VIỆN
ĐẠI HỌC HUẾ, THÁCH ĐỐ VÀ ĐÁP ỨNG TRONG ĐỐI
KHÁNG VĂN HÓA VỚI CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN BẮC VIỆT (1957-1975)
Nguyễn Đức Cung
Một sử gia nổi tiếng
người Anh, Arnold J. Toynbee trong bộ sử The
Study of History gồm 12 pho xuất bản ở Luân-đôn và Nữu-ước từ năm 1934 đến
1961 và đã được D.C. Somervell tóm lược dưới nhan đề History, an essay of interpretation, đã đưa ra nhận định rằng : “Sự phát triển hay suy đồi của các nền văn
minh bị chi phối bởi một định luật, định luật challenge và response, tức là sự đáp ứng trước những thách đố do môi trường thiên nhiên hay xã hội
đưa đến. Có tiến bộ là nhờ ở một sự thách đố gây nên một đáp ứng thành công; sự
đáp ứng này lại tạo nên một thách đố mới mà cần phải tìm một đáp ứng thỏa đáng
khác…” (Nguyễn Thế Anh, Nhập môn phương
pháp sử học, Sài Gòn 1974, trang 18).
Dưới
con mắt của các nhà nghiên cứu sử học, lịch sử của các nền văn minh qua các đợt
thăng trầm hay sự xuất hiện rồi biến mất của các nền văn hóa của nhân loại đều
phụ thuộc vào những khả năng thách đố và đáp ứng được viện dẫn qua nhận định nói
trên quả thật đã trở nên một quy luật không thể không lưu ý xuyên suốt quá trình
lịch sử của con người.
Xét
trong phạm vi nước ta, sự ra đời của Viện Đại Học Huế ngày 01 tháng 3 năm 1957,
dưới sắc lệnh mang số 45/GD của Tổng Thống Ngô Đình Diệm của Việt Nam Cộng Hòa
có thể được nhìn như là một đáp ứng chính
trị mang tính nhân văn trước một thách đố nặng tính chất chuyên chế của một nhà
nước có tên Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của Hồ Chí Minh bên kia vĩ tuyến 17 với
chế độ chuyên chính vô sản thể hiện qua sự đàn áp tiêu diệt các tổ chức chính
trị và tôn giáo từ cách mạng mùa thu1945, cuộc chiến tranh giữa Việt Minh với
Pháp, các đợt cải cách ruộng đất và sự đàn áp nhóm Nhân Văn – Giai Phẩm v.v… nhất
là cuộc nổi dậy của nhân dân huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An) đòi tự do đi Nam (1956).
Sự xuất hiện của Viện Đại Học Huế tại Huế có ý nghĩa của một cuộc chạy đua về
phương diện văn hóa giữa hai miền nam bắc trong một cuộc đối kháng văn hóa không
tuyên chiến. Viện Đại Học Huế trong tinh
thần tự trị đại học đã có những đóng góp tích cực và cụ thể trong việc xây dựng
một nền văn hóa mang tính nhân bản, dân tộc và khai phóng theo đúng chính sách đã
được Tổng Thống Ngô Đình Diệm nêu ra. Ngoài ra chính tinh thần tự trị đại học còn
là yếu tố giúp cho Viện Đại Học Huế dưới thời LM Cao Văn Luận làm Viện Trưởng có
những đáp ứng thích đáng trước những thách thức của thời cuộc.
Để
chứng tỏ Miền Nam đáng sống hơn Miền Bắc nên đã có rất nhiều người dân thường bỏ
Miền Bắc, liều chết bơi qua sông Bến Hải tìm về vùng đất hứa, trong đó có nhà tỉ
phú Hoa Kỳ gốc Việt là ông Trần Đình Trường (1932-2012) quê ở Kỳ Anh, Hà Tĩnh đã
vào Nam năm1957.
Và
để nắm được tinh thần đối kháng của Viện Đại Học Huế với nền văn hóa vô sản Miền
Bắc giai đoạn 1957-1963, người ta phải theo dõi một số tư tưởng và việc làm của
hai nhân vật, một của Tổng Thống Ngô Đình Diệm (1901-1963), người đã khai sinh
và từng bước nuôi dưỡng để Viện Đại Học Huế đạt nhiều bước trưởng thành và phát
triển tột bực, và một của linh mục Cao Văn Luận (1908-1986), người đã tận hiến
cả một đời cho nền giáo dục Việt Nam cụ thể là qua việc điều hành Viện Đại Học
Huế từ giai đoạn sơ sinh đến trưởng thành.
1.- Lược qua một số tư tưởng nền tảng đối
với công cuộc xây dựng văn hóa giáo dục của TT Ngô Đình Diệm.
Trong bài Dụ ngày
23-10-1896 của vua Thành Thái liên hệ đến việc thành lập Trường Quốc Học, có đoạn
viết: “Vả lại phát triển giáo dục là phương
tiện duy nhất để mở mang trí thức, để đào tạo đầy đủ tài năng hầu giải quyết những
vấn đề chánh sự và hành chánh và đều hòa giáo dục đúng phương pháp lại là phương
tiện đề khai thông dân trí, đào tạo nhân tài…”(Nguyên Hương Nguyễn Cúc, Trường
Quốc Học - Khải Định, Tiếng Sông Hương, Dallas, 1996, trang 26). Qua đoạn văn
trích dẫn này, ta thấy nhận thức rõ về sức mạnh của giáo dục và chắc chắn ảnh
hưởng của cụ Ngô Đình Khả lúc bấy giờ là Phụ Đạo Đại Thần của vua Thành Thái phải
phần nào được cụ thể hóa trong đó, sẽ được tiếp nối bởi tư tưởng của TT Ngô Đình
Diệm sau này.
Trong
cuốn sách có tên “Dòng họ Ngô Đình, Ước mơ
chưa đạt”, tác giả Nguyễn Văn Minh đã viết về quan điểm giáo dục của cụ Ngô
Đình Khả như sau: “ Với Việt Nam, nơi tư
tưởng Âu Tây mới du nhập và đang có lợi thế phát triển, cần phải có một đường lối
tạo được sự kết hợp hài hòa giữa luồng tư tưởng tiến bộ này với tư tưởng cổ đại
Á đông. Có như thế mới bảo tồn được những tinh túy của nền văn hóa dân tộc đã từ
lâu đời xây dựng trên nền tảng tư tưởng Á Đông. Qua ý niệm nầy, cụ chủ trương cần
phải có một hệ thống giáo dục được giảng dạy kết hợp cả hai nền văn hóa Đông và
Tây.” (Nguyễn Văn Minh, Dòng họ Ngô Đình,
Ước mơ chưa đạt, Hùng Nguyên xuất bản, tái bản lần nhất, tháng 11-2003,
trang 11).
Ở
trong gia đình,“Cụ áp dụng một đường lối
giáo dục con cái rất đặc biệt. Ngay từ khi còn tại chức, trong cuộc sống hàng
ngày, cụ không chỉ nghiêm khắc với các con mà chủ yếu là nghiêm khắc với chính
mình, nêu gương một nếp sống cần kiệm, liêm khiết, trung nghĩa. Cụ bắt các con
sống đúng theo khuôn mẫu ấy, nhằm hun đúc, xây đắp cho họ một lý tưởng sống vững
chắc trên nền tảng một Đức Tin tôn giáo bất biến và một tinh thần nho học Khổng
Mạnh thâm sâu.” (Nguyễn Văn Minh, Sách đã dẫn, trang 18).
Trong
một bài nghiên cứu về tư tưởng của cụ Phan Bội Châu, khi nêu lên một số đặc điểm
của cụ, Doãn Chính và Cao Xuân Long đã viết: “Đặc điểm thứ hai, chính là sự kết hợp tinh hoa văn hóa phương Đông
và phương Tây trên cơ sở truyền thống văn hóa Việt Nam trong tư tưởng của Phan
Bội Châu về giáo dục… Phan Bội Châu trên cơ sở phân tích những ưu khuyết điểm của
“luân lý mỗi phương”, để từ đó ông phát huy những ưu điểm và hạn chế những nhược
điểm, nhằm hoàn thiện hơn tư tưởng của mình. Như trong nội dung giáo dục, ông
cho rằng cần tiếp thu, thậm chí là phải mời các thầy ở các nước có nền khoa học
tiên tiến như Nhật Bản, Trung Quốc, châu Âu… đến để dạy cho nhân dân những tri
thức mới. Nhưng chúng ta cũng có thể thấy rằng sự kết hợp tư tưởng phương Đông,
phương Tây trong tư tưởng giáo dục của Phan Bội Châu vẫn trên cơ sở của tư tưởng
giáo dục Nho giáo.” (Tạp chí Khoa Học Xã Hội số 04 (128) – 2009).
Trong
bài có tên “Góp phần tìm hiểu tư tưởng của
Phan Bội Châu” đăng trong Tạp chí Khoa Học Xã Hội số 3 (175) – 2013, Cao Xuân
Long và Lại Văn Nam cho rằng giáo dục không chỉ có tác dụng đối với từng người
mà nó còn có ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề giải phóng dân tộc và sự phát triển bền
vững của mỗi quốc gia, dân tộc rồi dẫn chứng Phan Bội Châu: “Ông viết: Có chú trọng giáo dục thì mới bỏ được việc riêng tư mà theo
công lợi; mới làm cho nước giàu mạnh
tiến tới.” (Phan Bội Châu, 1990, tập 2, tr. 263).
Đối
chiếu quan điểm của cụ Ngô Đình Khả với tư tưởng của cụ Phan Bội Châu về giáo dục
chúng ta thấy cả hai có điểm hội tụ với nhau trong vấn đề kết hợp tinh hoa của Đông
và Tây và cả hai đều là những người có ảnh hưởng trên đường lối tư tưởng của Tổng
Thống Ngô Đình Diệm. Khi Phan Bội Châu bị người Pháp an trí ở Bến Ngự (Huế) năm
1925 thì Ngô Đình Khả đã mất trước đó hai năm (1923). Dĩ nhiên hai cụ không có điều
kiện gặp nhau để trao đổi quan điểm nhưng ít nhất cả hai là những người có cơ hội
ra bên ngoài nên kinh nghiệm và những điều mắt thấy tai nghe đã cho hai cụ có
những quan điểm tương đồng, nhất là trong vấn đề giáo dục và đào tạo nhân tài.
Về những sự tương đồng này, Edward Miller có viết : “Giống như nhiều nhà lãnh đạo chính trị người Việt Nam cùng thế hệ với mình,
ông Khả tin rằng chỉ có thể giành được nền độc lập từ tay người Pháp sau khi có
những chuyển biến toàn diện trong nền chính trị, xã hội và văn hóa Việt Nam. Sự
quan tâm đến giáo dục của ông đã thể hiện niềm tin này, và những chỉ trích của ông
đối với nền văn hóa chính trị đương đại của Việt Nam cũng vậy. Trong vấn đề này,
quan điểm của ông Khả là đồng nhất với quan điểm của một số nhân vật chống thực
dân hàng đầu thời đó.”(Edward
Miller, Sách đã dẫn, trang 35).
Từ
năm 1933, nghĩa là sau khi từ chức Thượng Thư Bộ Lại, cụ Diệm kết giao với cụ
Phan Bội Châu và tỏ ra rất tán đồng các quan điểm của cụ Phan về Nho giáo. Về điểm
này, Edward Miller viết: “Diệm hoàn toàn
tán thành quan điểm của Phan Bội Châu về Nho giáo như một dạng triết lý xã hội
linh hoạt, có thể áp dụng vào các vấn đề đương đại của Việt Nam. Sau năm 1954,
người ta sẽ nhận thấy sự rập khuôn theo quan điểm của Phan Bội Châu trong quan điểm
về chế độ dân chủ và các nỗ lực của Diệm nhằm đưa ngôn ngữ và những khái niệm
Nho giáo vào các chương trình xây dựng quốc gia của mình.” Một trong những
chương trình xây dựng đó chính là Viện Đại Học Huế. Tuy nhiên, ngoài hai cụ Ngô Đình Khả và Phan Bội Châu ra, hỏi có
ai còn có chút tư tưởng ảnh hưởng trong quan điểm giáo dục của TT Ngô Đình Diệm
nữa hay chăng ? Dĩ nhiên là có.
Đọc
cuốn Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm & Mặt
Trận Giải Phóng của Hồ Sĩ Khuê (người có thời gian làm việc với cụ Ngô Đình
Diệm giai đoạn 1947-48) ta thấy viết: “Ngoại
trưởng Hoa Kỳ, tướng Marshall, mới tung chương trình viện trợ để giúp các nước Âu
châu phục hồi kinh tế (thàng 6-1947). Cùng lúc, danh từ Tiers-Monde do Alfred
Sauvy người Pháp tung ra, được Tibor Mende, chuyên viết về các nước chậm tiến,
nêu lên, đặt trách nhiệm các nước kỹ nghệ giàu mạnh: Kinh tế thế giới chỉ có thể
hưng vượng nếu các nước giàu mạnh giúp vào
việc mở mang các nước trong Thế giới Thứ
ba… Tôi đọc kỹ Tibor Mende, và dựa vào các chủ trương của ông, lúc bấy giờ còn
rất mới lạ, mà trình bày với ông Diệm…”
“Ông Diệm có vẻ đọc kỹ. Hỏi đi hỏi lại cẩn
thận một vài điểm Tibor Mende đưa ra. Ông bảo tôi không phải chỉ có chuyện dùng
người, chuyện chính trị hay đạo lý, như tôi âu lo mà thôi. Còn có chuyện phương
tiện, của cải, lấy đâu ra cho đủ để lo phát triển. Nhất là chuyện phát triển giáo
dục, tổ chức một nền Đại học hoàn bị,
tiến bộ, hướng đến khoa học, chuyên môn,
nghề nghiệp. Ông dặn phải bàn lại với
Nhu, Luyện, và thong thả tìm tòi, ghi chép dành cho ông một bản tường trình đầy
đủ hơn về vấn đề. Ông tiếp nhận rộng rãi các ý kiến mới. Tỏ ra ông nặng lòng về
tương lai nhân quần xã hội nước nhà.” (Hồ Sĩ Khuê, Nhà xb. Văn
Nghệ, 1993, tr. 161).
Alfred
Sauvy (1898 – 1990), là một nhà kinh tế học, nhà nhân khẩu học và xã hội học Pháp.
Ông là một người tố cáo không mệt mỏi các hiện tượng suy giảm tử suất và lão hóa
trên toàn cầu. Ông là người đưa ra cụm từ Thế giới Thứ ba (Tiers-Monde), xuất bản
nhiều trước tác quan trọng về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa từ năm 1943 đến
1990; còn Tibor Mende thì sinh ở Budapest ngày 14 tháng 10 năm 1915 và chết ở
Canada ngày 1 tháng 5 năm 1984, là một nhà báo, nhà chính luận Pháp gốc Hung
gia lợi, viết rất nhiều sách tiếng Pháp như
La Revolte de l‘Asie (1951), L’Inde devant l’orage (1954), L’Amérique latine
entre en scène (1956), Conversations avec Nehru (1956)… Theo Hồ Sĩ Khuê, TT Ngô Đình Diệm cũng đã lưu ý đến những gợi ý
hay mách bảo về giáo dục qua các sách báo đương thời vào một thời điểm rất sớm
(1947), và đã cưu mang dự án thành lập một viện đại học quốc gia ngay thời gian
rất lâu trước khi thực thụ nắm chính quyền. Tư tưởng của hai nhà học giả nói trên
ảnh hưởng mạnh trong các đầu óc lãnh tụ các quốc gia thuộc thế giới thứ ba
trong đó có Việt Nam, điển hình là Ngô Đình Diệm, đã tác dụng ít nhiều mang tính
cụ thể trong đường hướng quốc kế dân sinh của các vị lãnh đạo tại nhiều nước châu
Á như Ấn Độ, Nam Dương, Việt Nam v.v…
2.- Viện Đại Học Huế, sự lựa chọn tất yếu
của một nền văn hóa mang tính nhân bản.
Trước
khi quyết định cho thành lập một viện đại học ở Miền Trung, Viện Đại Học Huế,
chắc chắn TT Ngô Đình Diệm đã nghe được những ba động chính trị xuất phát từ Miền
Bắc qua các đợt cải cách ruộng đất đẫm máu, mục đích không phải sở hữu hóa nông
dân mà là tước đoạt đất đai của mọi tầng lớp địa chủ, phú nông, trung nông, bần
cố nông để thu gom tất cả vào tay đảng, đánh sập mọi giá trị trong tương quan
giữa con người với con người, chèn ép các tôn giáo, phá bỏ mọi cơ cấu xã hội, các
giá trị nền tảng của gia đình và xã hội Việt Nam. Một biến động khác là vụ án Nhân
Văn, Giai Phẩm trong đó các văn nghệ sĩ Miền Bắc, năm 1956 đòi quyền tự do tư
tưởng, tự do sáng tác, in ấn mà ảnh hưởng sự trù dập, đàn áp tàn bạo của Đảng
CSVN còn vang vọng mãi cho đến ngày nay. Một sử gia lúc bấy giờ đã ghi lại tinh
thần cảnh giác của TT Ngô Đình Diệm trong một đoạn văn như sau: “Đang khi bấy nhiêu việc tiến-hành, Tổng Thống
Ngô Đình Diệm không quên tiếp tục việc tảo thanh các di sản Thực-Phong, như trục
xuất đoàn quân Viễn-chinh Pháp, thủ tiêu dư lực của các giáo phái phiến loạn, và
củng cố cơ sở Miền Nam chống lại sự hăm dọa
rất gần và rất thật của Cộng sản Miền Bắc. Nhiều người có thể vì quang cảnh
yên ấm trực tại mà quên sự nguy hiểm đang
rình chực của độc tài đỏ, nhưng ông Ngô Đình Diệm thì không thể. Ông biết, và ông
như cảm thấy đều đó trong đường gân thớ thịt, rằng sự tồn vong của hạnh phúc dân
chủ của dân tộc Việt Nam là cốt ở sự có thể cầm cự trong hiện tại và chiến thắng
trong tương lai kẻ thù số một của tự do
kia. Bởi đó Ông không bao giờ không để mắt tới các hoạt động ngấm ngầm hay công
khai của phía Bắc. ” (Nguyễn Phương, Ánh
Sáng Dân Chủ, Xã Hội ấn quán, Sài gòn, 1957, trang 131).
Qua
thông điệp của TT Ngô Đình Diệm nhân dịp ban hành Hiến pháp 26-10-1956, người
ta thấy có viết: “Trong gần một trăm năm
qua, tình hình chính trị trái lẽ thường tại nước ta đã làm sút giảm tinh thần công nghĩa. Nay ta cần phải kiến tạo lại
tinh thần yêu chuộng công ích, trọng danh dự và thể diện quốc gia, đức liêm khiết
chính trực; ta cần phải rèn luyện lại tinh thần trách nhiệm, sự nhã nhặn trong
việc giao thiệp tỏ ra biết trọng người và tự trọng.” (Nguyễn Phương, Sách đã
dẫn, trang 176). Tinh thần công nghĩa
ở đây gắn liền với công ích của TT Ngô Đình
Diệm tức là cái công lợi mà cụ
Phan Bội Châu đã nói mà hai tác giả Cao Xuân Long và Lại Văn Nam có trích dẫn ở
trên.
Tại
Đại hội Văn hóa Toàn quốc 1957 tổ chức từ 7-16 tháng giêng năm 1957, chỉ hai tuần
sau khi các báo Nhân Văn, Giai Phẩm (ở
Miền Bắc) bị đóng cửa, Bộ Trưởng Thông Tin và Thanh Niên Trần Chánh Thành khai
mạc đại hội với những lời ca ngợi VNCH: “Đại
hội Văn hóa khai mạc tại Sài gòn… trong bầu không khí tự do tư tưởng, tự do
sáng tác, giữa niềm tin tưởng của mọi người về tương lai huy hoàng của nền Cộng
Hòa.” Rồi ông đối chiếu tình trạng sáng tác hai miền : “Trong lúc đó ở Bắc-phần các văn nghệ sĩ bấy
lâu bị kèm hãm bắt đầu lên tiếng công kích
đường lối lãnh đạo một chiều của Phòng Chánh trị đảng Cộng Sản muốn biến Văn
Nghệ sĩ – theo một tờ báo xuất bản tại Hanoi – thành ‘những con cừu ngoan ngoãn,
sợ sệt chịu để cho bọn chăn giắt lùa đi ngã nào cũng được.” (Trần Anh, Chủ nghĩa quốc gia của chánh quyền Đệ Nhứt Cộng
hòa, 1954-1963, Tạp chí Talawas số mùa Thu, 2009, trang 14).
Dân
biểu Quốc hội Nguyễn Thiệu đọc diễn văn tố cáo Pháp “dạy dân ta yêu mẫu quốc, đề cao thứ luật pháp đàn áp những nhà ái quốc
có ý chí giải phóng đất nước” Nguyễn Thiệu cho rằng nền giáo dục thực dân này củng
cố cho sự bất bình đẳng xã hội bằng cách truyền bá những giá trị lỗi thời” Cũng tại Đại hội
này, Nguyễn Thiệu còn tố cáo “giáo dục
thuộc địa đã trụy lạc hóa thanh niên để thanh niên mê ly với tiền tài, danh vọng
và ái tình…”
Dân
biểu Nguyễn Phương Thiệp trình bày về tự do tư tưởng trong hiến pháp VNCH và
cho rằng “sự “chỉ huy văn hóa” của cộng sản
đã tiêu diệt sáng tác văn hóa vì nó phủ nhận bản sắc cá nhân của mọi người nghệ
sĩ, nguồn gốc của sự sáng tác”. (Trần Anh, Bài đã dẫn). Rất nhiều các nhà báo,
nhà văn như Văn Hoàn, Tô Văn, giáo sư Lê Văn Siêu v.v… đã lên tiếng trình bày về
sự nghèo nàn báo chí của VNDCCH, phân tích các tác phẩm của Nhân Văn, Giai Phẩm,
số phận các trí thức miền Bắc (qua vụ Trần Đức Thảo), chính sách tiêu diệt dân
tộc tính của người Việt Nam, chà đạp nhân phẩm loài người. Có diễn giả như Nguyễn
Thiệu chỉ trích nền giáo dục miền Bắc “đoạn
tuyệt hẳn với nền văn minh cổ truyền và quá trình lịch sử tranh đấu vẻ vang của
dân tộc Việt Nam.”
Trong
bài thuyết trình về văn học Việt Nam, Giáo sư Lê Văn Siêu cho rằng sự độc tài tư
tưởng của cộng sản đã dập tắt mọi tư tưởng bất đồng khuynh hướng, trong đó có nền
văn chương Việt Nam . Nhưng sự chia đôi lãnh thổ “đã khiến tập trung vào riêng hẳn một khu thứ văn học (cộng-sản) đen rối
ấy, và kể từ 1954 trở về sau… nối tiếp theo đà tiến trong dòng dài lịch sử, nền
văn học đích thị Việt Nam đã bắt đầu đứng ra đảm nhận trách nhiệm lịch sử của mình
để lo xây dựng ý thức hệ mới đúng nguyện vọng của toàn dân.”(Trần Anh, Bđd,
trang 15).
Cũng trong Đại hội Văn hóa Toàn quốc này, ông
Ngô Đình Nhu đã trình bày về chủ thuyết Nhân Vị mà tư tưởng vận hành của Viện Đại
Học Huế dĩ nhiên ít nhiều cũng chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Nhân Vị. Ông nói: “Chủ thuyết đặt nền tảng trên quan niệm tôn
trọng phẩm giá con người và đẩy mạnh sự phát triển đến mức độ cao nhất. Quan niệm
này chẳng phải của riêng một giống người nào, một quốc gia nào, hay một đảng phái
nào mà là của mọi người. Ở Tây phương, “Tinh thần của Phúc-Âm” được xem như phương
tiện để nhận thức về giá trị nhân bản của con người và tại Á châu, những nguyên
tắc tôn trọng con người nhân bản nằm trong Kinh Vệ-Đà, Kinh Upanishads, trong sách
Mạnh tử, và ở ngay trong truyền thống dân gian Việt nam.” (12-1-1957, Cách-Mạng Quốc-Gia, trích lại trong Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam 1954-1963, Một Cuộc
Cách Mạng, Tiến Sĩ Phạm Văn Lưu, Tiến Sĩ Nguyễn Ngọc Tấn, Centre For
Vietnamese Studies Pub. 2005, Melbourne, trang 121).
Trước
hết vì mục đích công ích, công lợi mà TT Ngô Đình Diệm đã ký quyết định thành lập
Viện Đại Học Huế để cho con em sĩ tử Miền Trung đa số đều là dân nghèo có chỗ học
hành, trau dồi chuyên môn và nhiều lớp sinh viên tốt nghiệp đã góp công xây dựng
nước Việt Nam như Giáo sư Nguyễn Văn Hai đã từng nói, và việc mở một trường đại học như thế cho những con người
cần cù hiếu học vào lúc đó âu cũng là một đền bù (Giáo sư Nguyễn Văn Trường).
Trong thâm tâm của TT Ngô Đình Diệm có lẽ ông chấp nhận một thách đố đó là nhìn
về miền Bắc nơi làn sóng đỏ đang lăm le ụp xuống Miền Nam và ông đã muốn dựng lên
một bức trường thành để ngăn thảm họa xích hóa ở bên này vĩ tuyến 17. Viện Đại
Học Huế ngoài việc sẽ là một bức trường thành còn là ngọn hải đăng chiếu ánh sáng
tự do, dân chủ kêu gọi người miền Bắc về đây với những thành tựu về giáo dục, văn
hóa và xã hội.
Nhà
văn Nguyễn Văn Lục cho rằng Viện Đại Học Huế là một trong những con cưng của chế
độ Đệ Nhất Cộng Hòa, bên cạnh hai đứa con cưng khác là Trường Võ Bị Đà Lạt và
Trường Quốc Gia Hành Chánh. “Dưới mắt ông
Ngô Đình Diệm, việc thành lập Đại Học Huế ngay sát nách vùng ranh giới phân
chia Nam Bắc qua con sông Bến Hải còn có thể là một thách đố chính trị. Ông muốn
chứng tỏ cho phía bên kia Bến Hải là: Chúng tôi đang có mặt ở đây.” (Nguyễn
Văn Lục, Tóm lược về sự hình thành của Tạp
chí Đại Học, DCVOnline.net, Tháng 10-2015).
3.- Viện Đại Học Huế, những sứ mệnh văn hóa
và chính trị.
