Chữ Nghĩa Làng Văn
Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
***
Thổ thần
Thường thấy giữa đồng ruộng Bắc Việt một cái gò, cái đống đất có cây cổ thụ che phủ một cái bệ xây làm nền. Nhà nông chung quanh đem hương hoa, rượu, xôi, gà đến cúng tế, vì đấy là một đền hay nền thờ Thổ Thần. Ngừơi ta kiêng xâm phạm vào khu vực này, cây không được chặt, đất không được cuốc.
(Văn hóa đình làng – Nguyễn Đăng Thục)
Chơi chữ - 1
Chơi chữ là các hiện tượng đồng âm, đa nghĩa,... trong ngôn ngữ nhằm gây một tác dụng bóng gió, châm biếm trong lời nói, trong đó ngữ âm, ngữ nghĩa, văn tự, văn cách,.. nhằm đem lại những liên tưởng bất ngờ, ly thú. Như chuyện có mấy cậu học trò chọc ghẹo một cô gái.
Cô này ra một vế đối:
"Yêu nhau như bâu, như dót, như hót vào thúng, như búng con quay, như xoay thợ tiện, như bện hàng tơ".
Mấy cậu chịu bí, chẳng những không dám đến nhà cô nọ mà đi ngang đầu ngõ cũng sợ, phải tìm lối khác mà đi, có khi phải chui rào, lội nước để tới trường.
Thầy dạy họ là ông nghè Nguyễn Quý Tân biết chuyện, mới bày cho cách đối lại rằng:
"Lấy đây có bầu, có bạn có ván cơm xôi, có nồi cơm nếp, có dệp bánh chưng, có lưng hũ rượu".
Về đối lại rất tương xứng với vế ra. Mặt khác, nó còn mở ra trước mắt người đọc (nghe) một cảnh tượng nô đùa vui vẻ của trẻ thơ, do lời đồng dao "Ông giẳng ông giăng; Xuống chơi với tôi,...".
(Chơi chữ là gì? – Triều Nguyễn)
Chữ là nghĩa
Ta đã biết làm ruộng, nên ta đã có danh từ cơm không phải Quan-thoại cũng không phải Quảng-đông. Nhưng chắc là ta chưa biết nấu cháo, y như đồng bào Thượng ở Kontum ngày nay, họ không hề biết món đó, nếu không có chung đụng với ta.
Quan-thoại nói Chúa, Quảng-đông nói Chúc, Hán Việt nói Chúc, tiếng Việt Cháo, rõ ràng do tiếng Tàu mà ra.
(Gương mặt dân Lạc Việt qua ngôn ngữ Việt – Bình Nguyên Lộc)
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa tiền mua
Chơi chữ - 2
Một ông nguyên là phú hào trong làng, trước ra tranh cử lý trưởng không trúng, sau vì sự tình cờ của thời cục được bổ làm quan, rồi cánh buồm được gió, chẳng mấy lúc lên đến Tổng Đốc, oanh liệt một thời. Khi mở tiệc thọ, có người thuộc hạ mừng bức hoành khắc bốn chữ : “Vạn lý trường thành”
Ví cụ lớn như bức thành vạn lý che chở cho cả tỉnh, lời khen tặng đã trọng vọng và cung kính. Nhưng ai để ý cũng thấy hai chữ giữa là lý trường, và giá cho thêm một nét ngoặc vào chữ trường sẽ thành ra lý-trưởng.
Rõ là cụ lớn tuy là "tổng đốc" nhưng xưa kia chỉ là "lý trưởng".
(Chơi chữ - Lãng Nhân Phùng Tất Đắc)
Tướng mạo con người qua ca dao, dân ca
- Mắt trắng, môi thâm, da thiết bì
Người nhiều lông bụng: vô nghì chớ thân
Tướng mặt
Mặt là bộ phận được nghiên cứu nhiều nhất trong nhân tướng học phương Đông. Chỉ cần nhìn qua người đối diện, bạn có thể biết cá tính, vận mệnh cả đời của người đó.
4 - Khuôn mặt chữ Đồng (同) :
Đây là khuôn mặt được coi là thượng cách với gương mặt cân xứng, đầy đặn. Đàn ông mà có khuôn mặt chữ Đồng cả đời đều thuận lợi và thành công về nhiều mặt, đàn bà suốt đời được hưởng hạnh phúc, không biết đau khổ là gì.
Tướng mạo con người qua ca dao, dân ca
Những người tai mỏng mà mềm
Là phường xấc láo, lại thêm gian tà
Một số từ hay bị dùng sai trong tiếng Việt
Trong ngôn ngữ giao tiếp của người Việt chúng ta hiện nay, nhiều từ đã bị sử dụng không chính xác, bị biến nghĩa hoặc ghép từ mù mờ trong định nghĩa từ, dễ gây hiểu lầm, khiến cho văn bản kém tính chính xác. Đây là một bài chúng tôi sưu tầm, liệt kê các trường hợp sử dụng từ sai trong tiếng Việt hiện nay.
Qúa trình 感 覺: Quá 過 là đã qua, trình 程 là đoạn đường.
Quá trình là đọan đường đã đi qua. Nói thế nầy là đúng. Nhưng tôi lại thấy trong sách báo câu đại loại thế nầy: “Quá trình thực hiện công tác sắp tới của tôi là sẽ rất thuận lợi”. Thực là sai lắm rồi. Trong trường hợp nầy, phải dùng chữ tiến trình, đúng cho cả 3 thì quá khứ, hiện tại và tương lai.
(khuyết danh)
Nói lái xưa và nay
Bùi Giáng ưa nói lái. Kiểu nói lái của Bùi Giáng thật khác người, không cần người đọc có hiểu hay không. Ông thường dùng những từ như: tồn lưu, lưu tồn, tồn liên, liên tồn, tồn lí tí ngọ...
Lọt cồn trận gió đi hoang
Tồn liên ở lại xin làn dồn ra
(Mưa nguồn)
Bài "Trong bàn chân đi" đầy dẫy những chỗ nói lái nhưng thật khó mà hiểu được :
Có mấy ngón
Năm ngón
Mười ngón
Món người
Non ngắm
Nắm ngon
Hoặc là năm ngón nón ngăm
Màu đi trên nước cá tăm chuyên cần
Nón ngăm dặm bóng xoay vần
Đọng nơi góp tụ và chần chờ đưa.
(Nói lái mà chơi, nghe lái chơi - Thân Trọng Sơn)
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Trâu buộc ghét trâu đi về
Quá khứ và hiện tại cùng sống động, do đó có khi thứ tự thời gian như bị xáo trộn, hay vì trí nhớ bị hành vì quá nhiều tầng và thứ lớp chồng chất! Mỗi truyện của ông như có dàn sẵn, có đầu có đích hẳn hòi, hầu như không có những lững lơ con cá vàng!
Trong bộ Một Trời Một Biển, anh sinh viên Hải quân Tần với người con gái gặp gỡ tình cờ: "Hiền bỗng dưng mềm nhũn trong tay Tần, (...) Từng khuy áo bật nút và, theo bản năng, bàn tay chàng ve vãn bờ vai trần, mơn mởn thịt da. Hương con gái ngào ngạt tỏa ra từ đôi ngực đào tơ, lồ lộ, không mặc áo sú-cheng. Nàng bất giác rùng mình, nổi da gà, khi những ngón tay chàng chạm vào đầu vú, phớt qua phớt lại... rồi nắn bóp, cương lên, săn gọn trong lòng bàn tay chàng..." (tr. 177).
Thường thường tác giả bắt đầu truyện bằng những màn tả cảnh, như đầu truyện Dòng Sông Của Tùng (Một Chuyến Ra Khơi, l990): "Vào mùa khô, cái nắng của những làng quê miền Nam kéo dài dai dẳng. Trẻ con trần truồng rong chơi. Bụi đóng lớp dầy trên phiến lá, trên hàng rào... Con đường mòn heo hút, mặt cát đất gồ ghề trắng bệch, thỉnh thoảng một chiếc xe bò chất đầy lúa, một người đàn bà gánh hai bó rơm to hơn người uể oải, lê thê. Quang cảnh đìu hiu vắng vẻ, không còn sức sống, không có dấu hiệu hoạt động. Mảng đất giồng bỏ lâu không xới, cỏ mọc xen lẫn rơm rạ phủ lên mấy lớp...". Truyện thêm thắt thơ văn, ca dao, câu hò,... làm cho truyện trở nên hấp dẫn, dễ theo dõi! ("Nhún mình như thể nhún đu"; "Mặc dù tiết tháng bảy năm nay chẳng có mưa dầm sùi sụt, cũng chẳng có toát hơi may lạnh buốt xương khô vốn rất thích hợp cho sự lang thang của những hồn ma đói khát...".
Điểm đặc biệt trong thơ văn Nguyễn Tấn Hưng là dù thơ hay văn, đều là những mảng, những khía cạnh của một tâm hồn, đứng riêng cũng đặng mà để chung cũng xong. Những một nửa, những tiểu truyện, những giây phút chạnh lòng, những nhung nhớ bất chợt,... Một Giấc Mơ Tiên gồm nhiều tập nhiều chương, nhưng mỗi chương có thể "sống" thoải mái mình "yên". Tập thơ và nhạc Một Thoáng Trong Mơ cũng trong chiều hướng sáng tác: "Có ai về Mỹ Tho / Nhớ theo sông Bảo Định / Thả trôi ra tận vàm / Tắm mát dòng Tiền Giang (...) .
Tính chất tự truyện bao trùm nhưng với Nguyễn Tấn Hưng hầu như là chuyện thật không thêm bớt, chuyện gốc nghèo, chuyện ông Trùm nhận hối lộ,... chẳng hạn, nhờ vậy truyện có ý tích cực, tố giác, vạch tội, dễ được người đọc cảm tình hơn!
(Lãng Nhân Phùng Tất Đắc - Nhớ Nơi Kỳ Ngộ)
Từ điển chính tả sai lỗi…chính tả
“sói: sỉa sói. → không viết: xói”. (Gs Nguyễn Văn Khang)
Viết chuẩn là “xỉa xói”. “Xỉa” là dùng ngón tay chỉ thẳng vào mặt người khác mà chửi mắng (như: Chửi gì thì chửi, đừng có xỉa vào mặt người ta như thế!) “xói” là hướng trực diện vào với cường độ mạnh (như Nhìn xói vào mặt; Nắng xói vào nhà).
(Hòang Tuấn Công)
Bạn tôi, Trần Đông Phong
Trước đây là những dòng về Trần Đông Phong. Những điều Nguyễn tôi ghi lại sau đây là thuộc về ngoại truyện. Nó không ở đâu cả, mà nằm ngoài cõi gió, hay nói đúng ra là trong tâm cảm bạn bè. Tất cả tụ ở một điểm thiếu sót trong phần tiểu sử của Trần Đông Phong ghi trên:
Đó là năm cuối trung học của Trần Đông Phong ở Quốc Học Huế. Đây là lớp Đệ Nhất C niên khóa 1955-1956. Theo tôi nghĩ, thời gian này rất quan trọng chẳng những với riêng mình mà còn với các bạn cùng lớp trong đó có Trần Đông Phong. Có thể nói một cánh cửa lớn đã được mở ra trước mắt những chàng trai, những cô gái còn phơi phới mộng đời. Và những tư tưởng của thời hiện đại mà chúng tôi có được là từ nơi đây: về sử với thầy Lê Khắc Phò về từ Sorbonne, về văn học Anh với thầy Huỳnh Đình Tế tốt nghiệp ở Anh quốc, về văn chương Pháp với cha Lập, về triết học với cha Luận. Tất cả làm nên hành trang chúng tôi sau này.
Bây giờ, tôi xin nói về Trần Đông Phong qua cái nhìn và cảm nhận riêng của mình. Và khi viết những dòng này, tôi muốn ghi lại một thời với những bóng ảnh để bạn bè có dịp chia sẻ, và các môn sinh của Trần Đông Phong biết thêm đôi nét về thầy mình.
Thắng tức Trần Đông Phong đẹp trai như tài tử xi nê, biết nhiều và nói chuyện hoạt bát cho nên bạn dễ vướng vào lụy tình với những trắc trở trong đời. Âu đó cũng là cái số. Ngay từ thời Đệ Nhất C, Trần Đông Phong đã đọc Newsweek và có kiến thức về lịch sử, chính trị. Chúng tôi mấy đứa chơi thân với nhau. Tôi và Trần Đông Phong khi vào Sài Gòn đã có thời thuê chung nhà ở đường Foucauld (Nguyễn Phi Khanh) và Yên Đổ.
(Nguyễn Xuân Thiệp)
Từ điển chính tả sai lỗi… chính tả
“soan: dâu da soan. → không viết: xoan”. (Nguyễn Văn Khang)
Viết “xoan” mới đúng.“Giâu gia xoan hay dâu da xoan Cây nhỡ, lá kép lông chim, hoa trắng mọc thành chùm, quả như quả xoan, ăn được”.
(Hòang Tuấn Công)
Nỗi nhớ qua một số tác giả
Vài kỷ niệm với những gặp gỡ
Một buổi trưa giữa tháng năm, trời nóng như đổ lửa, tôi thấy Đoàn Thạch Biền ngồi đọc bản thảo trong căn tin, mồ hôi nhễ nhại, thỉnh thoảng anh lấy tay quẹt mồ hôi trên trán, dường như anh để tâm hết vào trong xấp bản thảo, tôi có cảm tưởng anh chẳng hề biết nóng là gì.
Vừa lúc đó Mường Mán từ trong NXB.Trẻ bước ra, vẻ mệt mỏi, anh hấp tấp lấy xe, giơ tay chào rồi chạy thẳng. Tôi nói với Nguyễn văn Hiên :
- Nghe nói Mường Mán đang chuyển nhà từ Cần Thơ về Saigon, chắc vì vậy nên vội vã.
Nguyễn văn Hiên khều tôi :
- Hôm nào gặp Mường Mán nhờ cậu nói là tớ khuyên ông ấy đổi cái bút hiệu, may ra cuộc đời sẽ sáng sủa hơn.
- Nghĩa là thế nào ?
- Làm chủ bao giờ cũng khá hơn… làm mướn.
Rồi Nguyễn văn Hiên cười hề hề :
- Mường Mán là màn mướn, thì làm sao khá được… hôm nào Mường Mán ở Cần Thơ lên cậu nói giúp tớ như vậy.
Góp ý vui của Nguyễn văn Hiên cho Mường Mán không ngờ như một lời tiên tri. Hiện giờ Mường Mán làm chủ một nhà hàng nổi tiếng ở Phú Nhuận. Đó là nhà hàng Ruốc. Nhà hàng của anh chuyên về ẩm thực truyền thống Huế.
Buổi chiều cuối năm, bộ mặt Sài gòn bỗng dưng thay đổi, đường phố thênh thang, xe cộ thưa thớt. Sài gòn như một người quanh năm tất bật giờ được nghỉ ngơi... Tôi đến nhà hàng Ruốc vào buổi chiều trời còn những vạt nắng sót lại, Mường Mán đưa tôi đi xem tranh, anh giải thích và nói chủ đề từng bức, khoảng hơn 40 bức tranh được anh vẽ trong vòng 10 năm, đến nhà hàng Ruốc, đúng hơn là vào một ngôi biệt thự, yên tĩnh, vào đây như lạc đến một thế giới khác, yên ả khác hẳn cảnh xô bồ náo nhiệt ở bên ngoài. Tôi cảm tưởng đây là nơi trưng bày tranh sơn dầu của Mường Mán (*) hơn là… một nhà hàng bán ruốc.
(Phạm Thành Chương)
(*) Mường Mán là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, làm việc tại Công ty Văn hóa Phương Nam ở Sài Gòn. Trước 1975, ông là cựu phóng viên chiến trường ở miền Nam Việt Nam. Năm 2008, Mường Mán nghỉ hưu. Ông tạm gác bút dành hết thời gian chăm chút cho một nhà hàng và vẽ tranh sơn dầu trên bố, thực hiện niềm đam mê hội họa từ thời còn rất trẻ.
Chữ nghĩa làng văn
Chân dung Văn học Nghệ thuật & Văn hóa
Sinh hoạt văn học nghệ thuật của miền Nam lúc đó như bừng lên tràn trề sức sống. Trước hết phải kể đến thành phần văn nghệ sĩ di cư từ Bắc vào Nam. Họ đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự khởi sắc đột khởi này. Một năm sau Hiệp định Geneva chia đôi đất nước, nhật báo Tự Do ra đời tại Sài Gòn với một ban biên tập hùng hậu và những người cộng tác gồm toàn những cây bút Bắc kỳ di cư nhiều kinh nghiệm với Cộng sản, như: Tam Lang Vũ Đình Chí, Mặc Đỗ, Đinh Hùng, Như Phong Lê Văn Tiến, Vũ Khắc Khoan, và ít lâu sau có thêm Hiếu Chân, và họa sĩ Phạm Tăng.
Thế nhưng, đáng chú ý nhất ở thời đoạn này là các nhóm văn chương. Nhờ hít thở bầu khí quyển tự do, tiếp cận trực tiếp với các trào lưu văn nghệ, tư tưởng lớn của Tây phương, mà điển hình là Pháp, các nhóm văn chương đã có cơ hội nở rộ, tạo môi trường thuận tiện, là chất xúc tác cho những sáng tạo đột phá, gây kinh ngạc lớn và có khả năng trường tồn.
Theo Ngô Thế Vinh thì có các nhóm chính sau:
1) Tự Lực Văn Đoàn được tiếp nối với Văn Hoá Ngày Nay của Nhất Linh; 2) Sáng Tạo của Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền phủ nhận nền văn học tiền chiến với nỗ lực cách tân văn chương; 3) Quan Điểm của Nghiêm Xuân Hồng, Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ;
(Trịnh Y Thư)
Gặp gỡ nhà văn miền Bắc
Tôi cúi xuống mở cái ba-lô tôi để dưới chân ghế lấy ra quyển hồi ký Nhất Linh, Cha Tôi. Tôi mở trang đầu cuốn sách viết lời đề tặng chủ nhà. Có tiếng động và tiếng người nói ở nhà dưới. Lát sau mọi người lần lượt lên cầu thang ngồi trên hai dẫy ghế hai bên bàn. Có hai vị khách được chủ nhà hướng dẫn ngồi ghế phía trước cạnh tôi. Tất cả khoảng hơn mười người.
Chủ nhà, giáo sư Nguyễn Huệ Chị, trưởng ban văn học Việt Nam Cổ cận đại viện văn học Hà Nội, giới thiệu những người hiện diện. Trừ vài người tôi đã nghe danh tánh như giáo sư Hoàng Ngọc Hiến, giáo sư Phan Đình Diệu, hai vị ngồi cạnh tôi, và một người ngồi phía dưới là đạo diễn Trần Văn Thủy (*), những người khác tôi mới nghe tên lần đầu.
Nghe anh Huệ Chi giới thiệu những người đó với toàn chức vị “tiến sĩ” tôi nói đùa với anh:
– Mặc dù Hà Nội đang giữa mùa Hạ anh cũng làm tôi rét đấy! Tôi chưa từng bao giờ được diện kiến với nhiều vị tiến sĩ như vậy trong đời...
Vài nụ cười nhẹ thoáng trên môi của mấy vị khách phái nữ. Câu nói đùa của tôi không phá được bầu không khí khá trịnh trọng lúc ấy. Trong một lát tôi ngỡ ngàng. Tôi hoàn toàn không chuẩn bị để đối diện với cái không khí này.
(Một trăm ngọn nến – Nguyễn Tường Thiết)
(*) Trần Văn Thủy là một đạo diễn phim Việt Nam, sinh năm 1940 tại Nam Định. Quê gốc làng An Đạo, Nam Định. Hiện đang ở Hà Nội. Trong chiến tranh ông làm phóng viên chiến trường. Ông đã đạo diễn trên 20 phim, trong đó có nhiều phim tài liệu. Những phim ông thực hiện: Phản Bội, về chiến tranh biên giới Việt-Trung năm 1979, giải vàng LHP Việt Nam 1980
Hà Nội Trong Mắt Ai, giải vàng LHP Việt Nam 1988
Chuyện Tử Tế (1985), nội dung về thân phận của những người nghèo khổ và những mâu thuẫn xã hội được đánh giá là tác phẩm đặc sắc nhất của ông.
Từ điển chính tả sai lỗi... chính tả
“song: song sóc. → không viết: xong”. (Gs Nguyễn Văn Khang)
Viết chuẩn là “xong xóc”.
(Hòang Tuấn Công)
Chữ nghĩa làng văn
Gặp gỡ người viết trẻ “ngụ cư” ở hải ngọai
Và văn học đó không chỉ có Mai Thảo. Bây giờ tôi cắm đầu đọc Thanh Tâm Tuyền. Tôi hiểu vì sao thanh niên thời đó, những bậc đàn anh của tôi chỉ nhớ Thanh Tâm Tuyền. Những lời Thanh Tâm Tuyền viết ra chỉ toàn gầm gừ đòi xóa bỏ mình, xóa bỏ chữ nghĩa, xóa bỏ suy tư, xóa bỏ tình cảm, những thói quen của cuộc đời, tự làm rỗng mình để sống, sống trọn vẹn từng phút giây, sống cuộc sống như phải là, sống: “nếu ưa cái đời sống của mình thì hãy sống với nó thực hơn. Viết là muốn cái khác, trong khi muốn cái khác mà cứ phải che đậy nói về cái mình đã bỏ đi là giả dối, là đạo đức giả. Anh có ưa cái đời sống loăng quăng này của anh không? Có. Anh còn muốn gì khác không? Không. Vậy đúng rồi, ôm lấy nó mà sống mà tận hưởng thú vị, việc gì phải viết, bỏ cái thú sống thực đổi lấy cái thứ sống giả..”
(Khuôn Mặt, Tập truyện ngắn, nxb Sáng Tạo 1964)
A ha, Thanh Tâm Tuyền, cái ngần ngừ, luôn ngần ngừ, cái dằn vặt, luôn dằn vặt, được viết ra một cách sắc xảo quyết liệt, cái sắc quyết ấy như tiếng sấm làm ù tai, như làn sét làm lóa mắt, tôi đọc, dù không hiểu vẫn cảm được cái bồng bột nhiệt huyết của tuổi trẻ như lửa bùng như nắm cát bỏng của sa mạc ném vào mặt mình.
Mang vết bỏng đó ở tuổi vào đời chắc tôi cũng sẽ như bậc đàn anh chỉ nhớ hoài một cái tên và cũng sẽ gọi hoài cái tên ấy cho đỡ nhớ!!! Tôi hiểu vì sao nơi rừng văn học ấy Thanh Tâm Tuyền được nhắc hoài và Nguyễn Đình Toàn được quên hoài dù người ta vẫn đọc, vẫn tìm mua sách vẫn mang lòng quí mến cho đến tận bây giờ. Bên cạnh lò lửa Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Đình Toàn như sương, phủ sương mờ lên cuộc sống. Nguyễn Đình Toàn mang hết chữ, tràng giang đại hải, viết xuống chỉ để không nói. Mang vết bỏng Thanh Tâm Tuyền thì dễ nhắc, nhưng mang cái sương mờ của Nguyễn Đình Toàn thì chỉ thấy ớn nặng tâm hồn chứ biết nhắc cái gì?
(Văn học miền Nam, điều sót lại – Lưu Na)
Góp nhặt cát đá
100 năm trước ta còn chưa gặp
100 năm sau biết gặp nhau không
Cuộc đời sắc sắc không không
Thôi thì hãy sống hết lòng với nhau
Một phần tuổi thơ...
Hồi đó ra giêng khoảng tháng Hai cả đám con nít thường ra đám ruộng dính liền con rạch nhỏ ở phía sau chùa Hưng Minh Tự để bắt cá lia thia.
Cá lia thia thường sống ở vùng đất có cây năng và nước thì không sâu lắm, chỉ qua khỏi mắt cá chân một chút. Đồ nghề là một hủ đựng chao bằng thuỷ tinh loại tròn dung tích khoảng từ 1 lít trở xuống và một cái rổ đan bằng tre, thời đó hình như chưa có hoặc hiếm có rổ bằng nhựa như bây giờ.
Muốn bắt cá lia thia thì đặt cái rổ xuống chỗ đất ruộng hơi thấp một chút xong cúi xuống dùng bàn chân dẫm lên cỏ năng cho cá trốn trong bụi năng chạy ra. Trời nắng chang chang dậm mấy tiếng đồng hồ, hôm nào hên lắm được vài con.
Nếu bắt được con nào mà màu xanh dương lặt lè nghĩa là xanh lè, xanh lét thì tụi tôi gọi là lia thia. Còn nếu con nào hai màu xanh đỏ lộn xộn thì gọi là bãi trầu. Bãi Trầu đá dở ưa bỏ chạy nên đám con nít tụi tôi không khoái lắm.
(Trần Ngọc Hiếu)
Xây chừng, tài chừng
* Xây chừng: nghĩa là ‘ly nhỏ’ theo âm tiếng Quảng Đông (tài chừng là ly lớn). Người bình dân hay gọi gọn ‘xây chừng’ là ly cà phê đen nhỏ, còn chính xác phải gọi là ‘dịt phé xây chừng’ (dịt phé là cà phê đen, nại phé là cà phê sữa, sủi phé là cà phê đá)
Chữ nghĩa làng văn
Nhớ về nhà văn Cao Xuân Huy - 1
Cho đến nay tác phẩm của các nhà văn Việt hiện sống ở Mỹ tôi đọc chưa được bao nhiêu. Gặp gỡ tác giả càng ít có dịp, lại hay những lúc đông đảo, chuyện phiếm là phần nhiều. Nhưng nếu đã thực trò chuyện được với nhau rồi thì khó quên. Như là với nhà văn Cao Xuân Huy, chỉ một lần và đã cả chục năm, mà nhớ mãi.
Năm ấy, còn đang cày ở tờ Văn Nghệ Trẻ, buổi chiều, trước cổng báo, tôi vẩn vơ đứng đó hút thuốc ngó trời thì một ông đi tới. Nhã nhặn ông hỏi tôi có phải Bảo Ninh không. Nghĩ đấy là một ông đến gửi truyện ngắn, tôi đáp vâng song lại xin lỗi rằng vì không phải biên tập viên nên không có quyền nhận bản thảo. Ông đó mỉm cười bảo là mình chẳng nhà văn nhà báo gì cả, rồi tự giới thiệu: " Tôi là Huy, ở Mỹ về thăm nhà, có lá thư với chút quà anh Khánh Trường gửi anh.
"Tôi sang tiệm cà phê ở vỉa hè bên kia ngồi đợi ông Huy ấy về qua nhà lấy thư. Nhà số 19 phố Trần Quốc Toản, ngay kề số 17 của báo Văn Nghệ.
(Bảo Ninh)
Từ điển chính tả sai lỗi… chính tả
“sở: xoay sở → không viết: xở”. (Gs Nguyễn Văn Khang)
Viết “xở” mới đúng. “Xoay” nghĩa là chạy vạy, tìm đủ mọi cách cho được, có được (như xoay tiền); “xở” là làm, sửa soạn, tháo, gỡ (như xở việc; vội không xở kịp).
“Xoay xở là làm hết cách này đến cách khác để giải quyết cho được khó khăn. Xoay xở đủ nghề. Hết đường xoay xở”.
(Hòang Tuấn Công)
Gặp gỡ “văn học” Sài Gòn giải phóng
Rời quầy tạp hóa tôi tìm tới một quán cà phê vườn. Uống cà phê để biết, cũng là để ra dáng ta đây dân Sài Gòn. Ở Hà Nội tôi chỉ quen chè chén, không dám uống cà phê vì nó rất đắt. Tôi ngồi vắt chân chữ ngũ nhâm nhi cốc cà phê đen đá pha sẵn, hút điếu thuốc Captain, tự thấy mình lên hẳn mấy chân kính.
Không may tôi vô ý quờ tay làm đổ vỡ ly cà phê. Biết mình sắp bị phở mắng cháo chửi và phải đền tiền ly cà phê, mặt cậu bé hai mươi tuổi đỏ lựng. Cô bé phục vụ chạy tới vội vã lau chùi, nhặt nhạnh mảnh vỡ thủy tinh với một thái độ như chính cô là người có lỗi. Cô thay cho tôi một ly cà phê mới nhẹ nhàng như một lẽ đương nhiên. Tôi thêm một lần sửng sốt.
Một giờ sau tôi quay về nhà ông bác, phát hiện sau nhà là một con hẻm đầy sách. Con hẻm ngắn, rộng rãi. Tôi không nhớ nó có tên đường hay không, chỉ nhớ rất nhiều cây cổ thụ tỏa bóng sum sê, hai vỉa hè đầy sách. Suốt buổi sáng hôm đó tôi tha thẩn ở đây.
Quá nhiều sách hay, tôi không biết nên bỏ cuốn gì mua cuốn gì. Muốn mua hết phải chất đầy vài xe tải.
Giữa hai vỉa hè mênh mông sách đó, có cả những cuốn sách Mác – Lê. Cuốn Tư Bản Luận của Châu Tâm Luân và Hành Trình Trí Thức của Karl Marx của Nguyễn Văn Trung cùng nhiều sách khác. Thoạt đầu tôi tưởng sách từ Hà Nôi chuyển vào, sau mới biết sách của Sài Gòn xuất bản từ những năm sáu mươi. Tôi hỏi ông chủ bán sách, ở đây người ta cũng cho in sách Mác - Lê à?
Ông chủ quán vui vẻ nói, dạ chú.
Tôi ngẩn ngơ cười không biết nói gì hơn.
Chuyện với người là không đáng kể, với tôi lúc đó thật khác thường, nếu không muốn nói thật lớn lao. Tôi không cắt nghĩa được đó là gì trong buổi sáng hôm ấy. Tôi còn ở lại Sài Gòn thêm 30 buổi sáng nữa, vẫn không cắt nghĩa được đó là gì.
Nhưng khi quay ra Hà Nội tôi bỗng sống khác đi, nghĩ khác đi, đọc khác đi, nói khác đi. Bạn bè tôi ngày đó gọi tôi là thằng…hâm.
Tôi thì rất vui vì biết mình đã được giải phóng.
(Sài Gòn gải phóng tôi – Nguyễn Quang Lập)
Từ điển chính tả sai lỗi… chính tả
“sởi: sởi lởi. → không viết: xởi”. (Gs Nguyễn Văn Khang)
Viết “xởi” mới đúng. Nếu “xởi lởi” là từ láy, thì “xởi” là tiếng gốc. Tuy nhiên, “xởi lởi” là từ ghép: “xởi” = rời ra, tơi ra; “lởi” là biến âm của “lơi” = lỏng, không chặt. Khi hợp nghĩa, “xởi lởi” được hiểu là cởi mở, rộng rãi (tính xởi lởi), đối với hẹp hòi, chặt chẽ.
(Hòang Tuấn Công)
Trần Vàng Sao: nhà thơ mê vẽ
Sau, nhờ bạn bè, mình thỉnh thoảng đăng thơ trên tạp chí Sông Hương, nhưng mấy lần mắc nạn.
(tên thật Nguyễn Đính
Trần Vàng Sao tự họa)
Tháng 7-1988, Sông Hương 32, số kỷ niệm 5 năm tạp chí ra đời, đăng bức tranh mình tự hoạ.
(Phanxipăng)
Tình dục trong làng văn xóm chữ
Vì sao Hà Hương Phong Nguyệt lại bị công kích?
Nói về cuộc bút chiến này, Lê Hoằng Mưu cho rằng: "Viết ra từ mười năm không ai nói chi. Sau này trong phe viết báo lắm kẻ người ưa đọc sanh lòng ganh gổ, kích bác; mà không nói hay dở gì, chỉ thích điều lả lơi phong nguyệt. Tôi mĩm cười! Cười mấy ông này mắt mang kiếng đen, chưa hề có xem phong nguyệt của người các nước, còn lả lơi quá mười của tôi. Tôi thầm nghĩ nếu phong hóa vì tiểu thuyết tình tự lả lơi mà ra thì phong hóa các nước suy đồi biết mấy. Thoảng lại phong hóa nhà Nam suy đồi từ chưa có bộ Hà Hương Phong Nguyệt”[9].
Sâu xa hơn, theo Trần Văn Toàn, việc “đưa một nhân vật phản diện làm nhân vật chính, tô đậm những sắc thái của một thứ tình yêu quay lưng với đạo lý, chạy theo những hấp dẫn của xác thịt thuần túy - đây mới là nguyên nhân chính khiến cho Hà Hương Phong Nguyệt bị dư luận lên án mạnh mẽ chứ không vì những đoạn miêu tả sắc dục trong tác phẩm này”. Bản thân Lê Hoằng Mưu dù bị nhiều người trong văn giới đả kích dữ dội nhưng lại được độc giả rất hâm mộ. Lãng Tử cho biết là sách của ông “bán chạy như tôm tươi giữa chợ buổi sớm”. Tác phẩm của ông bị lên án vì đã chuyển tải một quan niệm không truyền thống về tình yêu, luân lý.. Tiểu thuyết này lại còn quá mới mẻ của văn minh phương Tây vẫn chưa thật sự lấn át được những quan niệm khắt khe của Nho giáo về tình yêu nam nữ. Tình yêu mang tính nhục thể và dục vọng thầm kín của con người vẫn là những điều khá xa lạ đối với những quan niệm truyền thống đương thời mặc dù ngòi bút của nhà văn đã khá uyển chuyển và giàu tính nhân văn.
Hà Hương Phong Nguyệt bị tịch thu, sau đó đã tạo nên một khuynh hướng tiểu thuyết tính dục và một phong trào viết tiểu thuyết tình ở miền Nam Kỳ với hàng loạt tác phẩm như Lỗi Bước Phong Tình của Nguyễn Thành Long, Cô Ba Tràh của Nguyễn Ý Bửu... Thậm chí có tác phẩm lấy nhân vật chính là Hà Hương và nhan đề tác phẩm cũng nhái lại Hà Hương phong nguyệt (tiểu thuyết Hà Hương Hoa Nguyệt của Nam Tùng Tử). Bản thân Lê Hoằng Mưu sau đó vẫn tiếp tục diễn ngôn tính dục của mình với hàng loạt tác phẩm như Hồ Thể Ngọc, Đỗ Triệu Kỳ Duyên, Người Bán Ngọc và tiếp tục nhận được không ít lời chỉ trích.
(Chuyên san Tạp chí Nghiên Cứu Văn Học – Võ Văn Nhơn)
Những ngôi chùa Bắc
Chùa Phật Tích
Ngôi chùa nầy nguyên trước có tên là Thiên Phúc Tự. Chùa nằm trong địa phận của xã Phật Tích, huyện Tiên Du, trên sườn núi Lạn Kha, tỉnh Bắc Ninh.
Chùa Phật Tích được xây dựng từ đời vua Lý Thánh Tông vào năm Long Thụy Thái Bình năm thứ tư (tức là năm 1057), có tháp cao, tượng Phật lớn và quần thể của chùa có đến 100 toà nhà. Mọi phí tổn đều do nhà vua cung cấp.Theo tài liệu của Trần Trọng Kim thì vua Lý Thánh Tông thường đến lễ Phật và cho kiến thiết, trang trí thêm cho ngôi chùa nhiều lần sau đó.
Tên chùa Phật Tích chỉ là dùng danh xưng của làng cho dễ nhớ. Một thư viện tàng trữ nhiều kinh sách mang tên là Lạn Kha cũng được nhà vua thiết lập tại đó. Thậm chí vua cũng đã cho mở khoa thi Thái Học Sinh tại ngôi chùa nầy vào năm 1384.
Năm 1940, những nhà khảo cổ thuộc trường Viễn Đông Bác Cổ và hội Nghiên Cứu Đông Dương đã đến nghiên cứu ngôi chùa nầy và đã tìm thấy những viên gạch lớn, trên đó một số có ghi rõ niên hiệu Long Thụy Thái Bình năm thứ tư (1057); còn số khác thì lại ghi niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh (1065).
Những chứng tích trên đây cũng giúp chúng ta hiểu được thêm về thời kỳ kiến trúc đầu tiên của ngôi chùa nầy và sự kiên cố của những vật liệu dùng trong công cuộc xây cất nầy. Ngoài ra, giáo sư Bezacier, viện trưởng của trường nầy cũng đã tìm thấy được một số di tích quan trọng khác: tượng sư tử, tê giác, voi, trâu, ngựa.... Ngoài ra cũng tìm thấy được những tượng hình của những vũ nữ và nhạc công chạm trổ cực kỳ tinh xảo. Những vết tích khác thì nay đã không còn thấy nữa.
Từ những đá đất vụn bổng hiện ra một pho tượng Phật quý, cho nên được mang tên là Phật Tích (di tích của Phật).
(Kiêm Thêm)
Để nhớ lại một thời
Xe thổ mộ tại Sài Gòn xưa
Ở Sài Gòn - Gia Định có nhiều bến xe ngựa chạy nhiều ngả đường, bến xe ngựa trước chợ Bến Thành rất đông xe và nhộn nhịp, xe vào bến phải xếp tài khi nào đủ khách (khoảng 6-7 người) là xe lên đường theo từ đường về Đất Hộ miệt Đa Kao hay vào Chợ Lớn hoặc xuống Tân Thuận.
Dân biết ăn, biết xài khi lên Chợ Đồn, Biên Hòa ăn cháo cá, khi xuống Chợ Đệm ăn thịt luộc, cháo lòng nên mới có câu: "Cháo cá Chợ Đồn, cháo lòng Chợ Đệm". Lên Chợ Đồn hay xuống Chợ Đệm nào phải ai cũng có xe hơi, xe máy dầu nên thường bạn hữu năm, sáu người rủ nhau thuê bao một chiếc xe thổ mộ.
Mười mấy cây số đường trường, đổ xuống chợ, vào một quán, đầu tiên kêu món luộc, lai rai ít chung đế Gò Đen, hay đế Đức Hòa, tiếp sau đó mới kêu cháo lòng. Một bữa ăn ngon, xe thổ mộ hai lượt rong ruổi đi về. Tháng chạp, tháng giêng, từ Sài Gòn - Gia Định ngồi xe thổ mộ xuống Chợ Đệm uống chơi chơi vài chung rượu, ăn chơi mấy miếng thịt luộc với tô cháo lòng.
Văn hóa… cây cỏ
Cây hoa sữa
Tôi đã cố tình quên. Nhiều lần tự an ủi: có gì đâu mà đa sầu. Chỉ là cây cỏ. Sự biến mất của nghe đâu là 162 cây hoa sữa, ở ba đường phố của một thị xã miền Trung.
Những thân cây hoa sữa ở thị xã Hội An ấy bị đốn hạ chỉ bởi vì mùi thơm quá gắt gao. Hương thơm đến mức khiến người ta mất ngủ. Hoa sữa đến thị xã này vào một ngày đẹp trời nào đó. Ngày mà người ta hân hoan mời gọi chúng, do ngưỡng mộ mùi hương hoa sữa nồng nàn nổi tiếng của những đường phố Hà Nội đã đi vào thi ca. Đến một ngày, người ta quyết định triệt hạ chúng - một trăm sáu mươi hai cây hoa sữa đang độ thanh xuân và nở tung ra những làn hương thơm đầu đời. Chẳng biết hồn hoa có tức tưởi không? Mà tại sao, cứ buộc tôi phải viết về chúng. Khi nghe tin 162 cây hoa sữa bị đốn hạ, tim lẩn thẩn bỗng nhói lên một chút. Rồi quên, rồi nhớ, rồi cố tình quên. Cho đến hôm nay, không thể không viết nên những dòng này. Cũng như là một cách trả nợ những bông hoa đã hết mình dâng tặng mùi thơm, thơm hết đời mình rồi rũ áo ra đi, mặc đời thị phi, không buồn suy tính đến cái cách đón nhận hậu hĩ hay đen bạc của người đời.
Khoa trương trong ca dao của người Việt
Người Việt rất thích nói khoa trương qua kho tàng ca dao tiếng Việt. Khoa trương trong ca dao hết sức đa dạng và phong phú; căn cứ vào các tiêu chí về nghĩa, hình thức, thời gian… có thể chia thành các loại như sau:
Khoa trương phóng to, làm cho sự vật to ra, đem đặc trưng, số lượng, trạng thái, tính chất, đặc trưng của sự vật làm cho nhiều lên, nhanh hơn, cao lên, dài ra, mạnh hơn.
Ví dụ:
Cái trứng rận to bằng quả nhãn lồng
Miệng cười tủm tỉm bằng sông Ngân hà
Con rận bằng con ba ba
Đêm nằm nó ngáy cả nhà thất kinh
Hay
Trên đầu chấy rụng như sung
Rốn lồi quả quýt, má hồng trôn niêu
Hoặc
Giã gạo vú chấm đầu chầy
Xay thóc cả ngày được một đấu ba
“Ba Tàu” huyễn sử
Lại có người giải thích như vầy:
“Chữ “ba” ý rằng nhiều không đếm được hoặc không muốn đếm, ví dụ như ta hay nói: Nấu ba hột gạo (ba không có nghĩa là chỉ nấu đúng ba hột, ai ăn ai nhịn). Thằng ấy ba hoa, nhiều chuyện. Nhậu ba sợi, nhậu lai rai. Thằng này ba trợn …
Ba Tàu có thể dùng để chỉ người Tàu khi ấy đi rất nhiều tàu qua mà không đếm được hoặc không muốn đếm. Tuy nhiên khi dùng từ ba, có hàm ý coi thường, không quan tâm. Do đó dùng từ Ba Tàu để chỉ người Hoa còn có hàm ý coi thường.”
Lời giải thích thật là… ba trợn.!
Một Hoa kiều ở nước ngoài đã cảm thấy bứt xúc: “Không biết xuất phát từ đâu và từ bao giờ, người Việt gọi chúng ta là “Ba Tàu”, là “thằng chệt” với hàm ý phân biệt đối xử và miệt thị. Có lẽ họ còn hận cha ông chúng ta ngày xưa đã đặt ách thống trị cả ngàn năm lên đất nước này. Và cũng có thể họ ghen tức với sự thành công của chúng ta tại miền Nam trước đây.”
Và có vị giáo sư trả lời câu hỏi của người hoa kiều “hơi bị khích động” ấy. Nói người Hoa kiều kia bị khích động, vì anh ta nói người Việt gọi người Hoa là “thằng Chệt.”. Trong tiếng Việt không có từ “thằng Chệt”. Không bao giờ có một từ như vậy. Nhưng có từ “chú Chệt”. Các nhà nghiên cứu đã cho biết “Chệc” chỉ là một âm Triều Châu của từ “Thúc” có nghĩa là chú thôi mà. Gọi chú Chệc là gọi “chú Chú”, chỉ sai ở chỗ lập lại từ “chú” thôi.
(Thiếu Khanh)
Thành ngữ tục ngữ… sai
Nhìn chung, những điệp từ, điệp ngữ, từ láy được GS Nguyễn Lân “đôn” lên làm thành ngữ, tục ngữ rất nhiều.
Chí cha chí chát
Nói tiếng giày giép đi lại nhộn nhịp.
“Chí cha, chí chát” không thể là âm thanh của dày dép, càng không thể diễn tả cảnh “đi lại nhộn nhịp”. Đây là âm thanh của những vật cứng va đập vào nhau, ví như tiếng chặt, tiếng băm vang vọng từ xa tới, nghe lúc xa lúc gần.
Nếu “Chí cha chí chát” được xem là “thành ngữ” thì: lanh ca lanh canh; rục rà rục rịch,v.v…cũng được xem là thành ngữ ư?
(Hoàng Tuấn Công)
Tản mạn về mắm Gò Công - 1
Nhẽ này người tầm khảo không chắc ăn lắm: Người xứ Bắc kỳ gọi con cáy là con còng. Người nước Nam kỳ kêu con còng, con cáy là… con ba khía? Con ba khía làm mắm, nên có mắm… ba khía.
Ha! Bất sỉ hạ vấn, Nôm là không mất sỉ diện gì mà không hỏi. Bèn hỏi người Nguyễn thị Cỏ May dân Gò Công. Bạn ta bất ngôn nhi dụ, tức không nói ra cũng hiểu được mà rằng: Còng là loài giáp xác, nhỏ gần bằng con ba khía, sống ở bãi bồi, nước lợ, nước mặn. Ba khía bò ra khỏi hang, bò lên cây đước, cây mắm đẻ trứng để người Nam bộ làm… mắm. Bạn già Gò Công kỳ cổ thêm mắm ba khía được vua biết mặt, chúa biết tên hơn mắm tôm chua của bà Từ Dũ nhiều (bà là vợ vua Thiệu Trị, mẹ vua Tự Đức).
Bạn ta lây dây mắm ba khía còn có… ”ba khía muối”, vì chế biến với muối, đường, phèn, rượu trắng. Phơi nắng mươi ngày là ăn được. Nghe ngon ăn quá mạng. Bạn ta om thòm: mắm còng y xì như mắm ruốc Vũng Tàu (ruốc là loại tép nhỏ) nhưng nhuyễn hơn. Mắm còng nhậu với trái bần xanh, hoặc cà dĩa (cà bát) thì hết xẩy, ăn quên chết.
(xem tiếp kỳ tới : Tản mạn về mắm Gò Công - 2)
Tết Mậu Thân bốn mươi năm sau (1968-2008)
Phụ bản
Sự thật về Thảm sát Mậu Thân ở Huế phải được đưa vào lịch sử thế giới; hiện nay các tổ chức đòi công lý cho nạn nhân chiến tranh, người ta liệt kê tội ác ở năm châu, từ Rwanda ở châu Phi, Colombia ở Nam Mỹ, vùng Balkans ở châu Âu, ở Nga.
Nhưng ở Á châu, không ai kể, không biết đến Thảm sát Mậu Thân là một tội ác chiến tranh cần phải đưa ra ánh sáng công lý.
Công lý cho nạn nhân của vụ thảm sát ở Huế không có nghĩa là “xử lý nội bộ”, không thể chỉ là “Tướng Trần Văn Quang, Tư lệnh Mặt trận Trị Thiên – Huế bị phê bình” (50) hay đảng khiển trách các ông Lê Minh, Lê Chưởng các sĩ quan trực tiếp chỉ huy và lãnh đạo mặt trận Huế là đủ.
Ai trực tiếp ngồi xử tử đồng bào ở các toà án “nhân dân”, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Đọc? Ai bắn, ai đạp, ai đập, ai giết đồng bào Huế – Việt cộng nằm vùng hay Việt cộng chính quy? Tất cả chỉ là chi tiết.
Tranh cãi những điểm này chỉ là nguỵ biện, bao che cho tội ác.
(50) Mậu Thân 68:, BBC Tiếng Việt, 24/01/2008. Online: http://snipurl.com/20tj7 [www_bbc_co_uk].
Lucky Luke rong ruổi miền Viễn Tây
Lucky Luke là chàng cao bồi, nhân vật chính trong bộ truyện tranh cùng tên do họa sĩ người Bỉ Morris sáng tác từ năm 1946. Những truyện Lucky Luke đầu tiên được in trên báo Spirou, tiếp đó là Pilote, trước khi được phát hành dưới dạng tập truyện tranh. Lucky Luke thành công rực rỡ trong khoảng 1957 đến 1977 với sự tham gia viết kịch bản của René Goscinny. Ở Việt Nam, Lucky Luke được dịch và phát hành bởi Nhà xuất bản Trẻ.
Với cái tài "bắn nhanh hơn cái bóng của mình", Lucky Luke rong ruổi khắp miền Tây để bảo vệ cho công lý và lẽ phải. Đồng hành với anh luôn là Jolly Jumper, được mệnh danh là chú ngựa chạy nhanh nhất miền Viễn Tây. Cặp bài trùng Lucky Luke cùng Jolly Jumper đã gây không ít tràng cười cho độc giả với tính cách dí dỏm của mình.
(Sean Bảo)
Tác giả: Sean Bảo thổ quán ở Huế, hiện đang ở Austin, Texas
Tác phẩm: Di dân về miền Viễn Tây - Tìm thấy vàng ở California
Lênh đênh
Câu thơ của Nguyên Sa là: “…mắt vẫn lánh đen..”
Nhưng ít nhất có hai ca sĩ hát thành “…mắt vẫn lênh đênh..”
Mắt lánh đen, đen lánh không thể có đôi mắt nào…“lênh đênh” được.
(Chữ nghĩa chúng ta – Bùi Bảo Trúc)
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Một con ngựa đau cả tàu đi về
60 năm nhìn lại cuộc di cư 1954 - Vĩnh biệt Hải Phòng
Trái, cac thủy thủ trên chiếc tầu Hoa Kỳ USS Bayfield cầm biểu ngữ chào mừng đoàn người di cư. Giữa, hàng ngàn người được tầu đổ bộ của Pháp đón vớt từ các nơi dọc theo bờ biển Băc Việt Nam đang chờ lên tầu Mỹ USS Montague để di cư vào Nam. Phải, xuống bến Saigon để bắt đầu một cuộc đời mới và tự do. (Ảnh U.S. Navy) Theo Ronald B. Frankum, Jr., tác giả “Operation Passage to Freedom – The United States Navy in Vietnam, 1954-1955” (Texas Tech University Press, Lubbock, Texas, 2007), cuộc di cư vĩ đại này co sự tham dự của 115 chiến hạm và các loại tầu lớn, nhỏ khác của Mỹ, và đã chuyên chở trên 310,000 người trong số 800,786 tổng số người di cư cho tới thang 5 năm 1955, kể cả dan lẫn quan sự, từ Bắc vao Nam. Số con lại do cac cơ quan của chinh phủ Việt, Phap va Anh đảm trach, bằng phương tiện vừa tầu thủy vừa máy bay. Ngoài ra, có khoảng trên 40,000 người tự túc bằng các phương tiện riêng. Số người bị Việt Minh ngăn cản bằng mọi cách, kể cả đe dọa, không cho tới được Hải Phòng để đáp tầu vào Nam ước tinh lên tới nhiều chục ngàn người.
Vào những ngày trước khi kết thúc cuộc chiến mà sách vở gọi là Cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946-1954) và nhiều người trong chúng ta cho là không cần thiết vì sau Đệ nhị Thế chiến đa số các nước thuộc địa đều lần lượt trước sau lấy lại được độc lập mà không cần đổ máu, tin dữ từ nhà quê ra: Bà Nội tôi bị chết vì trúng một mảnh mọt chê vào đầu trong khi đang trốn dưới một cái phản gỗ vào một đêm nọ. Bà tôi chết khi được 84 tuổi, tuy già nua nhưng cụ còn khá minh mẫn. Mỗi lần nhớ đến Bà Nội thì tôi không thể không nhớ tới một lần về quê ăn Tết, tôi ở miết bên nhà ông cậu ruột vì ở đó có các người em họ cỡ tuổi tôi hay lớn hơn. Đến giờ đi ngủ, bà tôi lụm cụm tay xách cây đèn dầu tay chống gậy sang đón về nhưng tôi không chịu về. Tôi sợ những nét già nua nhăn nheo của bà môt phần, nhưng sợ nhất là cái quan tài bằng gỗ sơn đỏ bà sắm sẵn để trong cái gian đầu nhà chuyên để chứa thóc gạo và các đồ lỉnh kỉnh khác.
(Trùng Dương)
Nhà thơ Trần Đăng Khoa lên tiếng về bài của Nguyễn Vỹ
Người khảo sát văn bản này, một nhà thơ trẻ biết tiếng Pháp không dám tin ở khả năng ngoại ngữ của mình, đã tìm đến nhà thơ Tế Hanh nhờ thẩm định lại. Tế Hanh là một thi sĩ tài đức, người rất giỏi tiếng Pháp, ông đã dịch nhiều thơ thế giới qua tiếng Pháp, cũng là người cùng thời với Lưu Trọng Lư. Tế Hanh đã kinh ngạc kêu lên: “Ô lạ nhỉ. Bài thơ này chẳng có gì liên quan đến Tiếng Thu. Sao lại đổ vấy cho anh Lư đạo thơ?”.
Sở dĩ có nghi án ấy, là vì Nguyễn Vỹ. Sau khi phê phán Lưu Trọng Lư lấy thơ Nhật Bản, Nguyễn Vỹ đã đưa ra bằng cớ là bản dịch của mình, nhưng thực ra, Nguyễn Vỹ đâu có dịch, ông lấy luôn bài thơ Lưu Trọng Lư tráo vào rồi kêu ầm lên là bắt được kẻ gian. Những người nhẹ dạ, u mê tin theo thì chúng ta chả trách làm gì, nhưng những nhà thơ nổi tiếng từng giỏi tiếng Pháp, những nhà phê bình nghiên cứu có tiếng là uyên thâm, cũng tin theo, rồi lẵng nhẵng nói theo, mà cứ nói đi nói lại mãi. Đấy mới thực sự là chuyện lạ ở thời đại trí tuệ bùng nổ thông tin này…
[Hết trích]
[Trần Đăng Khoa -VH&TT, số tháng 7+8+9 (241+242+243), 2011]
***
Phụ đính I
40 Năm hải ngoại - Một nén hương - Cho những nhà văn
nhà thơ đã khuất núi
Thời gian 40 năm là một khoảnh khắc lịch sử, tuy vậy cũng đủ để cho con người hoàn tất một sự nghiệp hay từ giã cõi đời.
Trong suốt 40 năm qua, kể từ khi miền Nam sụp đổ trước sự xâm lấn của CS miền Bắc, nhiều văn nghệ sĩ vốn đã tạo dựng nên một nền văn học rực rỡ của miền Nam cũng đã vượt thoát ra đi để mưu tìm một cuộc đời tự do đáng sống. Trên phần đất tự do thuộc nhiều quốc gia trên thế giới, bên cạnh những nỗ lực để hội nhập vào xã hội mới, các nhà văn, nhà thơ gốc Việt vẫn tiếp tục miệt mài sáng tạo, duy trì và phát triển văn học miền Nam trên đất tạm dung để có thể coi là đã có một nền văn chương VN hải ngoại. Và cũng ròng rã trong suốt 40 năm tận tụy với ngòi bút ấy, nhiều người đã lặng lẽ ra đi, bỏ lại phía sau những công trình có thể chưa hoàn tất nhưng cũng đã gieo nhiều nỗi ngậm ngùi, xót xa trong lòng của nhiều người ở lại
Nay nhân dịp kỷ niệm 40 năm hội nhập, mặc dù không thể thu góp đầy đủ tất cả những nhà văn, nhà thơ đã khuất bóng, phần liệt kê dưới đây xin coi như một nén nhang cho tất cả những nhà văn, nhà thơ đã mất ở hải ngoại mà trong suốt 40 năm qua đã góp phần cung ứng cho đời những tác phẩm quý giá để các thế hệ sau khi nhìn lại không thể không biết tới.
Danh sách xếp theo thứ tự thời gian (tới tháng 6/2017) mà các vị đã khuất núi. Nhật Tiến biên soạn - Tổng hợp từ nhiều nguồn.
40 Năm hải ngoại - Một nén hương - Cho những nhà văn
nhà thơ đã khuất núi
Nguyễn Hữu Nhật
(1942-2014)
Nhà văn, nhà thơ, họa sĩ Nguyễn Hữu Nhật sinh ngày 22-6-1942 tại La Khê, Hà Ðông, sống tại Hà Nội. Cùng gia đình di cư vào Nam năm 1955. Từ năm 1967 đến năm 1975 ông phục vụ trong quân đội VNCH.
Sau 1975 ông kết hôn với nhà văn Nguyễn Thị Vinh. Ông bị đi tù cải tạo hai lần: lần thứ nhất từ năm 1975 đến năm 1982, lần thứ hai từ năm 1984 đến 1988. Năm 1989 ông được định cư tị nạn tại Na Uy, sống cùng gia đình tại Oslo. Tại đây ông điều hành tủ sách văn nghệ Sài Gòn Nghĩa Thư và tạp chí Hương Xa cho đến khi qua đời ngày 11 tháng 12 năm 2014.
Tác phẩm đã xuất bản:
Quán đời (tiểu thuyết, 1971)
Chí tôn ca (thơ, 1995)
Cuộc chiến (thơ, 1998)
Hoa đào năm ngoái (tiểu thuyết lịch sử, 2009)
***
Phụ đính II
Chữ nghĩa làng văn
Nói lái trong cấu đối
Bút hiệu Thế Lữ (trong Tự Lực Văn Đoàn) chính là chữ nói lái của tên thật của ông: Nguyễn Thứ Lễ. Ngày trước đã có vế đối:
Ngày Tết, Thế Lữ đi hai thứ lễ: lễ ta, lễ tây
(Hòa Đa – Nói lái)
Tú Xương chơi chữ
Trong bài thơ Ông Cò, cụ Tú Xương có cặp đối như sau :
Hai mái trống tung đành chịu dột
Tám giờ chuông đánh phải nằm co
Hai chữ trống tung là mái nhà trống huơ trống hoác, cụ đã lấy nghĩa trống là cái trống để rồi đối trống tung với chuông đánh.
Đó là một cách cụ Tú "chơi chữ".
(Chân Diện Mục)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét