Thơ: Phạm Văn Bình
Nhạc: Phạm Duy
Trình bày: Văn Quang
Góp Phần Dựng Tiểu Sử
NHÀ THƠ PHẠM VĂN BÌNH
(1940 – 2018)
Hoàng Đằng
Nhà thơ Phạm Văn Bình - người quê tôi – đã qua đời ngày 22/7/2018. Đông Hà – quê tôi – có nhiều người làm thơ. Mà không riêng gì quê tôi, trên cả nước Việt Nam, nơi nào cũng vậy; ViệtNam là “cường quốc thơ” mà!
Tôi không có may mắn và điều kiện đọc nhiều, nên không biết trong số người làm thơ ở quê tôi những ai có tác phẩm hay; chỉ biết anh Phạm Văn Bình từng nổi tiếng về thơ trong thập kỷ 1960 và thập kỷ 1970, đặc biệt, anh có 2 bài thơ được nhạc sĩ tài hoa Phạm Duy phổ nhạc: Đó là bài “Chuyện Tình Buồn” và “Mười Hai Tháng Anh Đi”; và có lẽ với hai bài thơ này, anh sẽ lưu danh thiên cổ.
Sau này, sự nghiệp của anh đã có tác phẩm của anh làm chứng; còn cuộc đời của anh chắc sẽ ít người biết rõ. Vì vậy, là người đồng hương với anh, tôi muốn góp phần dựng lại tiểu sử của anh qua tìm hiểu những mảnh đời, chặng đời của anh mà người Đông Hà và một số thân nhân của anh biết kẻo rồi thời gian có thể xoá mất.
* Về năm sinh của Phạm Văn Bình
Võ Văn Cẩm – bạn đồng khoá 24/SQTB Thủ Đức với Phạm Văn Bình – cho biết là năm 1942; tờ Cáo Phó khi anh mất của gia đình bên Mỹ ghi 1939; một thân nhân của anh ở Việt Nam cho biết anh tuổi Canh Thìn (1940). Tôi nghĩ năm 1942 là năm khai lại để học hành; anh học ở nhiều nơi, nhiều trường cả bậc Tiểu Học lẫn bậc Trung Học: ở Huế, ở Đông Hà, ở Đà Nẵng, ở tỉnh lỵ Quảng Trị. Còn Cáo Phó ghi năm 1939 là do cách tính; anh mất năm nay (2018), thọ 79 tuổi; theo cách tính của phương Tây, anh phải sinh năm 1939, còn theo cách tính của người Việt Nam là năm 1940. Thế nên, theo tôi, Phạm Văn Bình sinh năm 1940 – tuổi Canh Thìn.
* Về quê quán và dòng dõi,
Phạm Văn Bình sinh ra ở Đông Hà; nhưng quê gốc Bát Sơn, Lương Điền, Thừa Thiên (nay là xã Lộc Điền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên – Huế).
Vào thập kỷ 1920, thuở thanh niên, thân phụ anh, cụ Phạm Tề, ra làm công nhân xây dựng cầu Quảng Trị, kết duyên với một thôn nữ làng Như Lệ (nay là thôn Như Lệ, xã Hải Lệ, thị xã Quảng Trị). Rồi ông bà ra lập nghiệp ở thị trấn Đông Hà, mở một quán cơm ở ga Đông Hà vào lúc mà tại Đông Hà, việc giao thương Bắc - Nam, việc giao thương miền Trung Việt Nam - Lào nhộn nhịp.
Trong thập kỷ 1930, cụ Phạm Tề kết hôn thêm với bà Hoàng thị Căn (1909 – 1984), còn có tên thường gọi là Hoàng thị Cháu, một thôn nữ làng Điếu Ngao (nay là phường 2 – TP. Đông Hà). Phạm Văn Bình là con bà Hoàng thị Căn.
Phạm Văn Bình có người anh đầu cùng cha khác mẹ – con của mẹ làng Như Lệ - tên Phạm Ga hoạt động cho Việt Minh, từng giữ chức chủ tịch Uỷ Ban Hành Chánh Kháng Chiến khu vực Đông Hà, rồi Chánh Văn Phòng Uỷ Ban Hành Chánh Kháng Chiến tỉnh Quảng Trị. Khi kháng chiến chống Pháp bùng lên, Phạm Ga được điều động ra Việt Bắc và, sau đó, đã mất trên đường công tác ở tỉnh Cao Bằng. Phạm Văn Bình còn có người anh cùng mẹ cùng cha tên Phạm Vinh tập kết ra Bắc; Phạm Vinh học âm nhạc, chuyên ngành về đàn violon, trong chiến tranh, trở lại miền Nam, công tác ở đoàn Văn Công Quân Khu 5, hiện đã nghỉ hưu.
Ở chế độ miền Nam thời đó, ngoài bản thân là sĩ quan, Phạm Văn Bình còn có em trai cùng cha cùng mẹ tên Phạm Như Trị cũng là sĩ quan quân đội Cộng Hoà, nay định cư ở Mỹ theo diện HO.
Về bên ngoại – phía mẹ của Phạm Văn Bình - ở làng Điếu Ngao, các cậu các dì đều theo Việt Minh.
Dòng dõi của Phạm Văn Bình như thế đã góp phần tạo tứ thơ của anh.
* Về con đường đến với thơ của Phạm Văn Bình,
Phạm Văn Bình có năng khiếu và đam mê văn nghệ từ nhỏ. Tuy nhiên, điều đó chỉ bạn bè biết chứ “người ngoài” chưa biết.
Sau khi hoàn tất bậc Trung Học – có bằng Tú Tài II, Phạm Văn Bình về quê, dạy Việt Văn tại trường Trung Học Bán Công Đông Hà từ 1963; anh đứng trên bục giảng từ 1963 đến 1966 – năm mà anh phải rời bụi phấn để thi hành lệnh động viên của chính quyền Việt Nam Cộng Hoà. Trong thời gian dạy ở quê nhà, anh có cộng tác với Đài Truyền Thanh Quân đội ở Đông Hà và gởi thơ đăng ở báo Lập Trường.
Xin mở ngoặc để giới thiệu đôi nét về báo Lập Trường:
Phong trào Phật Giáo bùng lên chống chính quyền tổng thống Ngô Đình Diệm bị cáo buộc phân biệt đối xử tôn giáo bùng lên ở Huế từ tháng 5 năm 1963; phong trào được nhiều giới trong xã hội ủng hộ, trong đó có một số không nhỏ các giáo sư Đại Học Huế; sau khi tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ tháng 11 năm 1963, cả miền Nam lâm vào cảnh xáo trộn nhiều mặt, đặc biệt là về chính trị. Năm 1964, báo Lập Trường do một nhóm giáo sư Đại Học Huế chủ trương ra đời; ban điều hành báo gồm GS Tôn Thất Hanh, khoa trưởng Đại Học Khoa Học, làm chủ nhiệm, GS Lê Tuyên giảng dạy tại Đại Học Sư Phạm và Đại Học Văn Khoa làm chủ bút và GS Cao Huy Thuần giảng dạy ở Đại Học Luật Khoa làm thư ký toà soạn. Lập Trường là tuần báo Chính Trị - Văn Hoá – Xã Hội; báo bày tỏ thái độ chống đối chiến tranh, chống đối cách điều hành đất nước của chế độ Việt Nam Cộng Hoà, chống đối sự hiện diện của quân đội Mỹ tại miền Nam; Phạm Văn Bình gởi thơ vào và được đăng với tần suất khá dày; điều đó chứng tỏ tứ thơ của Phạm Văn Bình đã hoà nhập vào lập trường của báo; chủ bút chọn bài là GS Lê Tuyên - người có cách nhìn, cách lý giải mới các tác phẩm văn học cổ Việt Nam bằng cách đem triết học hiện sinh rọi vào. Nhờ báo Lập Trường, Phạm Văn Bình được giới thơ văn biết đến càng ngày càng nhiều. Thành thử, có thể trước đó Phạm Văn Bình đã có làm thơ, nhưng chính báo Lập Trường đã nâng cánh cho thơ của anh.
Nhờ vai trò cộng tác viên đài Truyền Thanh Quân Đội Đông Hà và tiếng tăm về thơ qua báo Lập Trường, Phạm Văn Bình thi hành lệnh động viên, thụ huấn xong ở quân trường, được bổ nhiệm làm sĩ quan tâm lý chiến của sư đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến. Khi đã làm việc ở Sài Gòn, Phạm Văn Bình có cơ hội quen biết với giới văn nghệ sĩ, thơ anh xuất hiện trên các tạp chí, được đánh giá cao, được Phạm Duy chọn phổ nhạc; nhờ thế, anh có chân trên thi đàn.
* Người phụ nữ trong bài thơ “Chuyện Tình Buồn” là ai?
Trong văn học, tác giả ký tên T.T.KH của bài thơ “Hai Sắc Hoa Ti-Gôn” nổi tiếng hơn 80 năm qua vẫn còn là nghi án – giới nghiên cứu văn học đã đoán nhiều tên, nhưng chưa chắc chắn một tên nào. Từ đó, tôi lo tương lai có người muốn biết thật sự tên người phụ nữ trong bài thơ “Chuyện Tình Buồn” sẽ gặp khó khăn, trong khi hiện giờ bà con và người thân quen quê gốc Đông Hà thì biết rõ, nhưng không ai chịu lên tiếng hoặc không có điều kiện lên tiếng. Tôi xin phép lên tiếng thay.
Không biết mối tình giữa Phạm Văn Bình và người phụ nữ này chớm nở từ lúc nào, nhưng mối tình này vỡ lỡ giữa thập kỷ 1960:
Năm năm rồi không gặp,
Từ khi em lấy chồng,
Anh dặm trường mê mải,
Đời chia hai nhánh sông …
Phạm Văn Bình “dặm trường mê mải” từ năm 1966 – năm thi hành lệnh động viên vào lính.
Nhà Phạm Văn Bình và nhà người phụ nữ cùng ở trong con hẻm đường Phan Bội Châu thị trấn Đông Hà. Người phụ nữ này có một người anh – bạn thân cùng trang lứa với Phạm Văn Bình. Qua lại giao du, thấy người phụ nữ này có nhan sắc, có học vấn (cô này không học ở Đông Hà mà học ở Trung Học Bán Công Huế), lại biết trang điểm, ăn diện bắt mắt, Phạm Văn Bình vừa ý, đem lòng yêu đương. Hai người yêu nhau; người Đông Hà thấy mối tình của họ “da diết” lắm, ngay cả Phạm Văn Bình cũng thổ lộ:
Những thư tình ngây dại,
Những vai mềm, môi ngoan,
Những hẹn hò cuống quýt …
Không ai ngờ mối tình ấy tan vỡ. Người trong cuộc bảo rằng do hai người khác biệt về tôn giáo: gia đình Phạm Văn Bình theo Phật Giáo, gia đình người phụ nữ này theo Thiên Chúa Giáo. Thôi, chúng ta cứ tin như vậy, chứ trên đời, không thiếu gì người khác tôn giáo kết hôn với nhau; về sống với nhau, hoặc vợ theo tôn giáo của chồng, hoặc chồng theo tôn giáo của vợ, hoặc, cùng lắm, mỗi người cứ giữ tôn giáo của mình.
Người phụ nữ này “sang ngang”, lấy một người chồng đồng đạo; ông chồng là sĩ quan quân y, trước đó, tốt nghiệp cán sự y tế, bị động viên vào quân đội; hai vợ chồng có 4 người con (?). Rủi! Ông chồng tử trận, Phạm Văn Bình viết trong thơ: “Anh một đời giong ruỗi; em tay bế tay bồng” là vậy.
Việc bất thành trong mối tình giữa Phạm Văn Bình và người phụ nữ này không biết do gia đình bên nào gây ra; nhưng trong thơ và trong đời thực, Phạm Văn Bình ôm nỗi đau cho riêng mình mà không một lời oán hận:
Ngày nhà em pháo nổ,
Anh cuộn mình trong chăn,
Như con sâu làm tổ
Trong trái vải cô đơn.
Ngày nhà em pháo nổ,
Tâm hồn anh nhuốm máu,
Ôi nhát chém hư vô,
Ôi nhát chém hư vô.
……………………
Năm năm rồi trở lại,
Một màu tang ngút trời,
THƯƠNG người em năm cũ,
THƯƠNG goá phụ bên song.
Và sau này, mỗi lần có dịp, Phạm Văn Bình vẫn ghé thăm gia đình người phụ nữ này. Ngay trong lễ tang Phạm Văn Bình vừa rồi, người bà con của Phạm Văn Bình cho tôi xem một bức ảnh chụp chung 3 người con của Phạm Văn Bình với một người con gái của người phụ nữ này. Tình của Phạm Văn Bình và người phụ nữ này đã vượt lên sự nhỏ nhen của hờn ghen để thăng hoa. Đẹp quá! Đúng là “đem tình cầm sắt đổi ra cầm kỳ”.
Xin tiết lộ: Người phụ nữ này có tên là Nguyễn thị Tuý sinh năm 1945, nguyên là một cư dân Đông Hà, hiện giờ còn sống và định cư bên Mỹ.