Tinh thần tự trị đại học. Một vị giáo sư có mặt với Viện Đại Học Huế
từ những ngày đầu, Giáo sư Nguyễn Văn Trường đã viết như sau nói lên tinh thần
tự trị của Viện Đại Học Huế:
Tuy
nhiên, trong thực tế, chúng tôi không cảm thấy một sức ép nào từ những cơ quan
nêu trên (Bộ Giáo Dục và Tổng Nha Công Vụ). Sự duyệt y các kết quả thi cử, các
văn bản thành lập phòng ban v.v… có khi là cần thiết. Tự trị không có nghĩa là
không luật pháp. Nhà nước cung cấp ngân sách cho Viện, sự biện minh các chi tiêu,
sự kiểm soát đương nhiên là cần thiết. Có điều là khi mình thấy thong dong
trong luật pháp, mình không cảm nhận bị ràng buộc, gọi như thế là tự trị, một sự
tự trị thực tế, chủ quan và tương đối. Viện đứng ngoài mọi đảng phái chính trị
kể cả đảng chính quyền, các tổ chức tôn giáo. Gọi như thế là độc lập. Nhưng trên
hết, tự trị và độc lập của nền giáo dục đại học nằm ở chỗ tự do truyền bá, phát
huy, và thu nhận của giáo chức và sinh viên. Lẽ dĩ nhiên là trong một giới hạn
khả chấp. Điều này là một giá trị hiển nhiên của nền giáo dục Miền Nam, và là một
điểm son của chế độ. Sứ mạng, nhiệm vụ, mục tiêu, đường lối của Viện Đại Học được
minh định rõ trong những văn bản mà đôi bên, Chính quyền và Viện Đại Học đều
nghiêm túc tôn trọng.” Có thể coi tinh thần tự trị đại học chính là sự hội
nhập toàn cầu trong lãnh vực văn hóa vào thời điểm bấy giờ.
Những điều giáo sư Nguyễn Văn Trường nêu
trên có lẽ xuất phát từ ý niệm đại học của Karl Jaspers (1883-1969), một triết
gia hiện sinh Ki-tô giáo nổi tiếng của Đức khi ông cho rằng ý niệm đại học gồm
ba nhân tố đó là sự thống nhất luôn mới mẻ của các ngành khoa học, định chế đại
học và mối quan hệ giữa đại học và nhà nước trong đó Jaspers nhận ra sự hỗ tương
căng bức : đại học vừa thuộc nhà nước, vừa tự trị không mang tính nhà nước. Thành
hay bại là ở chỗ xây dựng được cơ chế hợp tác bền vững, ổn định và tôn trọng lẫn
nhau. (Bùi Văn Nam Sơn, Ý niệm đại học:
Linh hồn của giáo dục cấp cao. Tư liệu đăng tải trên mạng, Sept. 14, 2015).
Để thấy rõ ý niệm tự trị
đại học thiết tưởng nên lưu ý tới đặc điểm trong chương trình giảng dạy của Viện
Đại Học Huế đó là sự dùng tiếng Việt Nam làm chuyển ngữ. Linh mục Nguyễn Phương
đã dẫn những lời của Francisque Vial năm 1939 than phiền việc dùng tiếng Pháp làm
chuyển ngữ trong các trường Đông Dương thêm rằng: “Chúng ta hãy thú nhận rằng chúng ta chưa làm được gì hết hay chỉ mới làm
được tí chút thôi trong việc thiết lập một nền học vấn hữu hiệu cho Đông Dương,
bao lâu chuyển ngữ của nền học vấn đó chưa phải là tiếng mẹ đẻ (của người Đông
Dương). Chúng ta thử tưởng tượng xem nền học vấn chính quốc chúng ta sẽ ra thế
nào, nếu người ta đem dùng tiếng Nga chẳng hạn để dạy cho trẻ em Pháp. Thế mà
tiếng Nga còn ít khác tiếng Pháp hơn nhiều khi so sự khác nhau giữa tiếng Pháp
và tiếng Việt hay tiếng Mên. Hỏi bao giờ mới đến cái thời kỳ trong đó chương trình
Trung Học Đông Dương sẽ gồm những môn có tính chất Viễn đông với chuyển ngữ là
ngôn ngữ Đông Dương, và tiếng Pháp chỉ còn giữ một địa vị giống như địa vị của
tiếng Anh, tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha, trong chương trình giáo dục chính quốc
chúng ta.” Linh mục Nguyễn Phương quả quyết rằng: “Thật vậy, việc dùng Việt ngữ làm chuyển ngữ chỉ có thể mang lại những kết
quả tốt đẹp, nhất là khi áp dụng vào ngành Đại học. Các thầy giáo Trung học, hỏi
lấy từ đâu ra, nếu không phải là từ các trường Đại học trong nước? Vậy nếu các
thầy đó, thong minh hơn, ăn nói khẩu khí hơn, tư tưởng khúc chiết hơn, học sinh
tất nhiên sẽ thụ giáo một cách hăng hái hơn, ích lợi hơn Một khi đã dùng Việt
ngữ làm chuyển ngữ, các bài sẽ dạy bằng Việt ngữ, các bài nghiên cứu sẽ bằng Việt
ngữ, nhờ đó, chẳng những nền quốc học được dồi dào thêm, mà văn hóa còn có thể
phổ biến mau chóng, rộng rãi hơn, vì số người có thể đọc được và dùng làm món ăn
tinh thần sẽ đông đảo hơn.” (Nguyễn Phương, Phương Pháp Sử Học, Phòng Nghiên Cứu Sử, Viện Đại Học Huế, 1964,
trang 210).
Trong
sách Trung Dung, Khổng Tử đã từng viết
về cốt lõi của Đại học rằng : “Đại học
chi đạo tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện.” 大 學 之 道 在 明 明 德 , 在 新 民 , 在 止 於 至 善 .
Linh mục Séraphin Couvreur, S.J. một nhà Trung Hoa Học nổi tiếng, đã dịch ra tiếng
Pháp là “La voie de la Grande Étude, (c-à-d.
ce que l’homme dès l’adolescence doit apprendre et pratiquer) consiste en trois
choses, qui sont de faire briller en soi-même les vertues brillantes que la
nature met dans l’âme de chacun, de renouveler (c-à-d. de reformer) les autres
hommes, et de se fixer pour terme la plus haute perfection. (Séraphin
Couvreur, Les quatre Livres de Confucius,
De l’école Francaise en Extrême-Orient, A PARIS, au 7 du faubourg St-Honoré,
1981, page 2). Sách Nho Giáo của
Trần Trọng Kim trích lại câu trên, dùng chữ thân
dân thay cho tân dân và dịch là:
“Cái đạo của bậc đại học là ở sự làm sáng
cái đức sáng, ở sự thân-yêu người, ở sự đến chí thiện mới thôi.” (Trần Trọng
Kim, Nho Giáo, Bộ Giáo Dục &
Trung Tâm Học Liệu xuất bản, 1971, quyển thượng, trang 177). Theo một số nhà
nghiên cứu, chữ thân dân 親 民 có
lúc được dùng thay cho chữ tân dân 新 民 (có
lẽ vì tự dạng hơi giống nhau và ý nghĩa cũng san qua sẻ lại với nhau được). Cái
ý niệm làm mới (renouveler) hay đổi mới (réformer) con người chính là cốt lõi của
hai chữ Đại Học đã được linh mục Cao Văn Luận và hàng ngũ giáo sư cộng sự viên
tích cực phát huy tại Viện Đại Học Huế, một cơ sở văn hóa trọng yếu của Việt
Nam Cộng Hòa ở một đất văn vật của Miền Trung. Tinh thần đổi mới và tự trị Đại
Học chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của Viện Đại Học Huế trong những năm dưới
quyền Viện Trưởng Cao Văn Luận. Viện Đại Học Huế bắt đầu áp dụng chế độ chuyển
ngữ bằng quốc ngữ thay cho tiếng Pháp mà theo nhiều vị giáo sư đó là cách giúp
cho giáo dục Đại học làm trọn vẹn chức năng của mình.
Trong
bài viết về Tạp chí Đại Học, ông Nguyễn
Văn Lục có viết về sứ mệnh của tạp chí đó liên quan đến tinh thần tự trị đại học
như sau: “Tờ Đại Học muốn chứng tỏ cho mọi
người thấy đại học không phải là một môi trường khép kín. Tự trị đại học không
có nghĩa đóng cửa. Nhưng tự trị về mặt quản lý còn những mặt khác mở tung cửa
ra cho mọi thành phần.. Đại học là một môi trường thuận tiện cho mọi khuynh hướng,
mọi ý kiến, mọi quan điểm có quyền phát biểu trình bày và bảo vệ quan điểm của
mình.”
Tạp chí Đại-Học. Có thể nói Tạp chí Đại Học của Viện Đại Học Huế là cơ quan
nghiên cứu duy nhất mà các đại học khác không có. Tháng 5-2005, tôi có vài lần viết thư hỏi Giáo sư Trần Văn Toàn (lúc
bấy giờ sống ở Lambersant, Pháp quốc) về Tạp chí Đại Học và được biết ít nhiều như sau:
Về
phương diện nghiên cứu và phản ánh sinh hoạt, Viện Đại Học Huế đã phát hành Tạp
chí Đại Học xuất bản từ năm 1957, do
giáo sư Nguyễn Văn Trung làm chủ bút, bài vở do các giáo sư thuộc Viện Đại Học
Huế hay có khi thuộc các viện đại học khác viết. Năm 1961, giáo sư Nguyễn Văn
Trung chuyển vào Sài gòn và công việc điều hành Tạp chí này giao lại cho giáo sư
Trần Văn Toàn. Giáo sư Trần Văn Toàn, ngoài việc viết bài dẫn nhập từng kỳ báo
còn đóng góp nhiều bài vở và nhất là mời các nhóm cộng tác như nhóm của linh mục
Nguyễn Phương, giáo sư Trần Kinh Hòa (Đại Học Hương Cảng) và liên lạc với một số
người viết qua ông Nguyễn Anh (trước đây được linh mục Cao Văn Luận biệt phái
ra lo việc hành chánh cho tờ tạp chí này) là người liên lạc thẳng với cha Luận
để lo trả tiền nhuận bút cho các tác giả có bài đăng báo. Sau đó ít lâu khi giáo
sư Bùi Xuân Bào ở Pháp về, nhóm học trò cũ của ông Bào (cũng là học trò cũ của
cha Luận; vì thế trước khi cha Luận đi khỏi Huế, họ có tặng cha 4 chữ Nho đầy ý
nghĩa: Sự sinh đại nghĩa) là Lê Tuyên,
Lê Văn, Lê Khắc Phò v.v… bàn với nhau và với cha Luận là để giáo sư Bùi Xuân Bào
làm chủ trương biên tập thay giáo sư Toàn, nhưng sau không thấy gì vì giáo sư Bào
ở lại Sài Gòn. Sau khi linh mục Cao Văn Luận đi khỏi Viện Đại Học Huế (1964) không
còn tiền nhuận bút nữa và Tòa Viện trưởng lại đưa ông Nguyễn Anh về làm ở Tòa Viện trưởng, Tạp chí Đại Học đã
phải đình bản.
Dưới
con mắt của Tạ Chí Đại Trường, nhà nghiên cứu sử học được đào tạo ở Viện Đại Học
Sài Gòn: “Xứ
Huế cổ kính với dấu vết kinh đô xưa có vẻ hợp với sử học. Tạp chí Đại Học đăng những bài của Trần Kinh Hòa (Chen Ching
Ho) về Giao Chỉ, của Nguyễn Toại về Hùng Vương và nhà xuất bản Đại Học Huế in bản
dịch An Nam Chí Lược cùng bản chữ Hán
(sắp chữ lại) của Lê Tắc. (Ta không bàn đến các bản dịch khác ở đây). Động đến
Hùng Vương của truyền thống một cách quyết liệt theo một hướng khác lạ, là các
bài dạy của linh mục Nguyễn Phương đăng rải rác trên các tạp chí, kỉ yếu rồi
gom lại thành sách: Việt Nam thời khai sinh. Theo ông, dân Việt như trong hiện tại là một lớp dân Trung Quốc, đến ở
đất mới của một dân tộc thuộc văn minh Đông Sơn mà đại biểu cuối cùng là Hai Bà
Trưng. Đám thực dân đó sinh sôi nảy nở, có một đại biểu đầu tiên, “một người Việt
Nam đầu tiên” là Lí Bí (thế kỷ VI). Họ giống trường hợp của dân các xứ Nam Bắc
Mĩ Châu gốc châu Âu vậy. Sinh viên không dám bài bác ông thầy, vì như họ nhận định:
“Ông ấy dạy học như lúc đang ở tòa giảng trong nhà thờ vậy.” Có điều nói như ông
là đã gạt phăng ông Hùng Vương ra ngoài chính sử Việt. Nhưng ông lại tiếc rẻ níu
vào sách cả một thời đại văn minh Đông Sơn không-Việt (theo ông), cho nó chiếm
một số lượng trang áp đảo của thời khai sinh Việt Nam! Cho nên ta hiểu nỗi tức
giận của quan-chức sử Phạm Huy Thông vào năm 1976 khi thấy chính những kẻ dưới
quyền được Đảng trao cho mình săn sóc tư tưởng lại nhân danh khoa học bảo một cái
sọ 2.000 năm trước trên đất gần Hà Nội không có dáng Việt, nghĩa là phụ trợ cho
giả thuyết của ông Nguyễn Phương là dân Việt mãi đến vài thế kỷ sau mới xuất hiện
ở đây.” (Tạ Chí Đại Trường, Những bài
văn sử, Văn Học xuất bản, 1999, trang 147). Tạ Chí Đại Trường viết thì như
vậy nhưng thử hỏi trình độ sinh viên có là bao mà dám đứng lên bẻ bác ông thầy?
Ngay chính Tạ Chí Đại Trường trong nhiều cuốn sách đã tỏ ra rất kính trọng các
luận điểm sử học của LM Nguyễn Phương, có nơi còn tỏ ra chịu ảnh hưởng về những
khám phá sử học của linh mục Nguyễn Phương nữa, thí dụ trong cuốn Những bài dã sử Việt, trang 155 phần nói
về Ngô Quyền chẳng hạn. Trong cuốn Những
bài văn sử, trang 127, Tạ Chí Đại Trường cũng khen LM Nguyễn Phương khi gọi
Hoàng Lê Nhất Thống Chí là lịch sử ký
sự, chống lại quan điểm của Vũ Ngọc Phan khi Phan cho đó là cuốn lịch sử tiểu
thuyết.
Trong
Đại Học số 11 Tháng 9/1958, Linh mục
Bửu Dưỡng, Tiến Sĩ Thần Học đã viết một bài báo ngắn có tên “Trước những trào lưu mới : Phong trào Nhân Vị”
góp chút suy tư vào nguồn tư tưởng hiện hành của Miền Nam. Bài của B.S. Nguyễn
Văn Ái, Viện trưởng Viện Pasteur Sài Gòn, có tên “Tiến tới một nhân bản khoa học” cũng trong số báo này, mở ra những
khai phá mới lạ của tư tưởng nhân bản trong lãnh vực khoa học.
Trong
bài viết có tên Tóm lược về sự hình thành
của Tạp chí Đại Học, Nguyễn Văn Lục
cho biết chính Giáo sư Nguyễn Văn Trung đã đề nghị với Lm Luận cho xuất bản tờ Đại Học - một tập san đại học mà ngay ở
Sài gòn cũng chưa có được. Linh mục Luận đồng ý ngay. “Chữ Đại Học ở đây không mang ý nghĩa một tập san chuyên môn của một
chuyên khoa đại học. Nó chỉ có ý nghĩa là một tạp chí do một viện đại học xuất
bản và trong đó có đủ mọi lãnh vực. Nó đã gây được sự chú ý và tiếng vang và chỉ
vài tháng sau thì đã có đủ số độc giả để tự túc về tài chánh. Sau này, ông đại
sứ Ngô Đình Luyện đã tặng Đại học Huế một máy in và từ đó không còn phải in ở
nhà in Nam Sơn Sài Gòn nữa.”
Theo Nguyễn Văn Lục, Tạp
chí Đại Học có một sứ mệnh văn hóa, đó
là một nền văn hóa mang tính đại chúng. “Và
để thực hiện được điều ấy tờ Đại Học cổ súy việc dùng tiếng Việt trong việc giảng
dạy bất kể những khó khăn ban đầu về danh từ. Tờ Đại Học ra đời là nhằm các mục
tiêu vừa nêu trên. Trong suốt 6 năm trời, tờ Đại Học đã đồng hành và phát triển
cùng với sự phát triển của đại học. Tờ báo với số báo đầu tiên, tháng 2-1958 và
chấm dứt, tháng 8, 1964, vài tháng sau khi chế độ Đệ nhất Cộng hòa miền Nam sụp
đổ. Sự chấm dứt tờ Đại Học sau khi sụp đổ nền Đệ nhất Cộng hòa miền Nam cho thấy
những người mới có một tầm nhìn hạn hẹp và ngắn hạn.
Có tất cả hơn 300 bài viết nghiên cứu về
triết học, sử học, địa lý, luật học, ngôn ngữ học, ngữ pháp học, văn học và cả
ngành y khoa… trong khoảng 4000 trang tài liệu. Số phận tờ Đại Học chết không
phải vì không có độc giả. Số phận của tờ
báo liên quan đến số phận chính trị miền Nam thời Đệ nhất Cộng hòa. Đáng lẽ, dù
thay đổi thể chế chính trị thì cũng không có lý do gì để đóng cửa tờ Đại Học.”
Chúng
tôi xin bổ túc một chút: Trong tạp chí Đại
Học có đăng nhiều bài viết về kịch nghệ của Giáo sư Lê Hữu Khải, nhiều bài
nghiên cứu về hội họa của Giáo sư Phan Xuân Sanh, kỹ thuật sơn mài của Họa Sĩ Nguyễn
Phi Hùng (nổi tiếng ở Huế)…
Về
các vị chủ bút của Tạp chí Đại Học, Nguyễn Văn Lục viết tiếp: “Trong suốt những năm tháng ấy, có hai đời chủ
bút, “Chủ-trương biên-tập”. Từ 1958 đến 1961 do Gs Nguyễn Văn Trung chủ trương.
Vì những lý do chính trị, Gs Nguyễn Văn Trung bắt buộc phải rời bỏ Huế về dạy Văn
Khoa Sài Gòn theo lệnh của Bộ trưởng Giáo dục. Tạp chí Đại Học sau đó được Gs
Trần Văn Toàn tiếp tục làm công việc “Chủ-trương biên-tập” cho đến lúc tình hình
chính trị miền Trung sôi động, bất ổn vào tháng sáu, năm 1964. Tờ báo tự đóng cửa
một cách thầm lặng, không một lời chia tay độc giả. Như một sản phẩm dư thừa của
nền Đệ nhất Cộng hòa. Thôi thì nó cũng đã làm tròn nhiệm vụ, là tiếng nói của một
thời kỳ của một miền Nam thân yêu.”
Bên
cạnh Tạp chí Đại Học, Linh mục Cao Văn
Luận còn thành lập một ủy ban có tên Ủy Ban Phiên Dịch Sử Liệu Việt Nam do Linh
mục Nguyễn Phương đứng đầu trong đó gồm có nhiều vị danh nho khoa bảng như cụ Hà
Ngại, cụ Nguyễn Duy Bột, cụ Lương Trọng Hối, cụ Hồ Đắc Định… Ngoài ra còn có nhà
xuất bản Đại Học đã in được nhiều tác phẩm quý như Châu Bản Triều Nguyễn (nhiều bộ), An Nam Chí Lược của Lê Tắc, Hải
Ngoại Ký Sự của Thích Đại Sán, Nhận Định
tập I, tập II, tập III của Nguyễn Văn
Trung, Tình cảm và đời sống đạo đức của
Jean Lacroix, Sứ mệnh văn nghệ - Những nhà
văn hóa mới của Nguyễn Nam Châu; Biện
chứng giải thoát trong Phật Giáo của Nguyễn Văn Trung; Danh từ Triết học của Một nhóm Giáo Sư; Danh từ Chuyên khoa trong Việt Ngữ của Đàm Quang Hậu; Phương Pháp Luận của René Descartes; Hình Học Giải Tích (Toán Học Đại cương và Toán
Lý Hóa của Nguyễn Văn Trường; Vật-Chất
và Ký-Ức (Matière et Mémoire của H. Bergson do L.M. Cao Văn Luận dịch; Khảo luận về NGỮ PHÁP VIỆT NAM của Trương-Văn-Chình
và Nguyễn Hiến-Lê; Vi Trùng Học tập I và
2 của Bác sĩ Nguyễn Văn Ái; Nguyễn Bỉnh
Khiêm và Thảm trạng Tri thức trong thân phận làm người của Lê Tuyên; Chinh Phụ Ngâm và Tâm thức Lãng mạn của kẻ lưu
đày của Lê Tuyên…
4.- Viện Đại Học Huế: Thách đố và đáp ứng
trong một số ngành học và lãnh vực nghiên cứu.
Dĩ nhiên sự thách đố và
đáp ứng giữa hai miền Nam Bắc trên lãnh vực quản trị đất nước chung giữa hai chế
độ có nhiều điểm khác nhau, nhưng có lẽ rõ rệt nhất là trong phạm trù văn hóa,
mà cụ thể hơn ở Đại Học Huế cả trong lãnh vực nghiên cứu và giảng dạy có thể nhìn
rõ hai thế đứng : chống CS công khai và trực tiếp (về lịch sử, lập trường), chống
công khai và gián tiếp (trong nhiều bộ môn, sinh hoạt). Một điều cần nhớ rằng tinh
thần tự trị đại học là cái mà Hà Nội không có, không bao giờ có; chỉ ở các đại
học Miền Nam mới có, vì đó là tinh thần tự do, dân chủ.
a.- Quan điểm và thủ đoạn của chính quyền
Hà Nội: Các vị cầm nắm chính quyền ở Hà Nội như Tổng Bí Thư Trường
Chinh, hay Thủ Tướng Phạm Văn Đồng vốn luôn luôn muốn rằng quá khứ lịch sử phải
được diễn dịch theo ý muốn của nhà cầm quyền, mà nhiệm vụ của người viết sử, như
quan điểm của Leopold von Ranke (1795-1886) một trong những sử gia lừng danh nhất
của mọi thời đại, đó là phải viết lại điều như nó đã xảy ra (In the 19th
century, Leopold von Ranke, one of the greatest historians of all times, got a
resounding reputation for having stated that historians should tell thing as
it was. His idea was repeated, commented, and for a long while taken as
norm of methodical historiography. – Leopold von Ranke (1795-1886) left a
collection of 51 volumes of historical works and was ranked as the greatest
historian of his time. His historical knowledge was so enormous that he could move
with great ease over great tracts of human experience. See Paul Weiss, History:
Written and Lived, Southern Illinois University Press, 1962, pages 7-9.-
Nguyễn Phương, The Ancient History Of Việt-Nam
– A New Study – 1976, page 17). Tạ Chí Đại Trường cho biết khi Trường Chinh phê
bình cuốn Hai Bà Trưng khởi nghĩa của
Nguyễn Thế Mỹ (Văn Mới 1944) trên tờ Cờ
Giải phóng số 10, 21-8-1945, viên tổng
bí thư này “ngoài giọng quyền uy chững chạc
ở các luận thuyết khẳng định sự lãnh đạo văn hóa của Đảng Cộng Sản Việt Nam, ta
gặp ở (đây) sự đàn áp tư tưởng thô bạo ngay khi chưa nắm quyền.” Cũng theo
Tạ Chí Đại Trường, Trường Chinh “cũng đã
chỉ đạo trong Hội nghị tổng kết 10 năm công tác của Viện sử học là phải tác chiến
chống những quan điểm sai lầm về sử học, xuyên tạc lịch sử Việt Nam của đế quốc,
phong kiến tư sản, của những sử gia phản động ở Miền Nam” (Nhân dân,
21-12-1963) Đường lối vẽ ra đầy quyền uy đó
đã là kim chỉ nam cho vài thế hệ lấy làm mực thước để không cho phép những nhà
nghiên cứu Miền Bắc có ý kiến nào khác, và với đà chiến thắng 75, nó là căn cứ
để các sử gia ưu việt quát mắng những nhà nghiên cứu ở Miền Nam với giọng thấp
kém khó chấp nhận.” (Tạ Chí Đại Trường, Những
bài văn sử, trang 100).
Cũng
trong cuốn sách trên, Tạ Chí Đại Trường cho biết “Thủ tướng Phạm Văn Đồng chẳng hạn, đã buộc các sử quan Việt Nam: “(Các
đồng chí) phải nặn óc mà moi cho được thời kì chiếm hữu nô lệ trong lịch sử nước
ta” - lệnh này được in trong quyển Lịch sử Việt Nam tập I của Ủy Ban Khoa Học
Xã Hội Việt Nam bản 1971, và biến mất
trong bản in 1977. (trang 124).
Các
viên quan chép sử dưới chế độ CS như Văn Tân, Viện trưởng Viện Sử học Hà Nội có
nói: “Sử học là khoa học mật thiết liên
quan đến chính trị.” (History is an inherently political enterprise) hay như
Văn Tạo, Viện Trưởng Viện Sử Học Hà Nội (1980-89) cũng có lúc công khai phát biểu
tại Đại Học Paris VII rằng: “Chúng tôi không
viết sử để làm công trình sử học mà là để góp phần xây dựng chế độ mới.” (Tạ
Chí Đại Trường, Những bài văn sử, Văn
Nghệ xuất bản năm 1999, trang 153. Dẫn từ Hugues Tertrais của Nguyễn Thế Anh, “Historical Research in VN: a Tentative History”, trong Journal of
Southeast Asian Studies, số tháng 3.1995). Những vị này không cần biết đến một
nguyên tắc cơ bản của lịch sử đã được Cicero (106-43 trước CN) nêu ra: “Luật đầu tiên của lịch sử là không được nói
gì mà không đúng với sự thật, và không có gì thật mà không nói đến.” (Primam
esse historiae legem, ne quid falsi dicere audeat, ne quid very non audeat).
b.-
Tinh thần sống chết vì sự thật lịch sử của giới sử học Miền Nam. Có
lẽ vì thấm nhuần tinh thần tôn trọng sự thật trong khi làm công tác sử học, khảo
cổ học mà Giáo sư Nghiêm Thẩm, dạy sử tại Viện Đại Học Huế (môn Nhân chủng học)
vị bảo trợ tiểu luận Cao học sử của tôi năm 1971, đã bị chế độ Cộng Sản thủ tiêu.
Theo hồi ký “Rồng Xanh Ngục Đỏ” của
Linh mục Hán Chương Vũ Đình Trác, mấy năm sau ngày 30-4-75, Lê Duẩn vào Sài Gòn
đi với Nguyễn Tuân gặp GS Nghiêm Thẩm ở khách sạn Majestic, yêu cầu GS Nghiêm
Thẩm dùng uy tín của mình để viết lại lịch sử Đông Nam Á, vì do các các phát kiến
của Đại Nga-xô xác nhận người VN là thủy tổ các dân tộc Đông Nam Á Châu. GS
Nghiêm Thẩm đã trả lời Lê Duẩn:
-Uy tín của tôi lúc này là nói đúng sự thật.
Theo các tài liệu khoa học hiển nhiên, nhất là khoa khảo cổ học và nhân chủng học
quá rõ ràng, tôi không thể viết thế khác được. Viết như đồng chí nói là phản
khoa học.
Hắn mỉm cười, bảo tôi:
-Anh nói thế tức là còn đang ở trong vòng
gò bó của sách sở, của óc đế quốc, của hủ lậu, chứ không theo sử quan một chút
nào cả.
Tôi cảm thấy tức đầy ruột, và thực sự lúc
ấy tôi nhìn thằng Lê-Duẩn như một con chó chết đê hèn, nên tôi hơi bạo lời:
-Nếu tôi viết như thế, thì các nhà khảo
cổ và nhân chủng học trên thế giới sẽ cho tôi và cả chế độ tôi phục vụ là con
chó chết. Tôi không bao giờ làm chuyện sa đọa ấy.”
(Vũ Đình Trác, Rồng Xanh Ngục Đỏ, Hội
Hữu xuất bản, 1986, trang 255).
Vào
lúc 11 giờ trưa một ngày cuối tháng 11, 1979, có hai kẻ lạ mặt tông cửa vào nhà,
giơ súng áp đảo GS Nghiêm Thẩm, bắt ông nộp chiếc búa khảo cổ. Nhận được chiếc
búa, chúng đập vào đầu GS Nghiêm Thẩm ba búa, nằm chết trên vũng máu… Bọn chúng
lấy chiếc búa bỏ chạy.
Nhờ tinh thần tự trị đại
học nghĩa là có tự do dân chủ, Linh mục Nguyễn Phương thuộc Phân khoa Sử thuộc
Viện Đại Học Huế đã đi tiên phong khi nói về việc dạy sử ở các trường trung học
bằng cách nêu lên sự quan trọng của việc dạy sử bởi lẽ việc dạy sử là vụ vào chân
lý tức không phải người ta quan tâm đến cái gì bịa đặt. LM Nguyễn Phương cũng
phác lại một thảm trạng của quá khứ khi từ năm 1918, người Pháp khua chuông gõ
mõ tuyên bố đem nền văn hóa Tây phương sang gieo vãi vào Đông Dương. Họ dạy sử
Việt bằng tiếng Pháp mà học sinh ít hiểu tiếng Pháp nên không thắc mắc. Thầy dạy
nhiều khi cũng dùng khả năng tiếng Pháp để tránh né những vấn đề học sinh muốn
hỏi cặn kẽ mà thầy lại không biết. Cách dạy sử của một số trường trung học lúc
bấy giờ mang tính nô lệ vì phương pháp “đọc cho chép” vốn phổ biến trong học đường.
Trước các tệ trạng đó cần thiết phải cải cách việc dạy sử nghĩa là phải có một
đội ngũ các thầy giáo tốt nghiệp chuyên khoa môn sử ở đại học, nắm vững phương
pháp sử học, cải tiến chương trình sử học, thí dụ trước đây mỗi tuần học một giờ
nay ba giờ hoặc cùng lắm hai giờ. Hiệu trưởng các trường phải biết lưu tâm ân cần
với các thầy cô dạy sử, khuyến khích tìm hiểu nền sử học địa phương; giáo sư phải
biết lựa chọn sách giáo khoa đúng và đủ. (Nguyễn Phương, Phương Pháp Sử Học, từ trang 192-227).
LM
Nguyễn Phương công khai bút chiến với Văn Tân về vấn đề ”Ai thống nhất Việt Nam?
Nguyễn Huệ hay Nguyễn Ánh”, đả kích cuộc khởi nghĩa Tây Sơn cho đó không phải nông
dân khởi nghĩa như Hà Nội chủ trương. Một số giáo sư Đại Học Hoa Kỳ như Liam
Kelley(Đại Học Manoa, Hawaii), Wynn Wilcox (Western Connecticut State
University) lưu tâm tới các tác phẩm sử học của LM Nguyễn Phương. Trong nước giới
trẻ tìm đọc hay in lại các sách của ông.
Trong
Chương trình Sử tại Đại Học Văn Khoa Huế có Chứng chỉ Phương Pháp Sử là một chứng
chỉ bắt buộc nếu những ai muốn có văn bằng Cử nhân Giáo khoa Sử học. Các tài liệu
giáo trình về Phương Pháp Sử của LM Nguyễn Phương được phổ biến trên một số tạp
chí lúc bấy giờ như Tạp chí Đại Học, Bách Khoa (Sài Gòn) được in năm 1964 với tên
Phương Pháp Sử Học.
Sau
năm 1975, một nhà nghiên cứu Miền Bắc, Trương Hữu Quýnh đã có một bài viết tên
“Đọc sách ‘Phương pháp sử học’ của Nguyễn Phương” trong đó có ghi như: “Hơn thế nữa, đọc kỹ tác phẩm, chúng ta cũng
thấy được sự cố gắng nêu ra các công việc cần thiết – theo quan niệm cá nhân và
theo xu thế chung của sử học miền Nam hồi ấy - của một người muốn bắt tay vào
nghiên cứu lịch sử, muốn làm một nhà sử học, tác phẩm đã gợi lên được một cuộc
tranh luận và sau đó, Nguyễn Thế Anh, với tư cách giáo sư sử học của trường Đại
học văn khoa Sài gòn, đã theo con đường của Nguyễn Phương, cho ra tập “Phương
pháp sử học” của mình.” (Tư liệu này chưa xác minh được nguồn văn. NĐC)
Theo
đà đó, một số các giáo sư sử học thuộc Viện Đại Học Sài Gòn như Châu
Long (Tiến sĩ Sử Học) và Lê Kim Ngân (Tiến sĩ Luật khoa, Cao Học Sử) với cuốn Sử-Học
Nhập-Môn (1970, Nguyễn Thế Anh (Thạc Sĩ Sử Học) cũng có in Nhập Môn Phương Pháp Sử Học (1974).
Việc
sử dụng giáo sư dạy môn sử cũng có chỗ nhầm lẫn, không chỉ ở bậc Trung học mà cả
bậc Đại học như Tạ Chí Đại Trường có lần ghi nhận. (Tạ Chí Đại Trường, Sđd, trang 145).
Trong
Đại Học số 6, Tháng 11-1958, Giáo sư
Trương Bửu Lâm lúc đó là Giám Đốc Viện Khảo Cổ Sài Gòn, Giáo sư Sử tại Viện Đại
Học Huế có viết một bài tên “Một nền sử học
quốc gia” đã tâm huyết nêu lên những tệ trạng của môn lịch sử và đề ra nhiều
biện pháp chấn chỉnh đáng chú ý.
Trong
Đại Học số 11, Tháng 9/1959 B.S. Vũ Đình
Chính dạy ở Trường Đại Học Khoa Học Huế, cũng có một bài nhan đề “Con người trước vấn đề tiến hóa” mở ra
cho người đọc một chân trời khoáng đãng, có lẽ cũng để đáp ứng lại thách đố của
Hà Nội về nguồn gốc con người từ khỉ mà ra của thuyết mác xít mà Hà Nội đang rất
mực nâng niu.
Một
cuộc “Hội thảo về vấn đề giải phóng phụ nữ”
do các giáo sư Viện Đại Học Huế và một số
nhân sĩ danh tiếng như Giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, Nguyễn Văn Trung, Ô.
Nguyễn Nam Châu, Bà Tăng Thị Thành Trai, Bà Mai Ngọc Liệu, Cô Phan Ngọc Quới, Bà
Nguyễn Văn Đãi, BS Nguyễn Văn Ái chủ trương đã được tổ chức tại Viện Đại Học Huế
càng làm sáng tỏ chính nghĩa nhân bản của Miền Nam, đề cao sự quan trọng của
người phụ nữ trong gia đình cũng như ngoài xã hội, (Đại Học số 11, tháng 9-1959, tr. 167-182) cùng với Bộ luật gia đình của Bà Ngô Đình Nhu đưa
ra những điểm căn bản nhất: chấm dứt chế độ đa thê, trả quyền tự do kết hôn cho
trai gái từ hai mươi mốt tuổi trở lên, xác nhận quyền bình đẳng giữa nam và nữ
trong gia đình cũng như ngoài xã hội. (Thế Uyên, Sài Gòn sau mười hai năm, Nxb. Xuân Thu, tr.178). Tất cả cũng để chứng
tỏ sự hơn hẳn của VNCH so với chế độ CS ở Miền Bắc đang coi người dân không hơn
loài cầm thú.
Các
bài nghiên cứu văn học, lịch sử của các GS Thanh Lãng, Lê Văn Hảo, Bửu Kế, Phan
Văn Dật, Nguyễn Toại đầy tính sáng tạo, giá trị trên cả tầm vóc quốc gia chứng
tỏ trong một xã hội có tự do dân chủ nhà văn mới sáng tác được.
