Chủ Nhật, 26 tháng 2, 2017

Chữ Hán và Văn Hóa Dân Tộc - Nguyễn Công Thuần


CHỮ HÁN VÀ VĂN HÓA DÂN TỘC

Chữ Hán là văn tự do người Hán sáng tạo. Từ đầu công nguyên, chữ Hán đã được truyền vào nước ta. Chữ Hán là một văn tự ngay tại Trung quốc cũng có nhiều cách đọc; đọc theo các của người Việt gọi là Hán – Việt. Cũng như Triều Tiên và Nhật Bản, trong nhiều thế kỷ, chữ Hán đã được người Việt xem là văn tự chính thống; không chỉ dùng trong hành chánh mà dùng cả trong các ngành học thuật và sáng tác văn chương. Vì thế trong quá khứ, nền văn hóa Việt Nam qua các chặng đường phát triển luôn luôn có mối quan hệ mật thiết với chữ Hán. Ngày nay muốn nghiên cứu văn hóa dân tộc, chúng ta cũng cần có vốn chữ Hán.
 1. Vai trò chữ Hán trong ngôn ngữ Việt
 Chữ Hán giữ một vai trò quan trọng trong ngôn ngữ Việt. Theo xác định của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, kho từ vựng tiếng Việt có đến 70% từ Hán – Việt, năm 2002, Viện Ngôn ngữ học xuất bản quyển Từ điển từ mới  tiếng Việt (Nxb Tp HCM)  tập hợp những từ mới xuất hiện từ năm 1985 đến năm 2000.  Trong gần 2500 từ mới của sách ấy, số từ Hán – Việt cũng lên đến 50%. Từ Hán – Việt không chỉ dành riêng cho giới học thức, mà còn là công cụ ngôn ngữ phổ biến đại chúng, nhưng riêng các ngành nghiên cứu học thuật – văn hóa thì tỷ lệ sử dụng cao hơn. Chúng ta không thể vì chỉ muốn làm cho tiếng Việt tuyệt đối trong sáng mà vội vàng Việt hóa toàn bộ các từ Hán – Việt. Việc chuyển các từ Hán Việt ra từ thuần Việt phải từng bước trải nghiệm và được đại chúng đồng thuận lựa chọn chứ không ai có thể áp đặt.
Vì thế, muốn nâng cao văn hóa ngôn ngữ, chúng ta cần phải trau dồi vốn từ Hán – Việt. Có nhiều cách trau dồi, nhưng đơn giản nhất là dùng từ điển; từ nào không hiểu hoặc còn nghi ngại thì tra cứu để sử dụng cho đúng. Tùy trình độ và mục đích sử dụng mà chọ lựa từ điển. Từ điển tiếng Việt cũng giúp chúng ta hiểu được những từ Hán Việt thường dùng, cao hơn thì dùng từ điển chữ Hán.
Việc dùng từ điển cũng cần phải đối chiếu kiểm cứng, chứ không nên hoàn toàn tin chắc ở một sách nào; dầu là bậc học giả có uy tín cũng có khi sơ suất. Cụ thể như sách Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giải thích “phượng tùng vĩ” là cây phượng vĩ thì không đúng, đó là cây thiên tuế, còn cây phượng vĩ Trung Quốc gọi là “phượng hoàng mộc”. Sách Hán việt từ điển của  Thiều Cửu giải thích từ “mai”, chỉ ghi nghĩa là cây mơ có trái nấu canh chua, chứ không nói gì đến cây mai có hoa chưng tết; khi dẫn câu trong Kinh Thư để minh họa: “Nhược tác hòa canh, nhĩ duy diêm mai”, thì dịch nghĩa là: “Bằng nấu canh ăn, bui dùng muối mơ” (Từ cổ: bui là chỉ có một) thì không chính xác. Khi cử Phó Duyệt làm Tể  tướng, Ân Cao Tông nói với ông: “Nhược tác tửu lễ, nhĩ duy cúc nghiệt; nhược tác hòa canh, nhĩ duy diêm mai” (Khi làm rượu lễ, nhà ngươi là men rượu; khi nâú bát canh, nhà ngươi là mơ muối). Thế mà có tác giả viết về hoa mai lại trích nguyên câu trong từ điển ấy dể dẫn nhập; sách in sai “muối mơ” ra “muối mở” thì tác giả ấy đã sửa thành “muối mở.” Ngoài ra, có những từ thường dùng nhưng vẫn không có trong các từ điển chữ Hán phổ thông, như nhóm từ “Cửu huyền thất tổ” (Bảy vì tổ trong chín đời) thường thấy trên các bàn thờ tổ tiên hay từ “hợp long” chỉ việc nối thông các cây cầu hoặc các con đê ngăn nước, phải tìm trong các tự điển Từ nguyên, Từ hải hoặc Đại tự điển của Trung Quốc mới có.
2. Văn hóa Việt trong những di sản Hán –Nôm: 
Nhữngdi sản ấy phần lớn hiện lưu trữ tại thư viện của Viện nghiên cứu Hán – Nôm (Hà Nội) và các thư viện tại Sài Gòn cũng có một số ít.
a. Năm 1993, Viện nghiên cứu Hán Nôm và Học viện Viễn Đông Bác cổ Pháp xuất bản bộ Di sản Hán Nôm thư mục đề yếu giới thiệu 5038 đầu sách, bao gồm 16164 cuốn chia thành các loại:
- Sách viết bằng chữ Hán (10135 cuốn)
- Sách viết bằng chữ Nôm (1373 cuốn)
- Sách sao chép in lại của Trung Quốc (1641 cuốn)
- Thần sắc (404 cuốn)
- Thần tích (535 cuốn)
- Tục lệ (732 cuốn)
- Địa bạ (503 cuốn)
- Xã chí (16 cuốn)
- Cổ chí (96 cuốn)
- Ngoài ra, còn có 729 cuốn chưa lên ký hiệu.
Nội dung các sách ấy gồm nhiều chủ đề:
- Chính trị xã hội: Quan chức, Bang giao
- Địa lý: Bản đồ, Địa lý toàn quốc, Địa lý địa phương
- Kinh tế: Nông nghiệp, Thủ công nghiệp
- Lịch sử: Sử học, Sử liệu, Gia phả
- Ngữ văn: Thơ văn hợp biên, Văn, Thơ, Kịch nghệ, Văn học các dân tộc ít người, Công cụ tra cứu.
- Pháp chế: Luật lệ nhà nước, Tục lệ địa phương
- Quân sự: Binh Thư và vũ khí
- Tôn giáo – Tư tưởng – Triết học: Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Thiên Chúa giáo, Phong thủy, Tín ngưỡng nhân gian.
- Văn hóa – Giáo dục: Sách giáo khoa, Thi cử
- Y dược: Dược liệu, Y trị
Những sách trong kho Hán Nôm trên gồm nhiều nguồn cung cấp:
- Sách do Học viện Viễn đông bác cổ Pháp tại Hà Nội trao lại năm 1958.
- Sách tiếp nhận từ các thư viện: Long Cương (Cao Xuân Dục), Hoàng Xuân Hãn, Hội Khai trí tiến đức, Văn Miếu, Khoa học Trung ương, Vụ bảo tồn bảo tàng, Ty Văn hóa Hà Đông, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, bộ Giáo dục.
- Sách do Viện nghiên cứ Hán Nôm sưu tầm trong nhân gian:
Nếu không  bị tiêu hủy trong chiến tranh và thiên tai thì kho di sản Hán Nôm của ông cha ta còn đồ sộ hơn nữa. Nhưng bấy nhiêu mà khai thác hết được thì cũng đáng mừng cho nền văn hóa dân tộc, chỉ tiếc rằng số sách dịch ra tiếng Việt chưa được bao nhiêu.
b. Tại Sài Gòn có hai thư viện lớn: Thư viện Khoa học Xã hội và Thư viện Khoa học Tổng hợp. Số sách Hán Nôm tại hai thư viện này không nhiều, nhưng tại Thư viện Khoa học Tổng hợp có bộ tuồng cổ chữ Nôm là một di sản rất quý. Đây là những vở tuồng do nhà Học Lâm triều vua Tự Đức thu nhập trong dân gian đem về kinh nhuận sắc rồi giao lại cho các gánh hát trình diễn. Vua Tự Đức của một đại thần chép cho ông mỗi vở một bản. Không  rõ do đâu năm 1889 nước Anh đã nhập vào thư viện Bristist Museum (Luân Đôn) một bộ đóng thành 28 tập. Năm 1971, thư viện này đã đem tặng Việt Nam (Sài Gòn) bản pho-to 28 tập sách ấy. Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh hiện lưu trữ 24 tập và đã nhờ dịch giả Nguyễn Thị Thanh Xuân phiên dịch ra quốc ngữ, bước đầu được 7 tập. Năm qua, thư viện đã tổ chức nghiệm tu các tập sách dịch ấy.
3. Văn hóa Việt tại những di tích thắng cảnh: 
Những nơi này thường có bi ký, thần tích, thần sắc, liễn đối và thơ vịnh bằng chữ Hán. Đây cũng là nguồn tư liệu phong phú cho việc nghiên cứu văn hóa dân  tộc. Những di tích lịch sử và danh lam – thắng cảnh nổi tiếng cấp quốc gia đã được công bố qua những công trình nghiên cứu khá công phu của nhiều tác giả. Nhờ đó mà những tấm bia sù sì mốc meo đã ngời lên ánh sáng của quá khứ vàng son, những bức hoành tấm liễu tróc sơn mòn chữ bỗng vang lên tiếng nói oai hùng của ông cha thưở trước. Ngoài ra, tại các địa phương trong cả nước cũng có nhiều đình chùa, lăng mộ, từ đường còn giữ được những vật thể có giá trị văn hóa, nhưng chưa được nghiên cứu khai thác đầy đủ. Gần đây, có hiện tượng đáng mừng là tại nhiều địa phương đã có những người tự đứng ra nghiên cứu di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh của địa phương mình với tất cả tâm tình sâu nặng của người con đối với quê mẹ thân yêu.
Chữ Hán Việt ngày càng lỗi thời, ít ai dùng nữa. Nhưng thứ chữ lỗi thời ấy có thể tạo dòng thông với quá khứ, giúp ta giữ được bản sắc văn hóa dân tộc. Trước đây, vì không giải quyết được mối tương quan giữa “đạo” và ‘thực” nên sinh viên chúng tôi đã đồng tình với việc giải tán Viện Hán học. Nhưng dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng, nên từ đó, mỗi người có cách riêng tự tìm đến dòng thông với quá khứ. Ngày nay, lớp chúng tôi đã đứng bên lằn ranh “thấp thập”, mối duyên xưa với nền Hán học xin trao lại những người máu chảy ruột mềm. Chúng tôi tin rằng lớp đàn em sau sẽ có cách xử lý thông minh hơn về mối tương quan giữa “đạo” và “thực” để kho tàng Hán Nôm của cha ông khỏi làm mồi cho mồi cho mối mọt.
                   Nguyễn Công Thuần
        Cựu sinh viên quy chế mới của Viện Hán Học Huế


Không có nhận xét nào: