Thứ Hai, 30 tháng 11, 2020

Hành Phương Nam - Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

 

   Hành Phương Nam  

        

       Mơ gì ấp Tiết thiêu văn tự

       Giầy cỏ, gươm cùn ta đi đây


       Hai câu thơ trên tôi góp nhóp từ anh bạn không thân quen cho mấy. 

       Ừ thì hãy đảo qua anh bạn quen nhưng không thân này một chút, anh Nam Kỳ giuộc, tôi Bắc Kỳ đặc, gặp nhau ở quán cà phê, hít thuốc lá và biết anh học sư phạm ban sử địa. Một ngày sau Tết, ghé nhà anh ở đằng cuối con ngõ đường Yên Đỗ. Nhìn ra sân có dăm chậu mai vàng đang nở rộ, va vào mắt xấp giấy nằm trên bàn có hai câu thơ trên. 

       Chưa kịp hỏi, ngày 30 tháng Tư ập tới. 


       Vậy mà đã 30 năm có hơn, năm thỉnh mười thỏang, tôi đọc được những bài sử của anh trên mạng lưới. Từ đấy tôi có những khúc mắc về việc anh…“hành sử” với các sử gia miền Bắc (như Tạ Chí Đại Trường với Trần Quốc Vượng) nên muôn hỏi cho ra nhẽ. Nghe anh qua đây làm một chuyến dối già, tôi đến đón anh. Gặp lại thấy anh có khuôn mặt lất phất khó hiểu… vừa phải thế nào ấy nên tôi gọi là ông. Tôi hỏi dò mắc chứng gì ông ở lại mà không giầy cỏ, gươm cùn ta đi đây. Ông quay sang tôi và lặng lờ:

        - Tôi ở lại để làm nhân chứng cho một khúc quanh lịch sử.

        Khó hiểu thật, tôi nhủ thầm vậy. Qua khuôn mặt phẳng lặng, ông lọ mọ tiếp…

        Sông có bến đục bến trong, bên bồi bên lở. Dòng sông cứ miệt mài lở bên này bồi bên kia. Muốn đổi dòng phải đợi ba trăm năm, dòng sông Gianh vơi chiều dài của lịch sử cũng bằng những năm tháng ấy. Sông miệt mài chẩy từ thuở khai thiên lập địa đã chứng kiến, đã chuyên chở bao số phận của con người cùng đất trời.

        Vồ được sông Gianh, tôi nghĩ vụng đến chúa Hiền Vương, nhưng ấy là chuyện sau.


        "Yên ba giang thượng sử nhân sầu" xong, ông hỏi tôi còn hút thuốc không? Bèn trả lời tôi mua chiếc xe thổ tả này để… hun khói. Ông cười dín. Tan loãng theo khói thuốc nổi trôi với chiều Thứ Sáu từ sở làm về, cái đầu tôi lêu bêu đến… một cái quán nào đó?

        Trở lại chuyện ông ở lại để làm nhân chứng cho một khúc quanh lịch sử. Vì biết ông ra Bắc…“làm việc” ngòai ấy. Tôi hỏi ông các sử gia Hà Nội nghĩ gì về với các sử gia Sài Gòn. Ông cười vu vơ đó là chuyện sau. Đang lái xe, mắt tôi vẫn bạ vào ông. Khóe mắt ấy cho tôi biết môi ông còn vướng vất sau câu nói. Tôi đẩy đưa đi tìm một quán rượu hay một tiệm ăn để dễ nói chuyện. “Cơm Tây chăng”. Ông lại cười, mắt cười theo. Cung cách ấy từ ngày còn ngồi ở quán cô Hồng đườg Pasteur. Buổi tối, quán đông túi bụi. Tôi chọn bàn gần lò sưởi để đốt lò hương cũ những chuyện sử học vừa qua của ông. Ông dục dặc:

       - Chuyện của lịch sử và đất nước. Về sử học, mình phải nghiêm chỉnh hơn. Trước sau cũng phải có một…“dự kiến lịch sử”. (mảng chữ của sử gia Hà Nội Trần Quốc Vượng)

       Người ngợm tôi thủng ra về câu “vọng văn sinh nghĩa” trên, đang búi bấn… Vừa lúc người tiếp viên mắt xanh tóc vàng nghiêng chai Beaujolais để ông thẩm định. Ông nói gì đó, rồi gật đầu. Cầm ly vang lắc lắc cho nó… thở, ông thở ra, và nhấp một ngụm. Nhìn bình hoa giữa bàn mầu vàng như muốn giãy nảy lên vì hơi rượu, khói thuốc. Tôi bương bả với ông: qua đây, mỗi lần thấy hoa trên báo Tết lại nhớ cánh mai vàng ở góc sân nhà ông năm nào. 