* Về tạng người và lối sống,
Phạm Văn Bình có gien văn nghệ từ gia đình; như trên đã nói Phạm Văn Bình có ông anh ruột hoạt động trong lãnh vực âm nhạc.
Phạm Văn Bình không đua đòi theo thiên hạ về bề ngoài, anh thích ca hát vui chơi, không quan tâm đến của cải vật chất. Từ khi ra trại cải tạo cho đến khi đi Mỹ theo diện HO, thời gian dài cả 10 năm, thế mà không thấy anh làm gì để mưu sinh, trong khi những người gặp hoàn cảnh như anh phải làm bất cứ gì để giúp nuôi sống gia đình: xe thồ, xe kéo, bán nước chè, làm thuê … Anh rong chơi không phải với bạn bè cùng lứa - vì không có - mà với bạn bè ít tuổi hơn anh nhiều; anh gặp họ trong các quán cà phê, trong những tiệc cưới, ca hát vui nhộn cùng họ, nhiều khi quá chén, cũng say sưa.
Nghe nói anh uống cà phê không phải trả tiền theo lần mà có bao nhiêu trong túi anh giao cho chủ quán, hàng ngày anh tới uống khi nào chủ quán tính là số tiền hết thì báo cho anh biết.
Thời gian anh chuẩn bị đi Mỹ, nhiều phụ nữ muốn đem tình và tiền ra để “quá giang”, anh từ chối, chắc anh quá ngán ngẩm rồi!
Khi qua Mỹ, với tuổi đời ngấp nghé 55, anh cũng không chạy vạy kiếm công ăn việc làm như thiên hạ, anh sống với người con trai trưởng của anh trong sự bảo bọc của cả 3 đứa con và tiền trợ cấp của chính phủ Mỹ.
Xin mở ngoặc để nói đôi điều về gia đình anh. Sau khi mối tình với Nguyễn thị Tuý không thành, anh lập gia đình với một cô học trò trẻ, đẹp của anh tại trường Trung Học Bán Công Đông Hà. Vợ chồng sinh được 3 con. Do hoàn cảnh nghiệt ngã sau năm 1975, vợ chồng cũng không sống với nhau trọn đời. Người vợ đem ba con qua Mỹ trước, anh qua sau, và được sự quan tâm chu đáo của cả ba con.
Phạm Văn Bình có lối sống và tạng người khác đời như thế, cộng thêm sống trong bầu không khí gia đình và đất nước mà thân thích kẻ Bắc người Nam, anh luôn mang tâm trạng buồn đau – buồn đau cho đất nước tang thương, cho tình người tan vỡ vì chiến tranh. Dù là một sĩ quan (cấp bậc cuối cùng đại uý) tâm lý chiến, thay vì kích động hận thù để tuyên truyền cho phe ta, chống phe địch, anh không làm thế; bằng chứng là trong bài thơ “Hành Trình Thuỷ Quân Lục Chiến” (tên khác: “Mười Hai Tháng Anh Đi”) - dài 58 câu - chỉ nói lên nỗi đau, niềm khắc khoải, tình yêu lỡ làng do chiến tranh mà người lính cảm nhận khi đi qua đất nước điêu tàn.
Sau thời gian dài khổ cực trong trại cải tạo, được trở về sống trong cộng đồng, nhà không, vợ nỏ có, anh cũng không một lời oán thán ai:
Trở về nhà cũ, nhà thay chủ.
Em đâu? – Đã bỏ chốn thiên đường.
Sang sông, em nỡ lên thuyền khác.
Thôi nhớ làm gì? “Chinh phụ ngâm” …
(Trích từ bài thơ “Đầu Xuân Khai Kiếm”)
Tóm lại, Phạm Văn Bình là nhà thơ nhân văn.
*
* *
Tôi viết bài này với ý nghĩa tích cực; tôi đã hỏi thông tin từ nhiều người: bà con của Phạm Văn Bình có, những người Đông Hà thân quen với Phạm Văn Bình có. Tôi đã đối chiếu, đánh giá thông tin từ nhiều nguồn, cố gắng để có những thông tin chân thật.
Hy vọng bài viết này sẽ làm cho Phạm Văn Bình vui nơi chín suối và góp phần hữu ích cho những ai muốn tìm hiểu về nhà thơ Phạm Văn Bình sau này.
Hoàng Đằng
30/7/2018 (18/6/Mậu Tuất)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét