Thứ Năm, 30 tháng 8, 2018

Đôi Điều Tâm Sự: Một Thời Mới Lớn - Đỗ Chiêu Đức

Đôi Điều Tâm Sự
                       Một Thời Mới Lớn
     Trước tiên, xin mời đọc bài "thơ tình tuổi học trò" mà tôi làm hồi 10 năm trước để thấm thía hơn với Đôi Điều Tâm Sự sắp kể...   

CHIẾC LÁ CUỐI CÙNG
                         Tặng 2 bạn Liêu Chương Cầu
                                         và Kha Huệ
     Image result for chiếc lá cuối cùng  

Ai đâu kéo lại được thời gian
Dõi bóng mây xa tận cuối ngàn
Góp lại muôn rừng cây lá rụng
Cho lòng ấm lại mỗi thu sang...

Còn nhớ năm xưa em mười lăm
Mỗi độ vào thu má ửng hồng
Lay láy mắt huyền xa vắng quá
Mỗi lần nhìn lá rụng bên song (1)

Lá rụng ! Cuốn vàng bay
Lá rụng ! Biết bao ngày
Tim lòng nghe rạo rực
Em hỡi, em có hay ?!

Ở một góc trường anh trộm ngắm
Tóc thề ai xõa chấm ngang vai
Amh cũng " thề " rằng, muôn kiếp nữa
Lòng nầy vẫn tạc bóng hình ai.

Rồi như "Hà Nội băm sáu phường"
Lòng anh cũng "vướng một tơ vương"
Dẵm nát lối mòn qua trước ngõ
Nhà em, "tơ" phủ kín mặt đường! (2)

Đến ngõ nhà em, vội trở về...
Trở về, lại muốn đến... làm chi?!
Mỗi lần không gặp nghe nhung nhớ
Nhung nhớ dâng trào, lại bước đi!...

Lá rụng ! Tựa tình si
Như lứa tuổi xuân thì
Lớp lớp tràn muôn nẽo
Nhuộm vàng khắp lối đi !

Tình si ấp ủ biết bao ngày
Chấp vá tim lòng gởi tới ai
Cả một trời yêu trong nét bút
Mực mồng tơi tím, nhạt, không phai!

Mấy độ thư đi tuy bặt tăm
Dường như cũng cảm "kiếp tơ tằm"
Mỗi lượt bên song nhìn lá rụng
Gợn buồn, đôi mắt dõi... xa xăm!...

Lá rụng ! Thấy lòng sao...
Lá rụng ! Nhớ hôm nào
Bên nàng tôi đếm bước
Chợt thấy lòng nao nao !

Em trộm nhìn tôi khẽ mỉm cười
Thẹn thùng cuối mặt tóc buông lơi
Cả một trời tình như choáng ngợp
Quay cuồng mặt đất... dưới chân tôi !

Từ đó, lòng tôi ngây ngất say
Lâng lâng mơ ước chuyện ngày mai
Đẹp sao lá rụng vàng muôn lối
Đường vàng ta bước đến tương lai...

Lá rụng rạt rào phủ kín sân
Ba gian nhà trống biết bao lần
Phận nghèo, đi học trông chừng nắng
Mơ ước ngày kia đậu " Cử Nhân "...(3)

Lá rụng ! Những mơ màng
Kiệu chàng son thếp đỏ
Võng nàng theo sau đó...
Xào xạc tiếng lá vàng !...

Một hôm, thấp thỏm ngang qua ngõ
Khẩn khoản mời anh ghé lại nhà
Mẹ bảo : " Em nó còn bé lắm ! 
Buông tha xin hãy dứt nhau ra ! "

Mẹ tưởng đâu anh lính " Mã tà " (4)
Bắt ai, mà bảo hãy buông tha ?!
Chẳng qua nói khéo vì chê phận
Anh nghèo, nên lắm nỗi xót xa !

Anh biết rằng em đẹp, em giàu
Yêu em, anh xá kể chi đâu
Thói tục hay " khinh bần trọng phú "
" Môn đăng hộ đối sử nhân sầu! " (5)

Lá rụng ! Gió sầu trêu
Lá rụng ! Vấn vương nhiều
Hết rồi, ba mùa lá
Lòng tôi vẫn cô liêu!...

Ba năm mơ ước được gì đâu!
Một sớm thu sang lá đổi mầu
Rộn ràng tiếng pháo vu quy tiễn
Mỗi bước em đi, một khối sầu!

Xác pháo đỏ hồng vương khắp lối
Vàng chen xác lá gợi muôn sầu
Anh biết, em anh "còn bé lắm!"
Lấy chồng kham nổi phận làm dâu?!

Lá rụng ! Gió tơi bời
Giẫy chết lá vàng rơi
Lòng anh nghe giá buốt
Mênh mông, Ôi, đơn côi !

Vườn cũ chiều hoang lá rụng rồi
Bóng trăng chênh chếch, bóng trăng côi
Người trong giấc mộng đâu còn nữa
Chợt tỉnh ra rồi, chỉ thấy tôi!

Lá rụng ! Cuốn vàng bay
Lá rụng ! Những ai hoài
Đã năm mươi mùa lá
Ai có nhớ tình ai ?!!!

Giấc mộng tàn thu đã vỡ rồi
Tơ lòng vương vấn mãi không thôi
Năm mươi năm lẻ bao thay đổi
Lã lướt trên cành, lá vẫn rơi !

Lá rụng ! ...
Lá rụng !......
Lá rụng !..........
Chiếc lá cuối cùng sắp rụng rơi !

                          Đỗ Chiêu Đức
Chú thích :
(1) Bên SONG là bên song cửa (cửa sổ)
(2) Nhại ý bài thơ "Hà Nội ba mươi sáu phố phường" của thi sĩ Nguyễn Bính:
             Hà Nội ba mươi sáu phố phường
             Lòng chàng như có một tơ vương
             Chàng qua chiều ấy, qua chiều khác
             Góp lại đường đi, vạn dặm đường!

(3) "...đi học trông chừng nắng."  Nhà nghèo không có đồng hồ, nên chỉ xem bóng nắng trước hiên nhà để đoán giờ mà đi học cho đừng bị trễ.
(4) Lính "Mã Tà" là Cảnh Sát thời Pháp thuộc, chuyên bắt người phạm pháp. Ở Mỹ hiện nay là "Phú Lít" (Police).
(5) "Khinh bần trọng phú" là khinh nhi, coi rẻ người nghèo, và ân cần, kính trọng đối với người giàu. 
(6) "Môn đăng hộ đối" là Nhà cửa ngang bằng nhau, ý chỉ xứng hợp nhau về tài sản, gia thế, chứ không kể đến tình cảm con người.
"Môn đăng hộ đối sử nhân sầu" nhái ý câu thơ cuối trong bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu "Yên ba giang thượng sử nhân sầu." Câu thơ có nghĩ
a: "Cái chuyện Môn đăng hộ đối làm cho người ta cảm thấy buồn lòng!"
          Bài thơ nầy đã được một em học sinh cũ của tôi, nhạc sĩ La Tuấn Dzũng phổ nhạc với tựa đề "Tình Đẹp Mùa Lá Rụng" do ca sĩ Khánh Duy trình bày. Xin bấm vào link dưới đây để nghe bài hát:
 
                              .........................................
                             