       Ông hết nhìn tôi, nhìn hoa, khẽ đánh mắt một cái. Như miền Nam mưa đấy cũng nắng ngay đấy, ông nắng với mưa và… dự kiến thế này đây: 

       Chúa Nguyễn Phúc Nguyên có công nhất trong cuộc Nam tiến vì có “dự kiến lịch sử”. Vì để tồn tại, trước đó người Việt phải mở đường Nam tiến xuống phía nam theo bờ biển dọc theo dãy Hoành Sơn. Ấy là điều kiện sống còn của dân tộc, và đó cũng là vận mệnh lịch sử từ thế kỷ thứ X đã trải qua các triều đại Đinh, Lý, Trần, Lê.

       Người bạn sử miền Nam ngược dòng lịch sử…

       Nhà tiền Lê, dọc theo dẫy Hoành Sơn, Lê Đại Hành chiếm Quảng Bình đến Đèo Ngang, rồi rút quân về. Nhà Lý, Lý Thường Kiệt mang quân vào tới tận Quảng Trị ngừng chân ở đây. Như nhà tiền Lê, nhà Lý cũng không nghĩ đến việc mở mang bờ cõi. Sau vua Trần gã công chúa Huyền Trân cho Chế Mân để mang về sính lễ hai châu Ô, châu Rí . 

      Ông đào xới đất đai, vật lên phong thổ chí…                    

 Nhà Hồ đem quân đánh Chiêm Thành, lấy được đất Quảng Nam. Người Việt đã mở rộng lãnh thổ của mình xuống 3/5 đất đai Chiêm Thành. Chính sách di dân có quy mô của người Việt chỉ thật sự bắt đầu với họ Hồ. Hồ Hán Thương cho đào kinh dẫn thủy nhập điền ở đây, (Thuận Hóa) như thế đủ thấy về sự khai khẩn quốc thổ của nhà Hồ.

       Công cuộc Nam tiến được tiếp nối với nhà Lê tới Bình Định, người Việt chiếm được 4/5 đất đai của họ. Chiêm Thành đang ở thế yếu, chúa Nguyễn tiến quân xuống Phan Rang chiếm 1/5 lãnh thổ còn lại của họ. Thế đấy, thưa anh. 

       

       Đợi ông thông sử xong, mụ sử tôi rị mọ chuyện gì của lịch sử hãy trả lại cho lịch sử: Nhà Hồ lập dinh điền sẵn ở Thuận Hóa và Quảng Nam cho... Nguyễn Hòang. Tiếp, Mạc Thiên Tứ dâng Hà Tiên và Châu Đốc cho nhà Nguyễn, nào khác gì họ Mạc làm cỗ cho ma xơi. Theo thiển ý mụ sử tôi, Minh Mạng chỉ có công đặt tên cho Nam kỳ là... Nam kỳ lục tỉnh. Ông dùng 6 chữ cuối trong bài cổ thi 8 chữ để đặt tên cho 6 tỉnh miền Nam: Sáu chữ trong câu “Khoái mã gia biên vĩnh định an hà “ nghĩa là “phóng ngựa” vung roi giữ yên bờ cõi”. Vì vậy mới có Gia Định, Biên Hoà, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, Tiên.

 

       Nghe mụ sử tôi... diễn sử rồi nhưng làm như không xuôi rót, ông… rót ly vang làm cái ực, mắt ông vắt qua… hòn giả sơn mãi tận ở Hải Dương, đất khởi nghiệp của họ Mạc:

       Như anh biết đấy, qua giai thoại cụ An Nam lý học hữu Trình truyền giữa họ Mạc đối đầu với họ Trịnh. Mạc Mậu đến hỏi cụ ở khoảnh sân có hòn non bộ, cụ dậy: Cao Bằng tuy thiểu, khả năng sổ thế, ý là Cao Bằng tuy nhỏ nhưng dung thân được mấy đờị. 

