNG HOA, nên về nhà coi theo đó mà đi dạy, dễ ợt!" ??!!...   
         Trở lại truyện lúc 14, 15 tuổi...
         Một hôm, Bác Sáu kể cho nghe về chuyện tình của Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài, thì anh bạn Cầu của tôi đã nổi hứng  làm một bài Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú như sau:

   梁祝姻緣                 Lương Chúc Nhân Duyên

千秋梁祝此姻緣,  Thiên thu Lương Chúc thử nhân duyên,
悲慘兩同共筆硯。   Bi thảm lưỡng đồng cộng bút nghiên.
竹綠流風分折斷,   Trúc lục lưu phong phân chiết đoạn,
梅黃借雨泣纏綿。   Mai Hùynh tá vũ khấp triền miên.
三年求學情如海,   Tam niên cầu học tình như hải,
一旦相離恨似天。   Nhất đán tương ly hận tự thiên.
欲請高天頒旨意,   Dục thỉnh cao thiên ban chỉ  Ý,
如何薄待此良緣?   Như hà bạc đãi thử lương duyên?
       廖其(章求)           Liêu Kỳ (Chương Cầu)

        Bài thơ tuy còn ngô nghê, sử dụng nhiều từ trùng lặp, nhưng ý tứ cũng liền lạc và đúng niêm luật, nên đọc lên nghe cũng rất xuôi tai. Lúc đó Tôi và anh bạn tôi đều mới bắt đầu học Hán Văn nên tôi phục anh bạn tôi quá chừng chừng, và cũng vì vậy mà cho đến ngày hôm nay tôi vẫn còn nhớ thuộc lòng bài thơ nầy. Đọc lại vẫn còn thấy hay hay, nên xin giới thiệu với các bạn đọc chơi cho vui.
     
Nghĩa Bài Thơ:
         Cho đến ngàn năm sau thì chuyện tình của Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài nầy vẫn là chuyện tình bi thảm của lứa đôi trong lúc cùng chung đèn sách bút nghiên. Như cây trúc xanh trước gió bị gãy ra làm nhiều đoạn, và như mai vàng mượn hạt mưa làm giọt lệ để khóc triền miên. Ba năm cùng học hành với nhau tình sâu như biển, trong một ngày lại phải chia tay nhau thì cái hận cũng cao ngút trời. Muốn hỏi Trời già rằng sao không ban ra cái chỉ ý tốt, mà lại đối xử tệ bạc với mối lương duyên nầy?!

         Đọc câu số 4: "Mai Huỳnh tá vũ khấp triền miên", làm ta nhớ đến một vế thơ của Thế Lữ trong bài "Giây Phút Chạnh Lòng" là:

            ....Em đứng nghiêng mình dưới gốc mai,
                Vin ngành sương đọng lệ hoa rơi.
                Cười nâng tà áo đưa lên gió,
                Em bảo: Hoa kia khóc hộ người!...

Diễn Nôm:
                  Mối Duyên Lương Chúc
            Ngàn năm Lương Chúc mối tơ duyên,
            Bi thảm làm sao nợ bút nghiên.
            Trúc gãy thôi xanh sầu gió thảm,
            Mai vàng mượn lệ khóc triền miên.
            Ba năm đèn sách tình như biển,
            Một buổi chia lìa hận tựa thiên.
            Dám hỏi cao xanh sao khắc nghiệt,
            Vì đâu bạc đãi mối lương duyên ?

 Lục bát :
            Ngàn năm Lương Chúc nhân duyên,
            Chuyện tình bi thảm bút nghiên thêm rầu.
            Gió đưa trúc gãy vì đâu,
            Mai vàng rướm lệ nghe sầu mênh mông.
            Ba năm chung học tình nồng,
            Một ngày ly biệt hận lòng vút cao.
            Ông xanh sao nở gắt gao,
            Chia lìa đôi lứa đành sao hỡi Trời!?

                              Đỗ Chiêu Đức

                    THANH MINH

        Một năm có 4 mùa, mỗi tháng có 2 tiết, Thanh Minh 清明 là tiết đầu của tháng 3, thường nằm ở cuối tháng 2 và giữa tháng 3 trở lại. Tiết Thanh Minh như ta đã biết qua Truyện Kiều:

              Thanh Minh trong tiết tháng ba,
              Lễ là Tảo Mộ, hội là Đạp Thanh.

       Thanh 清 là trong, Minh 明 là sáng. Tiết Thanh Minh 清明節 là ngày tiết trời trong sáng của cuối Xuân sau những ngày mưa xuân phơi phới làm lạnh lẽo lòng người!  Sau những ngày rét mướt của mùa đông, thì đây là dịp để ra thăm lại mồ mả ông bà, nên mới có lễ Tảo Mộ, Tảo 掃 là quét dọn, Mộ 墓 là mồ mả. Tảo Mộ 掃墓 là quét dọn lại mồ mả ông bà cho sạch sẽ khang trang, đồng thời cũng làm Lễ cúng bái như trình cho ông bà Tổ Tiên biết để cùng bắt tay vào vụ mùa sắp đến. Sẵn dịp trời quang mây tạnh, sau những ngày mưa phùn rét mướt, giờ đây thì:
                       Cỏ non xanh rợn chân trời,
                 Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

nên... nam thanh nữ tú lại có dịp du Xuân, đạp lên cỏ non mà dạo khắp núi đồi gò đống. Đạp Thanh 踏青 là đạp lên trên những cỏ non xanh biếc, "Xuân du phương thảo địa" mà...

                      Ngổn ngang gò đống kéo lên,
                  Thoi vàng hồ rắc tro tiền giấy bay!

       Nói thì nói thế, chứ thời tiết cũng còn lạnh lắm, không phải cái lạnh hiu hắt của gió Thu, cũng không phải cái lạnh buốt da của mùa Đông, mà là cái lạnh dễ chịu của mưa Xuân phơi phới. Ta hãy nghe nhà thơ ĐỖ MỤC tả cảnh Thanh Minh như sau: 

          THANH MINH                                    清明

Thanh minh thời tiết vũ phân phân      清明時節雨纷纷
Lộ thượng hành nhân dục đoạn hồn     路上行人欲断魂
Tá vấn tửu gia hà xứ hữu?                     借問酒家何處有?
Mục đồng dao chỉ Hạnh Hoa Thôn !     牧童遥指杏花村!
                   Đỗ Mục                                         杜 牧
Ghi Chú :
      1. Phân Phân: Là Liên tục không dứt, là Phơi Phới, là Phơn phớt.
      2. Dục Đoạn Hồn: là Muốn đứt cái hồn ra, là buồn thúi ruột.
      3. Tá Vấn: là Ướm hỏi, là Hỏi thăm (việc gì hoặc cái gì đó...)
      4. Mục Đồng: là những đứa bé chăn dê, chăn cừu hoặc chăn trâu...
      5. Hạnh Hoa Thôn: Có 2 nghĩa:
         * Là cái Thôn tên là Hạnh Hoa, Xóm Hạnh Hoa.
         * Là Cái xóm ở phía sau rừng hoa Hạnh.
      Như trên đã nói, Thanh Minh là dịp để quét tước lại mồ mả ông bà, là hội Đạp Thanh để nam thanh nữ tú du xuân... Nhưng, Đỗ Mục lại bảo là "dục đoạn hồn."  À , thì ra, tác giả đang xa nhà, ta hãy đọc lại cả câu xem sao...
                    Lộ thượng hành nhân dục đoạn hồn...
      Người lữ khách xa nhà đi trên đường một thân một bóng, thay vì cùng người nhà đi tảo mộ hoặc đạp thanh, nên càng cảm thấy thấm thía hơn với nỗi buồn xa xứ trong cảnh mưa phùng lất phất... cho nên mới muốn tìm ly rượu để sưởi ấm cõi lòng tha hương chiếc bóng...

Diễn nôm:
                      THANH MINH

            Thời tiết Thanh minh lất phất mưa
            Trên đường lữ khách muốn say sưa
            Rượu ngon ướm hỏi nơi đâu bán?
            Xóm Hạnh, Mục đồng chỉ trỏ thưa!

      Theo Giai Thoại Văn Chương VN của Thái Bạch thì: Các cụ ta ngày xưa muốn tỏ rõ cái tinh thần độc lập, cái đầu óc cầu tiến, không quá lệ thuộc vào cổ nhân, nên đã "chê" bài thơ Thất Ngôn Tứ Tuyệt nầy của Đỗ Mục là: Mỗi câu dư 2 chữ. Các Cụ lý luận như thế nầy: "Thời tiết vũ phân phân" thì biết là thời tiết của Thanh Minh rồi, nên không cần phãi có 2 chữ Thanh Minh nữa. "Hành nhân dục đoạn hồn" là đủ nghĩa rồi, không cần phải có 2 chữ Lộ Thượng, đi trên đường chớ không lẽ đi "dưới nước"?!  "Tửu gia hà xứ hữu?" đã là câu hỏi rồi, cần chi phải có từ "Tá Vấn"?  "Dao chỉ Hạnh Hoa Thôn" đủ nghĩa rồi, ai chỉ mà chả được, cần gì phải "Mục đồng" chỉ mới được! Như thế bài thơ Thất Ngôn trên nên viết lại thành Ngũ Ngôn cho nó gọn, như sau:

                   Thời tiết vũ phân phân
                   Hành nhân dục đoạn hồn
                   Tửu gia hà xứ hữu ?
                   Dao chỉ Hạnh Hoa thôn !

       Nói thì nói thế, chứ thơ Ngũ ngôn và Thất ngôn âm điệu và tiết tấu vẫn khác nhau xa, nhưng đây cũng là một gợi mở của Cha Ông để cho con cháu đừng quá bị lệ thuộc vào cổ nhân mà thôi! Âu cũng là một sáng kiến hay đó!...
                   ......................................................

       Học theo gương của người xưa, nhớ hồi tôi còn trẻ (khoảng 15- 16 tuổi gì đó), khi vừa đọc được bài viết trên của Thái Bạch, cũng vừa là lúc Thầy đang cho đọc bài "Phùng Nhập Kinh Sứ" của Sầm Tham như sau:

        逢入京使              PHÙNG NHẬP KINH SỨ
    故園東望路漫漫,  Cố viên đông vọng lộ man man,
    雙袖龍鐘淚不幹。  Song tụ long chung lệ bất can.  
    馬上相逢無紙筆,  Mã thượng tương phùng vô chỉ bút,
    憑君傳語報平安.    Bằng quân truyền ngữ báo bình an !
              岑参                                  Sầm Tham.
NGHĨA BÀI THƠ :
                GẶP NGƯỜI SỨ GIẢ ĐI VỀ KINH THÀNH
       Cố viên là cố hương, là quê nhà ở mãi tận phương trời Đông với đường xá xa xôi diệu dợi (lộ man man!)  Hai tay áo già nua lụm cụm (Song tụ long chung) không lau sạch hết dòng lệ nhớ quê hương không lúc nào khô cạn (lệ bất can).  Gặp nhau giữa đường trên ngựa đây, lại không có bút mực giấy viết gì cả!  Chỉ nhờ anh nhắn miệng lại dùm là: Tôi rất khỏe mạnh bình an mà thôi!

DIỄN NÔM :
                            GẶP SỨ LAI KINH
                   Vườn xưa diệu dợi mỏi mòn trông,
                   Lụm cụm khôn ngăn lệ nhỏ ròng.
                   Trên ngựa gặp nhau không giấy viết,
                   "Bình an" nhờ báo kẻo nhà mong!

        Bắt chước tiền nhân, lúc đó tôi cũng lý luận với thầy rằng: Trông ngóng về hướng Đông, vì quê nhà ở nơi đó, cho nên chỉ nói: "Đông vọng lộ man man" là đủ rồi, đâu cần phải có từ "Cố Viên"?! Già nua lụm cụm nên lau không khô dòng lệ nhớ quê hương, lau bằng gì mà chả được, đâu cần phải lau bằng 2 tay áo, nên câu 2 cũng không cần phải có từ "Song Tụ", chỉ "Long chung lệ bất can" là đủ.  Tương tự câu 3 cũng vậy, gặp nhau ở đâu cũng được, không nhất thiết là gặp nhau trên ngựa mới không có giấy bút, nên chỉ "Tương phùng vô chỉ bút" là đủ rồi! Câu chót thì lại lịch sự đến khách sáo, gặp anh, không nhờ anh thì nhờ ai đây, nên đơn giản là "Truyền ngữ báo bình an" cũng gọn gàng và lịch sự lắm rồi!  Nên, bài thơ Thất Ngôn trên sẽ trở thành bài thơ Ngũ Ngôn như sau:

                   Đông vọng lộ man man,
                   Long chung lệ bất can.
                   Tương phùng vô chỉ bút,
                   Bằng ngữ báo bình an !

       Thầy giáo lúc bấy giờ khen lấy khen để, cho là học sinh có ý kiến và suy nghĩ hay ho, không đọc thơ một cách cứng ngắt bài bản...  Thầy đâu có biết rằng, cái thằng học trò ranh mảnh nầy chỉ bắt chước và làm theo "Giai Thoại Văn Chương Việt Nam" của Thái Bạch mà thôi, chớ cũng chẳng hay ho gì hơn ai hết!

       Chuyện qua đã hơn 50 năm, bây giờ nhắc lại, lại cảm thấy bồi hồi xúc động, thời gian không chờ đợi ai cả, thoáng cái mà tuổi đã 70 rồi!  Muốn nói cho Thầy biết là mình chỉ nhại lại cái việc làm của người đi trước mà thôi, thì Thầy đã không còn nữa!... Thầy ơi!...
                                                      
*THẦY :
          Ở đây là Bác Sáu 六伯 (Lặc-Bệ , theo âm Phúc Kiến), có bằng Cao Đẳng Tiểu Học thời Pháp Thuộc, nên đứng tên làm Hiệu Trưởng về Mặt Hành Chánh cho trường Tiểu học TÂN TRIỀU Cái Răng, trước nhiệm kỳ của cô NGUYỄN KIM QUANG.  Ông là anh ruột của bà Hiệu Trưởng họ THI 施 (Bà Sứ) sau này.  Ông không trực tiếp đứng lớp, chạy loạn từ Trung Hoa đại lục sang, nhưng nói tiếng Việt rất sỏi như người bản xứ, giỏi Văn Chương Văn Học Hán Việt.  Ông ở trọ hẵn trong trường học, rất thân thiện và hòa đồng với học sinh. Chúng tôi thường đến phòng ông chơi, học thơ Đường, Tản văn, làm câu đối... và thường gọi ông là Bác Sáu (Lặc Bệ) cho thân mật, chớ không có gọi bằng Thầy, hoặc Hiệu Trưởng gì cả!

                      Đỗ Chiêu Đức






Sao Thu Chưa Về - nvs.Vũ Thụy



      Sao Thu Chưa Về

  Cuối mùa rồi sao thu không chịu tới
  Chưa đổi màu sao lá vội rời cây
  Lá bỏ đi cây run rẩy cành gầy
  Đông ập đến cho thêm dày thương nhớ
  Tình bướm đêm chết khi vừa mới nở
  Cánh phượng đầy bỡ ngỡ khép tin yêu
  Có chăng em trời nắng xế đường chiều
  Hai bóng nhỏ cho nhau nhiều kỷ niệm
  Em còn nhớ mình chơi trò cút kiếm
  Biết em đâu nhưng chết lịm em hù
  Anh có dịp thấy được cả trời thu
  Trong đôi mắt mịt mù tình sương khói
  Mắt em buồn nhưng mắt em biết nói
  Cho hồn anh chới với giữa mênh mông
  Rồi một ngày em bỏ trốn tình nồng
  Biết em đó nhưng anh không tìm được
  Và hôm nay mưa nhiều buồn thấm ướt
  Ướt giọt tình thiếu nước đã lạnh khô
             
           nvs.Vũ Thụy
       (Trích tập thơ Nửa Gánh Thu Sầu)






* Em Đâu Rồi - Mai Xuân Thanh



       Em Đâu Rồi

Hạ tàn Thu chớm bạn nơi đâu
Thấy nhớ bâng khuâng nhỏ lệ sầu
Những tưởng Vu Lan ta hẹn ước
Nào hay mây gió giấc nồng sâu
Chiêm bao thấp thoáng em dời gót
Tỉnh mộng mơ hồ mắt đẫm châu
Xa khuất người yêu nghe bối rối
Một mình thui thủi có ai đâu ...

Mai Xuân Thanh
Ngày 23/08/2018



Lửng Lơ Ngày Mới - Trầm Vân



   Lửng Lơ Ngày Mới
Ngày mới lại về theo tiếng ca
Những lời chim hót bản giao hòa
Lòng tôi tiếng dế kêu sương sớm
Ngan ngát đồi thông mấy luống hoa

Ngày mới về theo những bước chân
Tiếng cười vui nối nhịp xa gần
Bước ngược lòng tôi xanh ký ức
Con đường lối hẹn phố tình nhân
Ngày mới về theo tiếng gió đưa
Áo ai bay trắng tuổi dại khờ
Chợt thả về xưa làn tóc biếc
Cái thưở thẹn thùng mắt giấu mơ
Cái thưở tay dài nghiêng nón che
Nụ cười e lệ nép môi khoe
Cho ai chết giữa đôi bờ mắt
Chết giữa hồ thu sóng vỗ về
Ngày mới về theo những ngậm ngùi
Áo người bay lạc hướng xa xôi
Tình tôi mãi lượn dòng sông cũ
Ắp những câu thơ nhớ đắp bồi
     Trầm Vân



Thứ Tư, 29 tháng 8, 2018

Đôi điều tâm sự: Giang Hồ Khí Cốt - Đỗ Chiêu Đức


Đôi điều tâm sự:
                     Giang Hồ Khí Cốt

        Nhân đọc bài Tạp Ghi "Tiếu Ngạo Giang Hồ" của Thầy Đoàn Xuân Thu, làm cho tôi xúc động tâm tình nhớ đến một tình huống... Tiếu Ngạo của mình (nhưng chưa có Giang Hồ!) Bây giờ thì xin Quý vị hãy đọc lại bài thơ "Giang Hồ" của Phạm Hữu Quang, để thấy được thế nào là Giang Hồ và cái "Khí Cốt  Giang Hồ" là ra làm sao?!... thì mới thấm thía được câu chuyện tôi sẽ kể dưới bài thơ nầy...
     ...Phạm Hữu Quang (1952-2000), quê Thốt Nốt, Cần Thơ, có bài thơ “Giang Hồ” đọc nghe rất đã và rất tiếu ngạo giang hồ...
 
Tàu đi qua phố, tàu qua phố
Phố lạ mà quen, ta giang hồ
Chẳng lẽ suốt ngày bên bếp vợ
Chẻ củi, trèo thang với… giặt đồ?

Giang hồ đâu bận lo tiền túi
Ngày đi ta chỉ có tay không,
Vợ con chẳng kịp chào xin lỗi
Mây trắng trời xa, trắng cả lòng…

Giang hồ ta ghé nhờ cơm bạn
Đũa lệch mâm suông cũng gọi tình
Gối trang sách cũ nằm nghĩ bụng
Cười xưa Dương Lễ với Lưu Bình.

Giang hồ có bữa ta ngồi quán
Quán vắng mà ta chẳng chịu về
Cô chủ giả đò nghiêng ghế trống
Đếm thấy thừa ra một gốc si.

Giang hồ mấy bận say như chết
Rượu sáng chưa lưa đã rượu chiều
Chí cốt cầm ra chai rượu cốt
Ừ. Thôi. Trời đất cứ liêu xiêu…

Giang hồ ta chẳng thay áo rách
Sá gì chải lược với soi gương
Sáng nay mới hiểu mình tóc bạc
Chợt tiếng trẻ thưa ở bên đường.

Giang hồ ba bữa buồn một bữa,
Thấy núi thành sông biển hoá rừng
Chân sẵn dép giầy, trời sẵn gió
Ngựa về. Ta đứng. Bụi mù tung…

Giang hồ tay nải cầm chưa chắc
Hình như ta mới khóc hôm qua
Giang hồ ta chỉ giang hồ vặt
Nghe tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà

             Phạm Hữu Quang

 
      Trước khi kể chuyện của tôi, xin mời tất cả chúng ta cùng ôn lại hai tác giả lớn trong văn học cổ Việt Nam ta nhé, đó là...
       
    Inline image Nguyễn Khuyến, Tam nguyên Yên Đỗ, vì ông ở làng Yên Đỗ và đậu đầu 3 cuộc thi nên gọi là TAM NGUYÊN: Đậu đầu thi hương gọi là HƯƠNG NGUYÊN  (còn gọi là GIẢI NGUYÊN), đậu đầu thi hội gọi là HỘI NGUYÊN và đậu đầu thi đình gọi là ĐÌNH NGUYÊN  (còn gọi là TRẠNG NGUYÊN). Ông rất giỏi vể làm câu đối. Ngày xưa, khi nhà có điều hiếu hỉ như đám cưới, đám ma... thường được mừng chúc hoặc chia buồn bằng đôi câu đối. Muốn có câu đối hay thì phải nhờ đến những bậc Đại khoa có tài như Nguyễn Khuyến làm thì mới có giá trị. Muốn nhờ những bậc đại khoa nầy làm câu đối thì phải có lễ vật, tốn kém vô cùng. 
          Một hôm, có một anh kia mang lễ vật rất hậu đến nói với cụ Tam Nguyên rằng: Nhờ cụ làm cho một đôi câu đối mà hiếu hay hỉ gì cũng dùng được cả vì đám cưới, đám ma, chúc thọ... nhiều quá, mỗi lần đều rất tốn kém, thà tốn một lần cho xứng đáng để khỏi phải mỗi lần mỗi tốn. Cụ cười cho cái hảo ý của anh ta, và viết cho đôi câu đối như sau:
         
     Nhất đức tại thiên tùy phó phận,    一德在天随付份,
     Thất tình ư ngã khởi vô tâm.          七情於我豈無心.

Giải thích như sau:
       * Nếu là đám cưới sẽ có nghĩa như thế nầy: Cái đức là do Trời ban, duyên Trời rung ruổi phải gặp số phận nhân duyên như thế. Về mặt tình cảm của con người  (Thất tình là Hỉ, Nộ, Ái , Ố, Ai, Cụ, (lạc), Dục) Tôi đâu thể vô tâm trước cái vui của quý vị... (Khởi vô tâm: có nghĩa: Sao mà có thể vô tâm cho được!)
        * Nếu là đám ma thì sẽ giải thích như sau:  Cái đức do Trời ban cho số phận có bao nhiêu đó mà thôi (đừng buồn nữa). Về mặt tình người thì tôi đâu thể vô tâm làm ngơ (trước sự tang tóc của các vị cho được!...)
        * Nếu là chúc thọ thì lại có nghĩa: Cái đức của Trời cho được hưởng phước phần trường thọ là vậy, còn về nhân tình thì tôi cũng đâu thể làm ngơ, tức là tôi cũng chúc mừng cho quý vị đó! 

Image result for Trần Tế XươngBây giờ, thì ta nói về Trần Tế Xương nhé! TTX có một bài thơ  theo thể HÁT NÓI là "Tết Dán Câu Đối", trong đó có 2 câu đối rất hay. Mời Quý vị cùng đọc bài Hát nói sau:
 
"Nhập thế cục bất khả vô văn tự
Chẳng hay ho cũng húng hắng một vài bài
Huống chi mình cũng đã đỗ tú tài
Ngày tết đến cũng phải một vài câu đối
Đối rằng:
"Cực nhân gian chi phẩm giá phong nguyệt tình hoài 
  極 人 間 之 品 價,       風 月 情 懷
Tối thế thượng chi phong lưu, giang hồ khí cốt” 
  最 世 上 之 風 流,    江 湖 氣 骨

Viết vào giấy dán ngay lên cột
Hỏi mẹ mày rằng dốt hay hay
Rằng hay thì thật là hay
Chẳng hay sao lại đỗ ngay tú tài

Xưa nay em vẫn chịu ngài".  
         Hai câu đối trên thuộc loại Câu đối 10 chữ, (thuộc loại văn Biền Ngẫu kiểu Tứ Lục & Lục Tứ) có nghĩa như sau:

        Câu 1:  Cái phẩm giá cao nhất trong đời nầy là:  Tình hoài vọng về gió trăng phong nguyệt (chỉ sự cao thượng, không nhuốm mùi tiền bạc tầm thường của thế tục).
       Câu 2:  Cái phong lưu nhất trên đời nầy là: Khí cốt của kẻ giang hồ (rày đây mai đó, không màng đến lợi danh tầm thường của nhân thế!)
           
 Inline image Bây giờ thì tôi sẽ kể một câu chuyên về bản thân tôi nhé! 
       Năm tôi 20 tuổi, nghĩa là đã đi dạy học được 2 năm rồi, và cũng có nghĩa là đến tuổi động viên phải đi lính rồi. Tôi là Chuyên viên Điện ảnh của Sư đoàn 3 Không Quân Biên Hòa. Cuối tuần, thường hay đi phép về Chợ Lớn, Ở trọ nhà một người bạn học cũ. Một hôm, khi vừa về đến Chợ Lớn thì ông bạn của tôi cho biết tin là mẹ của người chủ nhà trọ qua đời tối hôm trước. Trong lúc bất ngờ, không kịp chuẩn bị, sẵn miếng vải lị ông bạn tôi làm để điếu tang, tôi viết luôn đôi Câu đối của Cụ Nguyễn Khuyến lên đó:

    Nhất đức tại thiên tùy phó phận,   一德在天随付份,
    Thất tình ư ngã khởi vô tâm.         七情於我豈無心.

        Lúc đó, tôi còn trẻ, nét chữ còn mạnh mẽ như rồng bay phượng múa, làm cho một người bà con đến điếu tang trầm trồ và tìm đến gặp tôi để hỏi thăm... đủ thứ. Sau đó, hỏi lại người bà con, mới biết Ông ta họ Lưu và là vua mức bí của Chợ Lớn, thấy tôi tuổi trẻ mà viết được Câu đối cao siêu làm vậy, lại thêm nét chữ thanh nhã bay bướm, nên mới hỏi thăm gia thế và định bắt tôi... làm rễ. Mời tôi đến nhà chơi, ăn cơm, để cho con gái ông ta xem mắt, và rất thường xuyên lui tới với gia đình ông bạn của tôi.
       Chuyên tưởng như xong xuôi đâu đấy cả rồi, chuyến nầy chuột sa hủ nếp, tha hồ mà béo nhé! Tết năm đó, tôi ăn mức bí ngọt tới tim luôn, sẵn hứng chí, thừa thắng xông lên, tôi viết luôn một đôi liễn Tết dán lên nhà của người bà con để khoe tài. Đó là đôi liễn "quỷ quái" của Ngài Trần Tế Xương đó:
     Cực nhân gian chi phẩm giá, phong nguyệt tình hoài,
       極 人 間 之 品 價,       風 月 情 懷
     Tối thế thượng chi phong lưu, giang hồ khí cốt.
       最 世 上 之 風 流,    江 湖 氣 骨 !

       Ông Vua mức bí đến xem thấy, hỏi của ai viết, rồi bảo gở xuống, và từ đó ông ta không thèm hỏi thăm đến tôi nữa. Đợi hoài không thấy động tịnh gì cả, tôi đâm nghi ngờ, rồi hỏi thăm người bà con, thì được họ nói cho biết như sau:
       Trước đây, ông ta thấy tôi tuổi trẻ mà có học thức, văn hay chữ tốt, nên định chiêu tôi làm rễ để tiếp giúp ông ta quản lý sổ sách, phát triển làm ăn, chừng thấy câu đối Tết của tôi, Ông ta nản chí quá. Suốt ngày nó cứ "Phong nguyệt tình hoài" hú hí với con gái mình hoài, không biết lo làm ăn, lại còn "giang hồ khí cốt" nữa chứ, không khéo nó rủ rê con gái mình bỏ nhà theo nó đi giang hồ thì bỏ bu luôn. Không được, phải kiếm thằng nào chí thú làm ăn, giúp ông ta làm giàu thêm nữa thì mới được... Thế là vãn tuồng cải lương!
       Quý Vị thấy đó, đồng thời cũng là một Câu đối, nhưng Câu đối của Nguyễn Khuyến thì người ta khen hay muốn gả con gái cho, còn Câu đối của Trần Tế Xương thì làm hư việc hết... Suy cho kỹ thì cũng tại mấy chữ "Giang hồ Khí cốt" mà ra cả!

       Đây là chuyện thật một trăm phần trăm của đời tôi hồi còn trẻ, tuổi trẻ thường sống với lý tưởng cao nhã, tình cảm cao thượng mà phóng túng, không chịu gò bó vào vòng danh lợi, không nuốn hơn thua với đời, mà chỉ chuộng cái khí cốt giang hồ thanh cao, đẹp đẽ... Hơn nữa, Trần Tế Xương là một tác giả lớn trong chương trình học, mà học sinh nào thích văn chương đều rất ngưỡng mộ, đâu có ngờ câu đối của ông ta lại cho "ép phê ngược" như thế! Thì ra cuộc đời thực tế khác hẵn với cuộc đời trong văn chương là vậy! Lúc đó, tôi cũng rất ngạc nhiên là, tại sao câu đối của Trần Tế Xương hay là thế, mà lại bị chê dữ vậy...
        Bây giờ thì đầu đã bạc rồi, con người đâm ra thực tế hơn. Nói thật, nếu bây giờ có "thằng nào đó" mà có cái "Khí cốt giang hồ" đến để hỏi cưới con gái tôi, thì chắc tôi cũng lắc đầu từ chối, trừ phi con gái tôi nó chịu!... (Nói chơi, chứ con gái tôi đã có chồng con hết rồi!)
   
                       CHIẾN TRANH CHÍNH TRỊ

       Sẵn đang trên đà hồi tưởng, xin cho Đỗ Chiêu Đức tôi kể luôn một câu chuyện văn chương thời trai trẻ cùa mình nữa cho nó đủ bộ...
         
       Inline image   Như trong bài "Giang hồ Khí cốt" vừa rồi có nói, tôi là Chuyên viên Điện ảnh của Sư Đoàn 3 Không quân Biên Hòa, Phòng Điện Ảnh của Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chính Trị, thuộc loại lính Thành phố. Trong Không Quân có lệ, gọi thượng cấp là Ông Thầy, nhất là các loại lính nghề, lính kỹ thuật... Các Trung sĩ, Thượng sĩ, nhất là các Chuẩn úy già... đều là "Ông Thầy" cả! Đặc biệt, chỉ có anh Binh Nhất Đỗ Chiêu Đức, mặc dù là lính, nhưng vẫn được mọi người gọi bằng Ông Thầy! Tại sao?!  Xin thưa: Có 3 lý do như sau: Thứ nhất, là vì mọi người đều biết anh ta là thầy giáo xuất thân, là thanh niên nhưng trông đạo mạo như một ông cụ non, tác phong nghiêm chỉnh, chửng chạc. Thứ hai, là mọi người đều biết anh ta rất giỏi chữ Nho và văn chương, có gì thắc mắc về mặt chữ Nho chữ Hán, cứ tìm anh ta là xong ngay. Thứ ba, là lý do quan trọng nhất, vì anh ta là... Chuyên viên Phòng Tối... Chuyên rửa, rọi và tráng phim ảnh. Hễ anh em nào, kể cả cấp chỉ huy, sĩ quan... nhà có đám ma, đám cưới... thì sau đó đều phải kiếm anh ta để... rửa dùm vài cuốn phim, nên câu mà anh ta thường nghe nói nhất là: "Ông Thầy... giúp rửa dùm vài cuồn phim nhen!" Lúc bấy giờ, lính Mỹ đã rút hết, giao toàn bộ cơ sở vật chất đã xây dựng lại cho quân đội VN tiếp nhận, trong đó có Phòng Điện ảnh với đầy đủ thiết bị máy móc tráng, rọi, và rửa phim ảnh, kể cả máy xấy hình và một lô giấy KODAK khổng lồ gần hết DATE, nên ông Trung Tá Tham Mưu Phó CTCT cho sử dụng thoải mái, và vì anh ta là lính trẻ, độc thân, nên ở luôn tại phần sở TMP của mình, vì thế mà ban đêm, thức tráng phim, rửa hình thoải mái.  Cứ phim đưa ngày hôm nay thì sáng hôm sau đã có hình rồi!  Mau hơn ngoài tiệm nhiều mà lại... khỏi tốn tiền nữa, nên kêu một tiếng "Ông Thầy" không ai tiếc cả!
       Sau Hiệp Định Ba Lê năm 1973, mọi người đều đinh ninh là... Hòa Bình sắp đến, ai cũng mong chờ và hy vọng, nhưng sau những đợt trao trả tù binh... súng vẫn còn nổ lai rai hoài, thấy mà phát rầu, riêng Tham Mưu Phó CTCT của Sư Đoàn thì lại rộn rịp hẳn lên, cấp trên chỉ thị xuống là thời gian sắp tới đấu tranh Chính Trị là chính trong Hòa Hợp Hòa Giải dân tộc, rồi Tổng Tuyển Cử  v.v... và v. v.... Nhưng, đợi mãi , vẫn không thấy gì, 1973 đi qua, rồi 1974 cũng đi... tuốt, nên Tết đầu năm 1975, anh lính trẻ có làm 2 bài thơ Thất Ngôn Tứ Tuyệt để gởi đăng báo như sau:
 
         長望和平          TRƯỜNG VỌNG HÒA BÌNH
 
     機場野草炎黃色     Cơ trường dã thảo viêm hoàng sắc
     難使春風吹又生     Nan sử xuân phong xuy hựu sanh
     不見梅花和燕子     Bất kiến mai hoa hòa yến tử
     年來未覺有何更 !   Niên lai vị giác hữu hà canh !
 
     年來未覺又何新 ?   Niên lai vị giác hựu hà tân,? 
     烽火猶愁軍與民     Phong hỏa do sầu quân dữ dân
     長望和平長不到     Trường vọng hòa bình trường bất đáo
     不求春至又逢春 !   Bất cầu xuân chí hựu phùng xuân !
 
Chú thích :
       * "Xuân phong xuy hựu sanh" là lấy ý ở hai câu thơ của nhà thơ Bạch Cư Dị là "Dã hỏa thiêu bất tận, xuân phong xuy hựu sanh , 野火燒不盡,春風吹又生". Có nghĩa: Sức sống của cỏ ngay cả "Lửa dại đốt cũng không thể chết được, vì khi gió xuân thổi là tất cả cỏ dại sẽ xanh tốt trở lại ngay!" 
       * "Cơ trường": là Phi trường. Ta gọi Phi trường nghĩa là Sân bay, Sân để cho máy bay cất cánh bay đi. Còn người Hoa gọi là Cơ Trường, là Sân để cho máy bay đậu. Đây gọi là tập quán ngôn ngữ và là cái khác nhau giữa tiếng Việt và tiếng Hoa. Một ví dụ nữa như: Ta gọi Người Xem là Khán Giả, còn người Hoa gọi là Quan Chúng...

Dịch nghĩa :
       Cỏ trong phi trường vàng úa như bị cháy xém, khó có thể nào gió xuân thổi mà có thể xanh tốt trở lại được.  Cũng chẳng thấy có hoa mai nở và chim én bay lượn, mùa xuân đã đến rồi mà lại chẳng thấy có gì thay đổi cho có vẻ xuân cả!
       Chẳng có gì đổi mới cho có vẻ xuân thì xuân đến mà chi?  Chiến tranh vẫn còn làm cho quân và dân lo rầu buồn bã. Dài cả cổ trông ngóng Hòa Bình, mà hòa bình nào có tới cho đâu, chẳng cầu mùa xuân đến thì lại vẫn phải đón xuân như thường!

Diễn nôm:
                Phi trường cỏ dại vàng như cháy,
                Gió xuân khó khiến lại xanh um.
                Cũng chẳng hoa mai, chim én lượn,
                Xuân sang chẳng thấy có gì xuân!
 
               Chẳng có gì xuân sao gọi xuân?
               Chiến tranh sầu muộn cả quân dân
               Trông ngóng hòa bình trông chẳng thấy
               Chẳng cầu xuân đến lại mừng xuân!
 
       Hai câu cuối của bài Tứ Tuyệt sau là nhại ý của hai câu thơ của nhà thơ Xuân Diệu:
                   Tôi có chờ đâu có đợi đâu
                   Mang chi xuân đến gợi thêm sầu!
 
       Được phép của Ngài Trung Tá Tham Mưu Phó CTCT Phạm Kim Lân, anh ta viết luôn một đôi liễn Tết dán ở phía trước Văn Phòng chánh của TMP CTCT như sau:
 
        戰征 難阻春風至    CHIẾN TRANH nan trở xuân phong chí,
        政治 猶期勝利來    CHÍNH TRỊ do kỳ thắng lợi lai.
 
Dịch nghĩa :
        Chiến tranh cũng khó mà cản trở được gió xuân thổi đến ,
        (chiến tranh thì chiến tranh, mùa xuân đến thì vẫn cứ đến).
        Chính trị thì còn đang kỳ vọng vào thắng lợi sắp đến!
 
        Câu đối trên còn hay ở chỗ dùng được 4 chữ CHIẾN TRANH CHÍNH TRỊ để mở đầu 2 câu đối và nêu được cái nhiệm vụ chính yếu của CTCT trong thời gian sắp tới!
        Rất tình cờ, thằng bạn Nguyễn Hoàng Hưng cũng là Chuyên Viên Điện Ảnh ở Sư Đoàn 4 Không Quân, phi trường Trà Nóc, Thành phố Cần Thơ, gọi điện xin đôi câu đối để dự thi cho Đặc San hay Giai Phẩm xuân gì đó của TMP CTCT Sư Đoàn 4 KQ, tôi bèn gởi ngay 2 câu đối trên cho anh ta với đầy đủ giải thích, rồi quên luôn... Hai ba tuần sau, Hưng vui mừng gọi điện cho tôi báo tin là đã trúng Giải Nhất và được đăng trên Giai Phẩm Xuân của đơn vị. Rất tiếc là tình hình thời sự... lu bu của lúc ấy, nên tôi cũng không có nhận được báo do Hưng gởi tặng.....

                        Đỗ Chiêu Đức