        Nhớ xưa, khi khoảng 14, 15 tuổi, cứ chiều chiều là tôi và ông bạn Liêu Chương Cầu (Nhân vật Nam chính trong Bài Thơ Lá Rụng), 2 đứa lại thả bộ vào trường Tân Triều Cái Răng để học chữ Nho với Lặc Bệ ( 六伯 là Bác Sáu: Người đứng tên làm Hiệu Trưởng Hành Chánh của Trường Tiểu học Tân Triều Cái Răng) và tâm sự vụn vặt với Thầy NGUYỄN KIM LƯỠNG (Thầy LƯỠNG là con trai thứ 5 của ông Hương Quản MUÔN, ở cách nhà cô QUANG  4, 5 căn gì đó!)  
        Khi đó, cả 2 đứa đều mới vừa lỏm bỏm học các câu trong MINH TÂM BỬU GIÁM như: Kiến thiện như bất cập, kiến bất thiện như thám thang. Kiến hiền tư tề yên, kiến bất hiền nhi nội tự tĩnh dã V.V. và. V.V...
           Bây giờ thì...
        Tôi giới thiệu sơ lược về ông bạn vàng nầy của tôi nhé! Cũng là một học sinh TÂN TRIỀU cũ (Tân Hưng Cái Răng sau nầy) của ta mà!
       Học trong trường tên là LIÊU KỲ 廖其, nhưng giấy Khai Sanh thì tên LIÊU CHƯƠNG CẦU 廖章求, lớn hơn tôi 5 tuổi, học thấp hơn tôi 2 lớp.  Lý do: Học tiếng Việt trước rồi mới vào học chữ Hoa sau. Người Quảng Đông, nên tôi thường gọi anh ta bằng "TÀI LŨ" (như Anh Hai trong tiếng Việt ta vậy). Nhà nghèo, Ba làm "Tổng Khậu" nấu ăn cho trại cưa của ông "Tắc Yìn", má bán bánh chuối, nên đi học phải... "trông chừng nắng" vì không có đồng hồ. 
       Lúc đó, buổi trưa, hai đứa thường chắc mót chút đỉnh tiền còm để đi uống cà phê ở quán nước Thắng Ký của ông "Síl sán Hòn", buổi chiều thì vào trường  học chữ Nho với "Lặc Bệ" và để... nhìn lên cửa sổ phía bên hông trường, trong cánh cửa sổ đó có cô bạn học gái Kha Huệ mà anh ta để ý thương thầm. 
        Bài Thơ Lá Rụng có những đoạn: Lá rụng! Lá rụng! là do Ý của anh ta đó, vì lúc đó anh ta rất mê quyển tiểu Thuyết Hồn Bướm Mơ Tiên của Khái Hưng, nên mới nhại các từ LÁ RỤNG! LÁ RỤNG! ở cuối quyển tiểu thuyết đó.
       Một điều rất đáng tự hào là anh ta và Tôi đều là học sinh chỉ tốt nghiệp Tiểu Học tiếng Hoa ở trường Tân Triều Cái Răng, rồi cùng nhau tự học, tự nghiên cứu, và cuối cùng... cùng được dạy ở các Trung Tâm ngoại ngữ của các Đại Học, cùng đi gác và chấm thi cho các Chứng Chỉ A,B,C của môn Ngoại Ngữ tiếng Hoa.  
       Hiện giờ, ông bạn của tôi vẫn còn dạy cho Trung Tâm Ngoại Ngữ của Đại Học Khoa Học Xã Hội Nhân Văn Sài Gòn, mặc dù năm nay đã 76 tuổi rồi! (vượt qúa Thất thập nhị Huyền công, 72 phép như Tề Thiên Đại Thánh, mà còn gân lắm!)  Có người vui miệng hỏi: "Tôi thấy ông học chữ Tàu có mấy năm, ít quá, mà sao đi dạy được?" thì ông bạn của tôi cười mà trả lời rằng: "Có một bửa đang đi ngoài đường, bỗng đá được một vật gì ở dưới chân, lượm lên, thì ra là sách dạy làm THẦY GIÁO DẠY TIẾNG HOA, nên về nhà coi theo đó mà đi dạy, dễ ợt!" ??!!...   
         Trở lại truyện lúc 14, 15 tuổi...
         Một hôm, Bác Sáu kể cho nghe về chuyện tình của Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài, thì anh bạn Cầu của tôi đã nổi hứng  làm một bài Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú như sau:

   梁祝姻緣                 Lương Chúc Nhân Duyên

千秋梁祝此姻緣,  Thiên thu Lương Chúc thử nhân duyên,
悲慘兩同共筆硯。   Bi thảm lưỡng đồng cộng bút nghiên.
竹綠流風分折斷,   Trúc lục lưu phong phân chiết đoạn,
梅黃借雨泣纏綿。   Mai Hùynh tá vũ khấp triền miên.
三年求學情如海,   Tam niên cầu học tình như hải,
一旦相離恨似天。   Nhất đán tương ly hận tự thiên.
欲請高天頒旨意,   Dục thỉnh cao thiên ban chỉ  Ý,
如何薄待此良緣?   Như hà bạc đãi thử lương duyên?
       廖其(章求)           Liêu Kỳ (Chương Cầu)

        Bài thơ tuy còn ngô nghê, sử dụng nhiều từ trùng lặp, nhưng ý tứ cũng liền lạc và đúng niêm luật, nên đọc lên nghe cũng rất xuôi tai. Lúc đó Tôi và anh bạn tôi đều mới bắt đầu học Hán Văn nên tôi phục anh bạn tôi quá chừng chừng, và cũng vì vậy mà cho đến ngày hôm nay tôi vẫn còn nhớ thuộc lòng bài thơ nầy. Đọc lại vẫn còn thấy hay hay, nên xin giới thiệu với các bạn đọc chơi cho vui.
     
Nghĩa Bài Thơ:
         Cho đến ngàn năm sau thì chuyện tình của Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài nầy vẫn là chuyện tình bi thảm của lứa đôi trong lúc cùng chung đèn sách bút nghiên. Như cây trúc xanh trước gió bị gãy ra làm nhiều đoạn, và như mai vàng mượn hạt mưa làm giọt lệ để khóc triền miên. Ba năm cùng học hành với nhau tình sâu như biển, trong một ngày lại phải chia tay nhau thì cái hận cũng cao ngút trời. Muốn hỏi Trời già rằng sao không ban ra cái chỉ ý tốt, mà lại đối xử tệ bạc với mối lương duyên nầy?!

         Đọc câu số 4: "Mai Huỳnh tá vũ khấp triền miên", làm ta nhớ đến một vế thơ của Thế Lữ trong bài "Giây Phút Chạnh Lòng" là:

            ....Em đứng nghiêng mình dưới gốc mai,
                Vin ngành sương đọng lệ hoa rơi.
                Cười nâng tà áo đưa lên gió,
                Em bảo: Hoa kia khóc hộ người!...

Diễn Nôm:
                  Mối Duyên Lương Chúc
            Ngàn năm Lương Chúc mối tơ duyên,
            Bi thảm làm sao nợ bút nghiên.
            Trúc gãy thôi xanh sầu gió thảm,
            Mai vàng mượn lệ khóc triền miên.
            Ba năm đèn sách tình như biển,
            Một buổi chia lìa hận tựa thiên.
            Dám hỏi cao xanh sao khắc nghiệt,
            Vì đâu bạc đãi mối lương duyên ?

 Lục bát :
            Ngàn năm Lương Chúc nhân duyên,
            Chuyện tình bi thảm bút nghiên thêm rầu.
            Gió đưa trúc gãy vì đâu,
            Mai vàng rướm lệ nghe sầu mênh mông.
            Ba năm chung học tình nồng,
            Một ngày ly biệt hận lòng vút cao.
            Ông xanh sao nở gắt gao,
            Chia lìa đôi lứa đành sao hỡi Trời!?

                              Đỗ Chiêu Đức

                    THANH MINH

        Một năm có 4 mùa, mỗi tháng có 2 tiết, Thanh Minh 清明 là tiết đầu của tháng 3, thường nằm ở cuối tháng 2 và giữa tháng 3 trở lại. Tiết Thanh Minh như ta đã biết qua Truyện Kiều:

              Thanh Minh trong tiết tháng ba,
              Lễ là Tảo Mộ, hội là Đạp Thanh.

       Thanh 清 là trong, Minh 明 là sáng. Tiết Thanh Minh 清明節 là ngày tiết trời trong sáng của cuối Xuân sau những ngày mưa xuân phơi phới làm lạnh lẽo lòng người!  Sau những ngày rét mướt của mùa đông, thì đây là dịp để ra thăm lại mồ mả ông bà, nên mới có lễ Tảo Mộ, Tảo 掃 là quét dọn, Mộ 墓 là mồ mả. Tảo Mộ 掃墓 là quét dọn lại mồ mả ông bà cho sạch sẽ khang trang, đồng thời cũng làm Lễ cúng bái như trình cho ông bà Tổ Tiên biết để cùng bắt tay vào vụ mùa sắp đến. Sẵn dịp trời quang mây tạnh, sau những ngày mưa phùn rét mướt, giờ đây thì:
                       Cỏ non xanh rợn chân trời,
                 Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

nên... nam thanh nữ tú lại có dịp du Xuân, đạp lên cỏ non mà dạo khắp núi đồi gò đống. Đạp Thanh 踏青 là đạp lên trên những cỏ non xanh biếc, "Xuân du phương thảo địa" mà...

                      Ngổn ngang gò đống kéo lên,
                  Thoi vàng hồ rắc tro tiền giấy bay!