       Cóc lại đòi đi guốc, tôi được thể rách chuyện: ít lâu sau, cụ Trạng chống gậy ngắm hòn giả sơn, nhìn đàn kiến…"leo núi" bầy kế cho Nguyễn Hoàng: Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân. Nhà Chúa xin Trịnh Kiểm vào trấn thủ Thuận Hóa. Tôi ngay đơ với ông thay vì Mạc Mậu, cụ Trạng… xúi bậy Nguyễn Hoàng ngược lên Cao Bằng thì lịch sử đã rẽ qua khúc quanh khác, ông và tôi không có đất trú chân ở miền Nam sáng nắng chiều mưa.

       Làm như không nghe mụ sử tôi đang theo bước chân phù lãng nhân trong cõi ngu lạc trường. Rút điếu Craven “A” mang từ bên nhà qua để đó, mắt ông vắt ngang cái đàn dương cầm, một nhạc công ngồi đấy đang chơi nhạc. Ông nói nhạc Jazz của người da đen nghe ai oán Nam ai, Nam bình như dân Chàm mất nước, nào khác gì vọng cổ với Dạ cổ hoài lang. Ấy vậy mà họ (Tố Hữu) xuống câu sề “tắt đèn” cải lương và hát bội của người miền Nam. 

       

       Tôi ngẫm nguội há lại có cái lý ấy sao? Nay thêm các sử gia miền Bắc bênh vực cho nhà Hồ, nhà Mạc (hay chính họ) để mất đất cho Tàu. Vì theo họ việc Hồ Quý Ly soán ngôi nhà Trần, Mạc Đăng Dung tiếm ngôi nhà Lê, việc giành lấy ngôi vua (ông Hồ và Bảo Đại) một triều đại phong kiến đã suy tàn là hợp quy luật, là lẽ tất yếu của lịch sử. 

       Làm như có thần giao cách cảm nên hay biết những gì mụ sử tôi đang bối rối như sư đẻ, ông nhìn ra ngoài cửa sổ và lặng lờ qua khói thuốc...

       Thì như anh đã hỏi các sử gia Hà Nội nói gì về với các sử gia Sài Gòn. Chuyện là từ cụ Hàn lâm viện biên tu Phan Thanh Giản mà sử gia miền Nam bị vạ lây. Bộ trưởng bộ Tuyên truyền Trần Huy Liệu đã bôi nhọ trí thức và sử gia miền Nam: Tất nhiên khi chép sử kiện Phan Thanh Giản cắt đất dâng cho xâm lược Pháp, trí thức và sử gia miền Nam đã vô liêm sỉ coi đó không phải là chuyện phản quốc

       

       Đang ngẫm ngợi ắt “biên tu“ là thuật ngữ sử học chỉ việc sọan sử. Ông hẻo mọn tiếp…

        Để xây dựng chế độ họ ’’bài bản’’ theo triều đại phong kiến nhà Nguyễn cũng đốt sách miền Nam. Nào có khác gì nguyên mẫu của Gia Long, Minh Mạng đốt sách nhà Tây Sơn. Ngoài ra theo Đại Nam chính biên liệt truyện, chúa Nguyễn Phúc Khoát dành vùng Thủy Xá và Hỏa Xá để ‘’cải cách’’ và ‘’tạo dựng’’, để tập trung người Chàm mất đất. Hai chữ... ‘’cải tạo’’ hay ‘’ngụy’’ (từ Nguỵ Tây chỉ nhà Tây Sơn) họ vay mựợn từ nhà Nguyễn. Lịch sử là cuộc tái diễn không ngừng với sử kiện Minh Mạng sai Trương Minh Giảng đánh Cao Miên. Bắt nữ vương Ang Mey và bầu đoàn thê tử cận thần quan lại đưa ra Bắc cải tạo cho tuyệt hậu hoạn. Nay ở Hồ Tây, làng Thụy Chương có  viện Châu Lâm được dùng làm chỗ ở cho những người Chiêm Thành. Chùa Phúc Lâm là nơi họ cúng lễ (hay chùa Bà Banh do tù binh Chàm dựng lên thờ nữ thần Chàm, theo Tạ Chí Đại Trường). Đồng thời chùa Láng có ba mái cong lên, theo cấu trúc Maya của nghệ thuật ChiêmThành.                                                                                                                                                                                                               Được thể, tôi ăn như cũ ngủ như xưa…

       Lịch sử là cuộc tái diễn không ngừng với 210 năm sau (tính từ thời Nguyễn Phúc Khóat), đoàn người thất trận từ phương Nam bị đưa ngược về phương Bắc, nơi sơn lam chướng khí bên dẫy núi Hoàng Liên Sơn để cải tạo. Ở đây, sau năm 1975 tù binh Ngụy quân, Ngụy quyền bỏ xác lại không phải là ít bên sườn núi đìu hiu hút gió. 

        Đợi tôi ngập ngụa trong cõi mụ mị rồi, thêm một lần ông ngược dòng lịch sử…

       Chúa Nguyễn Phúc Nguyên gả công nữ Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp Chey Chettha II, mối duyên này giúp cho dân làm ăn được dễ dàng ở Thủy Chân Lạp (tức miền Nam). Tuy trên danh nghĩa là đất Chân Lạp, (Phù Nam cũ) nhưng thực sự là đất vô chủ bởi lẽ từ nhiều thế kỷ, vì sự suy yếu chiến tranh liên tiếp với Xiêm, vùng đất đây hoàn toàn hoang vu. 

       Trấn Gia Định xưa có nhiều ao đầm, rừng rú, trước khi người Việt đến, vùng đất này chỉ có vài mươi nóc nhà người Miên-Môn. Buổi đầu thời chúa Nguyễn Phúc Tần, (xem tr 4) sai quan Thống suất vào mở mang bờ cõi, chọn nơi đất bằng rộng rãi đóng quân. Ngoài ra thì cho lưu dân trưng chiếm, lập ra làng xóm, chợ phố. Nơi đây nhà ở hỗn tạp, đường sá chỗ cong chỗ thẳng, tạm tùy tiện cho dân mà chưa kịp phân chia sửa sang cho ngăn nắp. Nhưng chính mảnh đất ao đầm, rừng rú hoang vu ấy đã khởi đầu hình thành một Sài Gòn cho mai hậu. (xem cuối tr 4)

       Khi không ông cổ lỗ rị mọ:

       - Bây giờ tên Sài Gòn đã đi vào… cổ sử rồi, cũng… lịch sử lắm chứ nhỉ, thưa anh.

       Người bạn sử miền Nam vừa nói, ánh mắt vừa như cắt ngang những đường phố Sài Gòn, có những con đường mang tên vua chúa nhà Nguyễn đã khuất vắng. Vì bây giờ tên Sài Gòn đã đi vào cổ sử, mụ chữ tôi hoang tưởng ngồi lúi húi như cóc nhảy ở quán cóc bên đường… ngước nhìn lên tên đường không còn nữa ta thấy tên ta những bảng đường, đời ta sử chép cả ngàn chương… (Mai Thảo). 


       Ngồi như con gọng vó đã lâu, tôi mới đơm chuyện…       

       Tôi ăn măng nói mọc, ăn cò nói bay về đoàn tuỳ tùng hơn 1000 người cùng Nguyễn Hoàng khai sơn phá thạch cả chục ngàn dặm đường. Qua bao chông gai lội sông vượt suối qua mấy chục cái cầu, và 5 cái đèo. Qua đèo Ngang tới Quảng Trị, trên con lộ sinh tử cả mấy trăm năm trước còn âm vọng đâu đây những ám ảnh chông gai, ngại ngùng ở Hồ Xá nhớ em anh cũng muốn vô, sợ Truông Nhà Hồ, ngại phá Tam Giang. Từ dẫy Trường Sơn tới biển Đông chỉ đo được 40 cây số, nhìn bản đồ như cái cổ họng thắt lại đến nghẹt thở giữa hai miền Nam Bắc. Nghẹt thở hơn nữa là Mùa hè đỏ lửa 1972, chính nơi chốn đây là chiến địa giữa Bắc quân và Nam quân để cổ lai chinh chiến khứ nhân hồi...

       

       Qua đèo Hải Vân đến Quảng Nam, đất khởi nghiệp của chúa Nguyễn Phúc Nguyên với lớp di dân tiên khởi từ Huế, có 4 hạng khác nhau: Đầu tiên là những lính thú đi mở nước về phương Nam. Hạng di dân thứ hai bị lưu đày tới Quảng Nam là tội đồ. Hạng di dân thứ ba vì sợ trả thù của triều đại trước, họ phải đổi họ và chạy trốn vào đây. Hạng thư tư di dân vì nghèo khổ. (thời nhà Hồ, di dân phải thích vào cánh tay tên hai nơi hoang địa sắp đến là Chiêm Động, Cổ Lũy tức Quảng Nam).

       Tôi lấy ngắn nuôi dài với lớp di dân vào Quảng Nam để có giọng Quảng Nam, theo cuốn Có 500 năm như thế: “Nhiều người không hiểu giọng nói của người Quảng Nam xuất phát từ đâu trong khi tất cả các gia phả của các dòng họ đều ghi rõ rằng thủy tổ của họ là người Nghệ An, Thanh Hóa, Hải Dương... vào đây.”  Tôi bám như cua cắp theo sử gia Trần Quốc Vượng: “Thì các cụ vào đây đâu có đem vợ con đi được nên lấy vợ Chàm rồi sinh con đẻ cái là chuyện hết sức bình thường. Vấn đề là các bà mẹ Chàm nói tiếng Việt ấy đã truyền lại cho con cái mình cái giọng của người Chàm nói tiếng Việt.


       Thời chúa Nguyễn Phúc Tần, tội đồ bị thích dấu ở trán vì mang án lưu viễn châu (châu xa) nên bị đưa tới là Mỏ Xòai. Nhà chúa khuyến khích dân Thuận Quảng và đưa tù binh bắt được trong cuộc chiến với chúa Trịnh vào khẩn hoang lập ấp ở vùng đất mới. Sử cũ ghi năm 1665 có độ 1000 người vào lập nghiệp (xem khúc duới).  

       Khởi đầu chúa Nguyễn Phúc Tần đưa dân vào Quảng Ngãi, đất này được gọi là “Ngũ Quảng Lưu Dân”. Họ mở đất lập làng xã vì ngỡ sẽ an cư lạc nghiệp, sau lại khăn gói gió đưa vào Nam. Con đường cái quan hình thành từ Quảng Trị tới Cà Mau. Càng xuống phía Nam, đất đai rộng, thời tiết dễ chịu, con người càng thoáng rộng hơn. Theo cuộc di dân với ngôn ngữ, có câu: “Giọng Thanh Hoá là giọng miền Bắc… phải đi. Giọng Bình Thuận là giọng miền Nam… sắp sửa”. Con đường cái quan không thênh thang cho các quan vi hành, mà là con đường mòn, di dân phải phạt cỏ chặt cây để khai quang lối đi. Họ leo núi xiên rừng, trèo đèo lội suối, vì suơng lam chướng khí, một số người đã bỏ xác lại bên đường.


       Tôi khoe mẽ với ông tôi có công... “khai phá, khẩn hoang” ra tiệm ăn được… hút thuốc lá này. Như chuyện di dân khai phá Bà Rịa Sài Gòn dưới đây…

       Theo tôi, người có công trong cuộc Nam tiến không phải chúa Nguyễn Phúc Nguyên (đời chúa thứ 2) như người bạn sử miền Nam đã...’’dự kiến lịch sử’’. Mà theo thiển ý mụ sử tôi là chúa Nguyễn Phúc Tần, (đời chúa thứ 4). Sau 12 năm hai bên Đèo Ngang không ngớt chiến trận, nhà chúa xin ngưng chiến lấy sông Gianh làm giới tuyến với Đàng Ngòai để quay về phương Nam. Sau khi đưa dân vào Quảng Ngãi, lại tiếp tục cho di dân vào Mỏ Xòai (Bà Rịa, tên Miên là Ba Rey). Cớ sự gì địa danh, địa đầu là Bà Rịa, tôi bám như cua cắp theo sử cũ: Năm 1679, hai tướng nhà Minh đem 3000 quân xin tị nạn. Chúa Hiền cho họ vào Thủy Chân Lạp. Sau đó phó tướng của Dương Ngạn Định làm lọan, đánh Chân Lạp, vì vậy Chân Lạp ly khai với nhà chúa. Chúa Nguyễn tiến đánh Nam Vang, giết phó tướng của lọan quân và bắt vua Chân Lạp đem về an trí. Lúc ấy Nặc Ông Nộn đang cai quản vùng Mỏ Xòai được chúa Nguyễn đưa về Chân Lạp làm vua. Tiếp đến vì tranh giành ngôi vua, nhóm mất ngôi chạy sang nương nhờ chúa Nguyễn. Chúa Hiền đem 3000 quân đển Mỏ Xòai bắt được Nặc Ông Chân đưa về an trí ở Quảng Bình. Chúa Nguyễn đòi hỏi vua Chân Lạp để đem 1000 đân Việt đến Mỏ Xòai (Bà Rịa) để khai khẩn đất hoang cùng với 1000 quân nhà chúa để lại. Từ Bà Rịa mới có Sài Gòn, tôi đàm hoa lạc khứ với ông nhờ vậy tôi mới có chỗ ngồi ở... tiệm phở gà trên đường Hiền Vương.

 

       Ăn ngay nói thật, tôi ba điều bốn chuyện với ông trước 1975, tôi ăn phở gà ở đường Hiền Vương. Gần xịt cà phê Pasteur mà ông và tôi thường ngồi đồng ở đấy. Ấy thế mà ngày ấy tôi không hay... Hiền Vương là ai. Mà chỉ biết... chúa Nguyễn Phúc Tần. Đến tao đọan này, mụ chữ tôi lạc hoa lưu thủy về mảnh đất mới của những người trăm năm cũ với bất đăng cao sơn, bất lâm thâm cốc, bất tri địa chi hậu...

       Nếu lấy mốc thời gian từ chúa Nguyễn Hoàng đến chúa Nguyễn Phúc Khoát với 8 đời chúa, sau 146 năm, đất nước được mở rộng từ Quảng Trị đến Cà Mau. Theo văn học sử , nếu lấy 25 năm là một thế hệ, đã có 7 thế hệ di dân hòa nhập với người Miên, người Tàu. Sự cộng cư giữa lưu dân Việt từ Đàng Ngoài với người Tàu, người Miên đã tạo thành một thứ ngôn ngữ pha trộn. Biết bao địa danh miền Nam nói trại từ tiếng Miên như Bãi Xàu, Chắc Cà Đao. Danh từ tiếng Việt và Miên ghép lại như: cầu Mây Tức giữa Vĩnh Long và Trà Vinh (Mây: tiếng Việt, Tức: tiếng Miên là nước). Hay Việt Miên Tàu: Sáng say, chiều xỉn, tối xà quần. Hoặc: Nóp, bao cà ròn (tiếng Miên), xá, gật, hủ tiếu, mì, tiệm, xào (tiếng Tàu). Thêm người Mạ, người Stiêng (tài liệu Pháp: cuối thế kỷ 19, người Mạ, người Stiêng sống ở thung lũng Donai gần Biên Hoà) để có giọng nói đặc thù người Sài Gòn.   

                                                                  

       Dậu đổ bìm leo, mụ chữ tôi dón chuyện: Bởi phong thổ chí khác nhau, trong khi người Bắc Kỳ tôi sống co cụm thì người Nam Kỳ sống phóng túng, dám ăn dám xài, ăn uống xả láng. Hết tiền mai… tính. Bắc kỳ tôi... tính tới tính lui lối sống này có thể bắt nguồn từ thuở vi dầu cầu ván đóng đinh, cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi, tới khi có được ruộng đồng chó chạy đổ mồ hôi hột là…“phẻ” rồi. Thế nên ngồi ở quán nhậu họ rất… bốc: thà một phút huy hòang rồi chợt tắt, còn hơn là le lói suốt trăm năm.      

       Thêm nữa đặc thù của người miền Nam mang khí khái 108 anh hùng Lương Sơn Bạc trong Thủy Hử nên rất ngang tàng, khí phách. Có thể vì từ xa xưa là những người giang bạt kỳ hồ nên họ có phong cách giang hồ hảo hán. Với phong thái trung dũng khí tiết, trọng nghĩa khinh tài, trọng nhân nghĩa, kẻ bất nhân bất nghĩa khó dung thân ở vùng đất này: Với người miền Nam thì: “tiền tài như phấn thổ, nhân nghĩa tợ thiên kim”.


       Nho táo xong, bởi gia dĩ uống rượu mẻ bát thiên hạ, tôi ngầy ngà nữa...

       Vào miền Nam lạ nước lạ cái, lưu dân tứ phương tám hướng là những người xa lạ không quen biết, họ trở thành... “bà con một xứ”. Từ bà con... tứ xứ, biểu hiện... “tứ hải giai huynh đệ” là thích… nhậu. Bởi thế sau những ngày cầy sâu cuốc bẫm, chặt cây đốn gỗ trên rừng, chài cá trên sông, họ cần có bầu bạn để buồn vui với bà con bởi mang cái tâm thái vui cũng… nhậu, buồn cũng… nhậu. Vì vậy họ có thể nhậu ở ven rừng, bờ ruộng... không say không về. Hoặc giả ở bến sông thì… nhậu tới bến.

       Do đó, Bắc kỳ tôi không ngạc nhiên khi mới gặp nhau, dù chưa quen biết nhau, dân miền Nam đều cơm nước trà rượu như đã là bà con ruột thịt.

       Ví dầu cầu ván đóng đinh
      Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi
      Khó đi mượn chén ăn cơm
      Mượn ly uống rượu mượn đờn kéo chơi


       Mượn bát cơm, quả trứng, tôi lộng ngôn hí địa về... cúng kiếng.

       Là lưu dân bỏ lại mồ mả tổ tiên ở Đàng Ngòai, mang cái tâm trạng cố hương nan khứ hậu nan quy. Vì vậy vào đến miền Nam, với phép vua thua lệ làng, họ không theo chiếu chỉ của vua nhà Nguyễn quy định thờ tổ tiên: Vua thờ lục tổ, các quan đại phu thờ tam tổ, thứ dân chỉ được thờ nhất tổ (thờ ông nội). Họ thờ thêm tổ tiên của họ ở Đàng Ngòai tức “cửu huyền thất tổ”. Cửu huyền là chín thế hệ: cao, tằng, tổ, cha, mình, con, cháu chắt, chít. Thất tổ là bảy đời: cao, tằng, tổ, cao cao, tằng tằng, tổ tổ và cao tổ .


       Vừa đốt lò hương cũ xong, vừa lúc ông đội cái mũ “phớt” (feutre) lên đầu. 

       Qua biệt hữu thiên địa phi nhân gian tạm hiểu là ta có một cõi riêng không người, vì làm như ông đang sửa soạn cho một chuyến đi xa. Khi không tôi có linh cảm người bạn sử miền Nam muốn về với cửu huyền thất tổ của ông ở Đàng Ngòai. Tôi đóan chừng ông sẽ ngừng chân ở Quảng Trị của… thuở trời đất nổi cơn gió bụi. Tôi mường tượng ánh mắt ông vắt ngang dòng sông Bến Hải đang lặng lờ với nước chảy đôi dòng, sau 30 năm, nước vẫn tiếp tục trôi đi ở giữa dòng có một giải phân cách tự trăm năm. Trong một khỏanh khắc khác, mắt ông vắt qua một khỏang không gian, thời gian nào đó mà ông đã từng hoài bão của người miền Nam bị mất đất mơ gì ấp Tiết thiêu văn tự, giầy cỏ, gươm cùn ta đi đây


       ***

       Thời gian vỗ cánh như quạ bay, ngày tôi đặt bút xuống với những dòng chữ này đây, người bạn sử không còn nữa! Ngẫm nguội bỗng không ông và tôi như người Chàm mất đất. Vì vậy trong tâm thái bất tri hà xứ thị hương nhân, tôi bước theo những vết chim di của người bạn sử miền Nam qua bài văn sử Hành phương nam này. 

       Sau 1975, trong tâm thái mỗi năm hoa đào nở lại nhớ cánh mai vàng, người viết bài văn sử lễnh đễnh ngược về năm 1954, là Bắc Kỳ đặc, trộm nghĩ nếu không có chúa Nguyễn xuôi Nam, thì chẳng có thẻo đất nào để người viết có chỗ làm nơi chốn dung thân.


                                          Thạch trúc thảo lư

                                          Giáp Ngọ 2014

                   Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

         (sửa chữa 2017, 2020)


Nguồn: 

Tường Vũ Anh Thy, Viên Linh, Phan Khoang, Tô Hoài, Phạm Trung Tùng

Trần Nhuận Minh, Hồng Trung, Lâm Văn Bé, Nguyễn Thị Hậu, Trần Khánh

Thái Văn Kiểm, Nguyễn Đức Hiệp, Trần Gia Phụng