Trong
khi ở Miền Nam, người ta chú trọng đến phương pháp luận sử học qua các công trình
nêu trên thì ở Miền Bắc mãi đến năm 1981 có cuốn Lịch Sử là gì? mỏng dính dịch của N.A. Êrôphêep do nhà xuất bản Giáo
Dục in năm 1981 và đến năm 1987 mới có cuốn Nhập
Môn Sử Học của ba tác giả Lê Văn Sáu, Trương Hữu Quýnh và Phan Ngọc Liên.
Cũng
nhờ tinh thần tự do dân chủ của Miền Nam, mà trong khi dạy môn sử tại Viện Đại
Học Huế, linh mục Nguyễn Phương qua cuốn Phương
pháp sử học, đã có lần phê phán sự bất toàn của sử học mác-xít: “Mỗi khoa học xã hội đều quan trọng, nhưng chỉ quan trọng một cách tương đối với vấn
đề, và không một khoa học nào có thể vỗ ngực tự hào rằng mình nắm toàn bộ vấn đề.
Thuyết Mác-xít, lấy kinh tế làm sức mạnh độc nhất điều khiển con người sống
trong xã hội chính là phạm vào chỗ hàm hồ quá trớn đó.” (Nguyễn Phương, Sđd,
trang 15).
Vấn
đề quan trọng nhất là vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt Nam chính là một thách thức
của LM Nguyễn Phương đặt ra cho giới sử học VN nói chung và giới sử học Miền Bắc
nói riêng, Với LM Nguyễn Phương dân tộc VN không phải con cháu dân Lạc Việt, mà
là dòng dõi Trung Hoa di cư sang cổ Việt từ thời nhà Tần. Cuốn Việt Nam Thời Khai Sinh của LM Nguyễn Phương
gồm có các chương như Những người đầu tiên
sống trên đất Việt Nam; Tiền sử Lạc Việt; Lịch sử Lạc Việt; Vấn đề nguồn gốc dân
tộc Việt Nam; Hành chánh cổ Việt thời Bắc thuộc; Chính trị cổ Việt dưới thời Bắc
thuộc; Cổ Việt độc lập và Phụ lục là
một bản tường trình bằng tiếng Anh ở Hội nghị quốc tế về lịch sử Á châu họp ở Hương
cảng năm 1964. Áp dụng phương pháp sử học trong việc sử dụng và đánh giá tài liệu
qua sự tham bác rất nhiều sử liệu chữ Hán như Sử Ký, Tiền Hán Thư, Hậu Hán Thư, Tư Trị Thông Giám, nhất là bộ Nhị Thập Ngũ Sử, linh mục Nguyễn Phương
quả đã dày công trong việc dựng lại buổi bình minh của dân tộc. Dĩ nhiên cũng có
nhiều người ủng hộ lẫn công kích. Nhà sử học Tạ Chí Đại Trường cũng chú ý đến
kiến giải của linh mục Nguyễn Phương với những ghi nhận như sau: “Trong khi các sử quan ngày xưa chấp nhận một
quan điểm duy văn hóa như thế mà không để hại cho tinh thần dân tộc, lại nâng
cao ý thức ấy bằng việc biểu dương vai trò của Hai Bà Trưng (xem đoạn phê phán
của Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên trong Toàn Thư), thì một sử gia ở Miền Nam Việt Nam
vào đầu những năm 60 đã đưa ra một giải thích táo bạo về nguồn gốc dân Việt, đặt
vai trò quyết định của thời kỳ Bắc thuộc trong việc hình thành dân tộc Việt
Nam, một dân tộc mới, gốc Hán, tạo dựng trong khung cảnh địa lý xa đất mẹ, khác
hẳn với đám dân Việt cổ bị trị có các anh hùng là Hai Bà Trưng và nền văn minh Đông
sơn. Luận thuyết đó được trình bày trong một hội nghị quốc tế, nhưng chìm lấp
trong các biến động chính trị to lớn lúc bấy giờ, tuy cũng gặp một phản ứng trên
tầng lớp trí thức, lịch sự mà không sâu sắc lắm.” (Tạ Chí Đại Trường, Thần, Người, Và Đất Việt, Nxb Văn Nghệ,
California, 1989, tr. 83). Tạ Chí Đại Trường phê bình cuốn sách The Birth Of Vietnam của Keith Weller
Taylor đến hai lần khi sách này không nhắc tới luận cứ của LM Nguyễn Phương “vốn là đối cực của thuyết cho rằng dân Việt
của vua Hùng đã miên tục trường tồn sau hơn cả nghìn năm Bắc thuộc.” (Tạ Chí
Đại Trường, Những bài văn sử, trang
202).
Một
vấn đề lịch sử quan trọng khác là thống nhất đất nước mà phe Hà Nội trước đây vẫn
muốn giành cho Nguyễn Huệ, nhưng nay tình hình đã ngả về lập trường của LM Nguyễn
Phương đó là Nguyễn Ánh mới thực sự là người thống nhất đất nước năm 1802. Những
nhà nghiên cứu sử của Hà Nội như Trần Quốc Vượng, Phan Huy Lê đã thừa nhận đó là
thành quả của Gia Long. Và đó là sự thật của lịch sử. Nhà sử học Phan Huy Lê cũng
đã có can đảm nói lên sự thật về “nhân vật lịch sử” Lê Văn Tám, một hư cấu của
thời cuộc qua sự ký thác của Viện Trưởng Sử Học Trần Huy Liệu.
c.- Các Tổ chức Sinh Viên Huế.- Năm
1959, sinh viên Đại Học Huế tổ chức bầu cử Tổng Hội Sinh Viên Huế với Nguyễn Đức
Giang làm Chủ tịch (Ngô Văn Lại thuộc Viện Hán Học trong BCH/TH) 1962-63. Sau đó
Trịnh Giảo Kim (1963-64) lên thay, rồi đến Vĩnh Kha (1964-1965). Năm 1964 anh Lê
Đình Cai là Chủ Tịch Hội Đồng Sinh Viên Liên Khoa đứng ra tổ chức bầu cử BCH/TH
và có hai Liên danh tranh cử: (Liên danh I gồm Cao Thân, Ngô Văn Vinh và Dương
Thanh Xuân thuộc Đại Việt Cách Mạng Đảng - Thị Bộ Huế đối chọi với Liên danh 2
chịu ảnh hưởng Phật Giáo Ấn Quang do Trần Xuân Kiêm – Tôn Nữ Phùng Thăng. Kết
quả rất sít sao và phe Trần Xuân Kiêm đắc cử. Cùng với Tổng Hội Sinh Viên, phía
Công Giáo có Đoàn Sinh Viên Công Giáo Huế do Nguyễn Văn Đương, Bùi Thế Cần, Hồ
Sĩ Hùng, Nguyễn Thanh Lượng điều hành, qui tụ khoảng 200 Sinh Viên thuộc các Phân
khoa. Hằng năm các tổ chức này thường hay có các cuộc du ngoạn, hành hương thuần
túy tôn giáo hay, văn hóa, không có mầu sắc chính trị. Niên khóa 1963-64, anh
Trịnh Giảo Kim (cư xá Xavier) làm chủ tịch THSV, nhưng qua biến cố 1963, anh
Kim bị nhóm Sinh viên Phật tử chống báng kịch liệt nên bỏ Huế vào Sài Gòn. Nhóm
SV Phật Tử do Hoàng Văn Giàu, Nguyễn Đắc
Xuân, Trần Xuân Kiêm và nhóm cán bộ CS nằm vùng dựa thế Phật Giáo khống chế Đại
học Huế, bãi khóa, biểu tình, đốt Phòng Thông Tin Hoa Kỳ, làm tê liệt mọi hoạt
động từ 1966 cho đến vụ Mậu Thân 1968. Sau đó Viện Đại Học Huế hồi sinh trong mệt
mỏi…
LỜI
KẾT
Trong
tác phẩm The Clash Of Civilizations and the Remaking of World Order (1996), Samuel P. Huntington dẫn ra nhận xét của
Vaclav Havel, kịch tác gia và cựu Tổng thống của Tiệp Khắc: “Ngày nay các cuộc xung đột văn hóa càng tăng
và càng nguy hiểm hơn bất cứ thời khắc nào trong lịch sử.” (trang 28) và ông
cũng kết thúc đâu đó khá bi quan: “Trong
các cuộc chiến tranh giữa các nền văn hóa thì văn hóa bao giờ cũng là kẻ chiến
bại.” Thật ra, lịch sử đã chứng minh năm 1644, các bộ tộc Mãn Châu vào chiếm
Trung Quốc, đô hộ Trung Hoa cho đến năm 1911 mà vẫn phải chấp nhận nền văn hóa
của kẻ thua trận làm nền văn hóa của mình. Những thách đố và đáp ứng chúng ta vừa
thử xem qua chỉ là khúc dạo đầu (prélude) của một bản giao hưởng, là cuộc thử sức
giữa một bên là dân tộc VN qua vai trò của Viện Đại Học Huế và bên kia là đảng
cộng sản của Hồ Chí Minh trên bình diện văn hóa. Và cho đến nay vấn đề ai thắng
ai trong mặt trận văn hóa giữa Nam và Bắc tưởng chừng đã có câu trả lời rồi vậy.
Nguyễn Đức Cung
Philadelphia 10-3-2017