       Nói thì nói thế, chứ thời tiết cũng còn lạnh lắm, không phải cái lạnh hiu hắt của gió Thu, cũng không phải cái lạnh buốt da của mùa Đông, mà là cái lạnh dễ chịu của mưa Xuân phơi phới. Ta hãy nghe nhà thơ ĐỖ MỤC tả cảnh Thanh Minh như sau: 

          THANH MINH                                    清明

Thanh minh thời tiết vũ phân phân      清明時節雨纷纷
Lộ thượng hành nhân dục đoạn hồn     路上行人欲断魂
Tá vấn tửu gia hà xứ hữu?                     借問酒家何處有?
Mục đồng dao chỉ Hạnh Hoa Thôn !     牧童遥指杏花村!
                   Đỗ Mục                                         杜 牧
Ghi Chú :
      1. Phân Phân: Là Liên tục không dứt, là Phơi Phới, là Phơn phớt.
      2. Dục Đoạn Hồn: là Muốn đứt cái hồn ra, là buồn thúi ruột.
      3. Tá Vấn: là Ướm hỏi, là Hỏi thăm (việc gì hoặc cái gì đó...)
      4. Mục Đồng: là những đứa bé chăn dê, chăn cừu hoặc chăn trâu...
      5. Hạnh Hoa Thôn: Có 2 nghĩa:
         * Là cái Thôn tên là Hạnh Hoa, Xóm Hạnh Hoa.
         * Là Cái xóm ở phía sau rừng hoa Hạnh.
      Như trên đã nói, Thanh Minh là dịp để quét tước lại mồ mả ông bà, là hội Đạp Thanh để nam thanh nữ tú du xuân... Nhưng, Đỗ Mục lại bảo là "dục đoạn hồn."  À , thì ra, tác giả đang xa nhà, ta hãy đọc lại cả câu xem sao...
                    Lộ thượng hành nhân dục đoạn hồn...
      Người lữ khách xa nhà đi trên đường một thân một bóng, thay vì cùng người nhà đi tảo mộ hoặc đạp thanh, nên càng cảm thấy thấm thía hơn với nỗi buồn xa xứ trong cảnh mưa phùng lất phất... cho nên mới muốn tìm ly rượu để sưởi ấm cõi lòng tha hương chiếc bóng...

Diễn nôm:
                      THANH MINH

            Thời tiết Thanh minh lất phất mưa
            Trên đường lữ khách muốn say sưa
            Rượu ngon ướm hỏi nơi đâu bán?
            Xóm Hạnh, Mục đồng chỉ trỏ thưa!

      Theo Giai Thoại Văn Chương VN của Thái Bạch thì: Các cụ ta ngày xưa muốn tỏ rõ cái tinh thần độc lập, cái đầu óc cầu tiến, không quá lệ thuộc vào cổ nhân, nên đã "chê" bài thơ Thất Ngôn Tứ Tuyệt nầy của Đỗ Mục là: Mỗi câu dư 2 chữ. Các Cụ lý luận như thế nầy: "Thời tiết vũ phân phân" thì biết là thời tiết của Thanh Minh rồi, nên không cần phãi có 2 chữ Thanh Minh nữa. "Hành nhân dục đoạn hồn" là đủ nghĩa rồi, không cần phải có 2 chữ Lộ Thượng, đi trên đường chớ không lẽ đi "dưới nước"?!  "Tửu gia hà xứ hữu?" đã là câu hỏi rồi, cần chi phải có từ "Tá Vấn"?  "Dao chỉ Hạnh Hoa Thôn" đủ nghĩa rồi, ai chỉ mà chả được, cần gì phải "Mục đồng" chỉ mới được! Như thế bài thơ Thất Ngôn trên nên viết lại thành Ngũ Ngôn cho nó gọn, như sau:

                   Thời tiết vũ phân phân
                   Hành nhân dục đoạn hồn
                   Tửu gia hà xứ hữu ?
                   Dao chỉ Hạnh Hoa thôn !

       Nói thì nói thế, chứ thơ Ngũ ngôn và Thất ngôn âm điệu và tiết tấu vẫn khác nhau xa, nhưng đây cũng là một gợi mở của Cha Ông để cho con cháu đừng quá bị lệ thuộc vào cổ nhân mà thôi! Âu cũng là một sáng kiến hay đó!...
                   ......................................................

       Học theo gương của người xưa, nhớ hồi tôi còn trẻ (khoảng 15- 16 tuổi gì đó), khi vừa đọc được bài viết trên của Thái Bạch, cũng vừa là lúc Thầy đang cho đọc bài "Phùng Nhập Kinh Sứ" của Sầm Tham như sau:

        逢入京使              PHÙNG NHẬP KINH SỨ
    故園東望路漫漫,  Cố viên đông vọng lộ man man,
    雙袖龍鐘淚不幹。  Song tụ long chung lệ bất can.  
    馬上相逢無紙筆,  Mã thượng tương phùng vô chỉ bút,
    憑君傳語報平安.    Bằng quân truyền ngữ báo bình an !
              岑参                                  Sầm Tham.
NGHĨA BÀI THƠ :
                GẶP NGƯỜI SỨ GIẢ ĐI VỀ KINH THÀNH
       Cố viên là cố hương, là quê nhà ở mãi tận phương trời Đông với đường xá xa xôi diệu dợi (lộ man man!)  Hai tay áo già nua lụm cụm (Song tụ long chung) không lau sạch hết dòng lệ nhớ quê hương không lúc nào khô cạn (lệ bất can).  Gặp nhau giữa đường trên ngựa đây, lại không có bút mực giấy viết gì cả!  Chỉ nhờ anh nhắn miệng lại dùm là: Tôi rất khỏe mạnh bình an mà thôi!

DIỄN NÔM :
                            GẶP SỨ LAI KINH
                   Vườn xưa diệu dợi mỏi mòn trông,
                   Lụm cụm khôn ngăn lệ nhỏ ròng.
                   Trên ngựa gặp nhau không giấy viết,
                   "Bình an" nhờ báo kẻo nhà mong!

        Bắt chước tiền nhân, lúc đó tôi cũng lý luận với thầy rằng: Trông ngóng về hướng Đông, vì quê nhà ở nơi đó, cho nên chỉ nói: "Đông vọng lộ man man" là đủ rồi, đâu cần phải có từ "Cố Viên"?! Già nua lụm cụm nên lau không khô dòng lệ nhớ quê hương, lau bằng gì mà chả được, đâu cần phải lau bằng 2 tay áo, nên câu 2 cũng không cần phải có từ "Song Tụ", chỉ "Long chung lệ bất can" là đủ.  Tương tự câu 3 cũng vậy, gặp nhau ở đâu cũng được, không nhất thiết là gặp nhau trên ngựa mới không có giấy bút, nên chỉ "Tương phùng vô chỉ bút" là đủ rồi! Câu chót thì lại lịch sự đến khách sáo, gặp anh, không nhờ anh thì nhờ ai đây, nên đơn giản là "Truyền ngữ báo bình an" cũng gọn gàng và lịch sự lắm rồi!  Nên, bài thơ Thất Ngôn trên sẽ trở thành bài thơ Ngũ Ngôn như sau:

                   Đông vọng lộ man man,
                   Long chung lệ bất can.
                   Tương phùng vô chỉ bút,
                   Bằng ngữ báo bình an !

       Thầy giáo lúc bấy giờ khen lấy khen để, cho là học sinh có ý kiến và suy nghĩ hay ho, không đọc thơ một cách cứng ngắt bài bản...  Thầy đâu có biết rằng, cái thằng học trò ranh mảnh nầy chỉ bắt chước và làm theo "Giai Thoại Văn Chương Việt Nam" của Thái Bạch mà thôi, chớ cũng chẳng hay ho gì hơn ai hết!

       Chuyện qua đã hơn 50 năm, bây giờ nhắc lại, lại cảm thấy bồi hồi xúc động, thời gian không chờ đợi ai cả, thoáng cái mà tuổi đã 70 rồi!  Muốn nói cho Thầy biết là mình chỉ nhại lại cái việc làm của người đi trước mà thôi, thì Thầy đã không còn nữa!... Thầy ơi!...
                                                      
*THẦY :
          Ở đây là Bác Sáu 六伯 (Lặc-Bệ , theo âm Phúc Kiến), có bằng Cao Đẳng Tiểu Học thời Pháp Thuộc, nên đứng tên làm Hiệu Trưởng về Mặt Hành Chánh cho trường Tiểu học TÂN TRIỀU Cái Răng, trước nhiệm kỳ của cô NGUYỄN KIM QUANG.  Ông là anh ruột của bà Hiệu Trưởng họ THI 施 (Bà Sứ) sau này.  Ông không trực tiếp đứng lớp, chạy loạn từ Trung Hoa đại lục sang, nhưng nói tiếng Việt rất sỏi như người bản xứ, giỏi Văn Chương Văn Học Hán Việt.  Ông ở trọ hẵn trong trường học, rất thân thiện và hòa đồng với học sinh. Chúng tôi thường đến phòng ông chơi, học thơ Đường, Tản văn, làm câu đối... và thường gọi ông là Bác Sáu (Lặc Bệ) cho thân mật, chớ không có gọi bằng Thầy, hoặc Hiệu Trưởng gì cả!

                      Đỗ Chiêu Đức






Không có nhận xét nào: