TỪ
CÁI CHẾT CỦA TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM ĐẾN
SỰ CÁO CHUNG CỦA VIỆT-NAM CỘNG-HÒA, NGHĨ VỀ BÀI HỌC CHỦ QUYỀN CỦA ĐẤT NƯỚC.
Trong lịch sử hiện đại Việt Nam, có hai
ngày được gọi là Quốc Hận, đó là ngày
21 tháng 7 năm 1954 do Việt Minh Cộng Sản cấu kết với thực dân Pháp chia đôi đất
nước tại vĩ tuyến 17 (Bến Hải, Quảng Trị) khiến cho một triệu người phải bỏ nhà
cửa, ruộng vườn, mồ mả, thân thích đề vào miền Tự Do, qua đó hình thành hai thực
thể chính trị đối kháng nhau: Miền Bắc gọi
là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Miền Nam gọi là Việt Nam Cộng Hòa. Và ngày
30-4-1975 được gọi là ngày Quốc Hận
vì Hoa Kỳ đã cam tâm bỏ rơi người bạn đồng minh của họ, ném Việt Nam Cộng Hòa vào
miệng chó sói Bắc Việt qua sự đạo diễn của Nixon và Kissinger khiến cả một Miền
Nam điên đảo, điêu linh với hơn một triệu dân, quân, cán, chính VNCH vào tù CS,
ba triệu người vượt biên, 500.000 người vùi xác dưới lòng biển cả hay trong rừng
sâu núi thẳm và hệ quả khốc hại vẫn còn cho đến hôm nay. Tất cả đều có liên hệ ít
nhiều đến một cái chết. Cái chết của Cố TT Ngô Đình Diệm qua vụ đảo chính quân
sự ngày 1-11-1963 cũng do Mỹ đạo diễn với bàn tay Henry Cabot Lodge nằm trong tương
quan mật thiết đến sự cáo chung của Việt Nam Cộng Hòa ngày 30-4-1975 qua mưu đồ
độc hiểm của Henry Kissinger. Cái chết của Cố TT Ngô Đình Diệm liên hệ đến vấn
đề chủ quyền của Việt Nam. Bài học chủ quyền của đất nước là bài học muôn thuở
và cũng là lý tưởng đấu tranh của Cố TT Ngô Đình Diệm lãnh hội được từ huyết thống
cha ông của dòng tộc và qua huấn giáo của những vị thầy trong lịch sử mà cố Tổng
Thống của nền Đệ Nhất Cộng Hòa từng được thừa hưởng. Một con người sống và chết
vì lý tưởng (chủ quyền của đất nước) nghĩ rằng là đơn giản nhưng thật sự không đơn
giản tí nào mà phải được trải nghiệm qua biết bao cuộc huấn luyện từ trong gia đình
đến ngoài xã hội, trên chính trường cũng như trong va chạm với thực tế mà sự giáo
dục của môi trường tôn giáo và văn hóa xã hội ảnh hưởng vào không ít. Cái chết
của Việt Nam Cộng Hòa ngày 30-4-1975 tức tưởi, ngập tràn oan khiên nhưng cũng lại
là một tất yếu của lịch sử bởi vì những người lãnh đạo của nền Đệ Nhị Cộng Hòa
không học được và cũng không biết được giá trị của bài học chủ quyền đất nước
qua bản thân và qua kinh nghiệm của lịch sử.
1.- Một số định nghĩa hai chữ “chủ quyền quốc gia” theo tư liệu
và sách vở.
Theo từ nguyên học (etymology) chữ Hán,
chữ chủ
主 gồm chữ vương 王 là vua, và một dấu chấm丶 ở
trên thường gọi là bộ chủ mà Thiều Chửu gọi là: “Phàm vật gì cần có phân biệt, sự cần biết nên chăng, lòng đã có định,
thì đánh dấu chữ chủ để nhớ lấy… Chủ
là một tiếng phân biệt mình với người trong khi giao tế, phàm sự gì mình khởi
lên thì mình là chủ nhân” (Thiều
Chửu, Hán Việt Tự-Điển, nhà xuất bản Đại
Nam, tái bản lần thứ hai, trang 6).
Theo
Linh mục Tiến sĩ Léon Wieger, chữ chủ 主 viết theo lối tượng hình gồm phần dưới tượng trưng chữ đăng 燈 cái đèn,
và dấu chấm 丶 tượng hỏa 火. Bây giờ có người viết bên trái bộ hỏa, bên
phải chữ chủ để chỉ cây đèn, chữ chủ
có nghĩa prince (đấng quân vương), master (ông chủ); bởi vì nói như các viên
thông ngôn, 首 出 庶 物 , 萬 民 所 望 之 意 (thủ xuất thứ vật, vạn dân sở vọng chi ý) đấng quân vương nổi lên trên
đám quần chúng và được mọi người trông thấy, cũng như ngọn lửa nổi lên và chiếu
sáng trên cây đèn. “The inferior part represents a lamp, the flame of which 王 像 燈, 丶像 火(
Dr. L. Wieger, S.J. Chine Characters,
Their Origin, Etymology, History, Classification and Signification. A Thorough
Study From Chinese Documents, bản in năm 1965, trang 30; bản in lần đầu năm 1915).
Chữ
王 vương, qua LM. Léon
Wieger (S.J) cho biết theo người xưa, gồm một nét sổ từ trên xuống dưới (tượng
trưng cho một người là vua) nối ba nét nằm ngang tượng trưng cho thiên, địa và
nhân “According to the ancients the 王 king is! the one, the man who connects
together 三 heaven, earth and humanity”, See L. 83 C. – Phonetic series 87. ( Dr. L. Wieger, S.J. Chine Characters, Their Origin, Etymology, History, Classification and
Signification. A Thorough Study From Chinese Documents, 1965, trang 29; Paragon Book Reprint Corp., New York,
Dover Publications, Inc., New York). Chữ vương còn có thể đọc một âm khác là vượng mà theo Thiều Chửu có nghĩa “cai
trị cả thiên hạ như dĩ đức hành nhân giả
vượng 以 德 行 仁 者 王 (lấy đức làm nhân ấy được
đến ngôi trị cả thiên hạ, Thiều Chửu, Sđd, trang 391).
Chữ
quyền 權 có tám nghĩa: 1. Quả cân, 2. Cân lường,
3. Quyền biến, (trái đạo thường mà phải lẽ gọi là quyền, đối lại với chữ kinh,
4. Quyền bính, (quyền hạn, quyền thế), 5. Quyền nghi, sự gì hãy tạm làm thế
gọi là quyền thả như thử 權 且 如 此, tạm
thay việc của chức quan nào cũng gọi là quyền, 6. Xương gò má (Thiều Chửu, Sđd,
trang 317). 7. Họ Quyền. 8. Lực lượng
và lợi ích. Ở đây nên dùng nghĩa số 4.
Tuy
vậy, nhìn vào tự dạng, theo thiển ý của tác giả bài viết này có thể thấy chữ
quyền 權 được viết theo lối hội ý: chữ mộc 木 là
cây, chỉ cán cân (hệ thống đo lường Trung Hoa và VN dùng cái cân có cán gỗ, bộ
thảo đầu ở trên, dưới có hai chữ khẩu 口, chỉ người mua và người bán. bộ phận chữ
chuy 隹 ở dưới chỉ hai bàn cân. Quyền
là sự thỏa thuận giữa hai người, là sự công bình của cán cân, và sự đồng thuận
mới tạo nên vui vẻ, hòa bình, trong thương thảo.
Khi
nói tới vấn đề chủ quyền, thông thường người ta hay liên tưởng đến chính trị, mà
như Aristote có nói: “Con người là một
con vật biết làm chính trị” (Man is a political animal). Với Tôn Dật Tiên, ông
cho rằng: “chánh là việc của chúng
nhơn, tức là việc của mọi người, trị là quản lý, và chánh trị là quản lý của tất cả mọi người." (Hùng
Nguyên, Chủ nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn, chủ
nghĩa quốc gia khoa học, quyển 2, 1964, trang 9).
Chủ
quyền của một cá nhân trên một vật sở hữu, trên bản thân mình hay có liên hệ tới
gia đình, vợ con, thân bằng đã là một điều cao quý mà chủ quyền của một quốc
gia lại càng quý trọng gấp bội.
Tự
điển Larousse của Pháp có định nghĩa
về chữ souveraineté nationale (chủ quyền
quốc gia) như sau: “Souveraineté
nationale, principe du droit public
francais selon lequel la souveraineté, jadis exercée par le roi, l’est
aujourd’hui par l’ensemble des citoyens.” (Tạm dịch: Chủ quyền quốc gia, nguyên tắc công pháp Pháp quốc theo đó chủ quyền,
ngày xưa do vua điều hành, ngày nay nó là quyền của tập thể những công dân.”
(Petit Larousse illustré, 1987, trang 950).
Tác
giả Jay M. Shafritz trong Dictionary of
American Government and Politics có đề cập đến chủ quyền (sovereignty) rằng
“The quality of being supreme in power,
rank, or authority. In the United States, the people are sovereign and
government is considered their agent. The sovereignty of the sovereign states
of the United States is largely a myth. However, because so much power on most
crucial issues now lies with the federal government. The literature on
sovereignty is immense and freighted with philosophy.” (Tạm dịch: Chủ quyền là tính cách cao nhất trong quyền
lực, ngôi vị hoặc quyền thế. Ở Hoa Kỳ, người dân là chủ và chính quyền là đại
diện. Chủ quyền của các tiểu bang Hoa Kỳ xem ra là một huyền thoại, tuy nhiên
có biết bao quyền trong nhiều vấn đề then chốt lại nằm trong chính quyền liên
bang. Tính cách văn chương về vấn đề chủ quyền thật là bao la và được chuyển tải
trong phạm trù triết học.)
Trong
tác phẩm Dân Tộc Sinh Tồn, chủ nghĩa quốc
gia khoa học, Hùng Nguyên Nguyễn Ngọc Huy cho biết John Locke (1632-1704)
triết gia Anh và Rousseau (1689-1755), triết gia Pháp đặt nền tảng quốc gia trên
một bản dân ước theo đó mọi người cùng vui lòng chấp nhận nhường quyền thiên
nhiên của mình cho xã hội, để bù lại, xã hội bảo đảm quyền lợi mình. Dựa vào ý
này, họ nêu ra thuyết chủ quyền phải thuộc về toàn thể dân chúng. (Quyển I,
1964, trang 135). Tuy nhiên để bù đắp vào sự khiếm khuyết của chủ trương này
người ta nêu ra sự phân quyền của Montesquieu kể cả của Locke để bảo đảm thêm
quyền lợi của cá nhân của con người trong xã hội.
Chủ
quyền của một quốc gia ngoài tam quyền (hành pháp, lập pháp và tư pháp) còn
là một hệ thống tư tưởng chính trị, văn hóa được thừa hưởng từ các triều đại đi
trước hay do chế độ hiện tại đưa ra. Khả năng và tư cách của vị lãnh tụ của đất
nước không phải một sớm một chiều mà có nhưng được tích lũy theo thời gian và
kinh nghiệm cá nhân cũng như gia đình. Nói như vậy để thấy rằng giữa nền Đệ I và
Đệ II Cộng Hòa có những cái tương phản trong tư cách của những người lãnh đạo,
đường lối xử trí công việc quốc gia biểu lộ qua khả năng, trình độ và phong thái
nhân vật nói rõ hơn tư cách của vị lãnh tụ và tác phong của những kẻ tự nguyện đóng
vai trò bù nhìn của ngoại bang.
2.- Bài học về “chủ quyền quốc gia” qua một
số biến cố lịch sử.
Trong dòng lịch sử dân tộc, chủ quyền đất
nước thể hiện qua nhiều biến cố với mỗi phong cách khác nhau. Truyền thống dân
tộc thề hiện qua huyết thống, văn hóa và tôn giáo sẽ được khái quát phân tích
qua một vài sự kiện lịch sử.
Trước
hết có lẽ theo truyền thuyết người ta phải nhắc đến cuộc khởi nghĩa của bà Triệu Thị Trinh chống nhà Ngô năm 248
khi bà hiệu triệu nhân dân quận Cửu Chân (Thanh Hóa) nổi dậy khi bày tỏ ý chí
kiên cường muốn nắm lấy chủ quyền đất nước và quyết định số mệnh của mình bằng
câu nói: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh,
đạp bằng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô giành lại giang
sơn, cởi ách nô lệ, chứ tôi không chịu khom lưng làm tỳ thiếp người khác.”
Cưỡi voi trận, mặc áo giáp vàng, bà đã cầm cự với quân Trung Quốc hàng sáu tháng
nhưng cuối cùng lực lượng của bà bị đánh tan, bà tuẫn tiết khi ở tuổi hai mươi
ba. Nếu câu nói trên (thực sự được kiểm chứng do phương pháp sử học) là của bà
Triệu thì trong thế kỷ thứ ba của giai đọan Bắc thuộc, tư tưởng về chủ quyền đất
nước nơi người dân cổ Việt đã xuất hiện đặt nền móng cho các cuộc khởi nghĩa giành
độc lập về sau. Câu nói của bà Triệu, xem ra là một thổ dân ở quận Cửu Chân
(Thanh Hóa) sao lại giống câu nói của Tông Xác, viên tướng được vua Tống phong
chức Chấn Võ tướng quân, cử theo Đàn Hòa Chi đi đánh Lâm Ấp năm 436. Tác phẩm Tư Trị Thông Giám mà Tư Mã Quang đã bỏ
ra trên 30 năm để hoàn thành, có ghi lại câu nói mà, thuở còn hàn vi, khi được
người chú hỏi về chí bình sinh của mình, Tông Xác thường nói: “Nguyện
thừa trường phong phá vạn lý lãng”, 願 乘 長 風 破 萬 里 浪 nghĩa là ‘ước gì được cưỡi ngọn gió dài để
xông pha làn sóng muôn dặm’. (Nguyễn Đức Cung, Lịch sử vùng cao qua Vũ Man Tạp Lục Thư, Nhà xb. Nhật-Lệ, 1998,
trang 116). Ngô Sĩ Liên khi viết Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, đã lấy câu nói này của
Tông Xác có trong Tư Trị Thông Giám, thêm
thắt một số ý kiến và biến thành lời bà Triệu. Đây phải chăng còn là một nghi vấn
lịch sử?
Rồi
bài thơ của Lý Thường Kiệt làm năm
1077 trên chiến tuyến sông Như Nguyệt để khích lệ quân Lý đánh nhau có thêm hùng
khí đối với giặc Tống được một số sách báo CS xưng tụng là bản tuyên ngôn độc lập
đầu tiên, nhưng thực tế phải nhường bước cho câu nói của bà Triệu. Bài thơ được
nói là của thần nhân cho, từ trong đền Trương Hát, vọng tới ba quân của Lý Thường
Kiệt như sau:
南 國 山 河 南 帝 居
截 然 定 分 在 天 書
如 何 逆 虜 來 侵 犯
汝 等 行 看 守 敗 虛.
Nam
quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!
(Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời!)
“Trong
đêm tối, nghe vang lên từ trong miếu mấy câu thơ bí hiểm này, quân lính ai nấy
đều nức lòng. Quân nhà Tống hoảng sợ tháo chạy trước khi bị tấn công.”
Năm
1283, khi giặc Nguyên Mông chuẩn bị sang xâm lăng nước ta lần thứ hai, Trần Hưng Đạo đã soạn xong cuốn Binh thư yếu lược trong đó có bài Hịch tướng sĩ, viết những câu tha thiết
với sự tồn vong của đất nước như : “Ta
đây, ngày thì quên ăn, đêm thì quên ngủ, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ
căm tức rằng chưa được sả thịt lột da của quân giặc, dẫu thân này phơi ngoài nội
cỏ, xác này gói trong da ngựa, thì cũng đành lòng. Các ngươi ở cùng ta coi giữ
binh quyền, cũng đã lâu ngày, không có áo thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho
ăn, quan còn nhỏ thì ta thăng thưởng, lương có ít thì ta tăng cấp, đi thủy thì
ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa, lúc hoạn nạn thì cùng nhau sống chết, lúc
nhàn hạ thì cùng nhau vui cười… Nay các ngươi trông thấy chủ nhục mà không biết
lo, trông thấy quốc sỉ mà không biết thẹn, thân làm tướng phải hầu giặc mà không
biết tức” (Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử
Lược, bản in lần thứ VII, Tân Việt xb, 1964, trang 138). Trần Hưng Đạo đã lồng
chủ quyền đất nước vào chủ quyền của nhà Trần qua đó nói lên mối liên hệ hữu cơ
giữa dòng tộc cầm quyền với thuộc hạ và quần chúng ở dưới. Trần Hưng Đạo đã thiết
thực nói đến hệ quả tương ứng một khi kẻ thù bị đẩy lui “chẳng những là thái ấp của ta được vững bền, mà các ngươi cũng đều được
hưởng bổng lộc, chẳng những là gia quyến của ta được yên ổn, mà các ngươi cũng
đều được vui với vợ con..” Tư liệu được ghi lại trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên qua bản dịch của Trần Trọng
Kim diễn tả rõ chủ quyền của một đất nước tiên vàn xuất phát từ trách nhiệm của
nhà lãnh đạo đối với sự sống còn chẳng những của triều đại mà còn với tương lai
của bá tánh nhân dân nữa.
Trong
cuộc chiến tranh Nguyên Mông, chính nghĩa và chủ quyền của Đại Việt bộc lộ rõ
nhất trong biến cố hội nghị Diên Hồng khi Toàn
Thư chép rằng: “Tháng chạp… Thượng
hoàng (tức Trần Thánh Tông) triệu tập những
người lớn tuổi trong nước lại ở trước điện Diên hồng, cho ăn tiệc để hỏi kế. Tất
cả đều nói: Đánh. Muôn người rập một tiếng như thốt ra bởi một miệng vậy:” (Toàn
Thư bản kỷ, q.5, tờ 44a). Qua sự kiện
này rõ ràng chủ quyền nằm ở trong tay quần chúng.
Trong
bài “Bình Ngô Đại Cáo” Nguyễn Trãi đã
nói rõ chủ quyền, phương vị của đất nước Đại Việt như sau:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt
chỉ vì khử bạo. Như nước Việt ta từ trước, vốn xưng văn hiến đã lâu. Sơn hà cương
vực đã chia, phong tục bắc nam cũng khác. Từ Đinh, Lê, Lý, Trần gây nền độc lập,
cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên hùng cứ một phương. Dẫu cường nhược có lúc khác
nhau, song hào kiệt đời nào cũng có.”
Nếu
chủ quyền vốn đã được hành sử trong tay của giới quý tộc nhà Trần và họ đang cố
giữ cho khỏi mất đã là một vấn đề khó khăn thì đến giai đoạn kháng Minh của Lê
Lợi thế kỷ XV, chủ quyền đất nước đã mất hẳn vào tay ngoại bang nên việc lấy lại
quyền làm chủ non sông Đại Việt càng khó khăn gấp vạn lần, bởi lẽ Lê Lợi xuất
thân chỉ là một nạn nhân như muôn nghìn nạn nhân khác dưới nền đô hộ của quân
Minh. Qua 10 năm kháng chiến Lê Lợi đã thành công và lấy lại được chủ quyền bởi
vì ông có một lòng kiên quyết, biết nhận định tình hình, mưu lược, biết tiến,
biết thoái, biết sử dụng nhân lực, tài lực v.v… Nói như sử gia Nguyễn Phương:
“Sự xuất hiện của Lê Lợi trên chiến trường
Việt Nam là sự xuất hiện của một vị cứu tinh kiên gan, khôn khéo, và can đảm, mưu
lược. Nhờ kiên gan, khôn khéo, ông đã kích động và quy tụ được tiềm lực kháng
chiến của nhân dân, nhờ can đảm, mưu lược ông đã toàn thắng được giặc mạnh. Nhưng
sự xuất hiện của Lê Lợi không phải nói lên chỉ có thế. Nó còn chứng minh tính cách
tự tồn cố hữu của quốc gia Việt Nam.” (Nguyễn Phương, Đà lịch sử…Tập san Sử Địa số 1, Khai Trí xuất bản, Sài Gòn, 1966,
trang 32).
Một
biến cố trọng đại trong lịch sử Việt Nam nữa đó là việc Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh năm 1789 có liên quan mật thiết đến
chủ quyền Việt Nam. Tháng mười năm Mậu Ngọ (1788), Tôn Sĩ Nghị lấy quân bốn trấn
Quảng Đông, Quảng Tây, Quí Châu, Vân Nam khoảng 20 vạn người để tiến vào Đại Việt.
Phản ứng của Nguyễn Huệ là nổi giận xung thiên không ngần ngại chửi bới: “Quân Ngô, đồ chó ấy, sang đây để mà chết.”
Trong
lời hiệu dụ trước ba quân, Nguyễn Huệ đã làm sáng tỏ chân lý về chủ quyền đất
nước và ý đồ tham hiểm của giặc phương Bắc như sau:
“Quân Thanh sang lấn nước ta, hiện chúng đã đóng
ở thành Thăng long các người có biết hay không? Trong khoảng trời đất phận sao đã
được định rõ phương nam phương bắc, nước nào cai trị nước ấy. Người Tàu không
phải nòi giống nước ta, bụng họ ắt là khác hẳn. Từ đời nhà Hán đến nay họ đã mấy
phen chiếm cướp đất cát, giết hại nhân dân, vơ vét của cải. Người nước ta không
thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi (…) Ngày nay quân Thanh lại sang, định
lấy nước ta đặt làm đất quận huyện của chúng, không biết trông gương mấy đời Tống,
Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra đuổi. Các người đều đủ lương
tri, lương năng nên phải dốc lòng hết sức với ta để dựng công lớn, chớ quen thói
cũ mang lòng nhị tâm. Nếu như phát giác, ta sẽ tức khắc giết chết, không tha một
người nào. Đừng trách ta không bảo trước”. (Tạ Chí Đại Trường, Lịch sử nội chiến ở Việt Nam, từ 1771 đến
1802, Văn Sử Học, 1973, trang 169).
Cũng
trong lời hiệu dụ đó, Nguyễn Huệ khẳng định quyết tâm bảo vệ chủ quyền của đất nước:
"…Đánh cho nó chích luân bất phát;
Đánh cho nó phiến
giáp bất hoàn;
Đánh cho sử tri Nam
quốc anh hùng chi hữu chủ.”
Và
với lực lượng của ông hơn 10 vạn, Nguyễn Huệ đã viết lịch sử chiến thắng một cách
vẻ vang trước bọn Thanh xâm lược.
Tuy
nhiên tác giả Tùng Phong (Ngô Đình Nhu) trong “Chính Đề Việt Nam” đã viết về “tâm
lý thuộc quốc” từng ghi rằng: “Họa xâm lăng
đe dọa dân tộc chúng ta đến nỗi, trong một ngàn năm lịch sử từ ngày lập quốc,
trở thành một ám ảnh cho tất cả các nhà lãnh đạo của chúng ta. Và do đó mà lịch
sử ngoại giao của chúng ta lúc nào cũng bị chi phối bởi một tâm lý thuộc quốc.
Hai lần Lý Thường Kiệt và Nguyễn Huệ tìm cách đả phá không khí lệ thuộc đó. Nhưng
mặc dầu những chiến công lừng lẫy và tài ngoại giao rất khéo, hai nhà lãnh đạo
trứ danh của dân tộc cũng phải khuất phục trước thực tế.” (Tùng Phong Ngô Đình
Nhu, Sách đã dẫn, trang 77)
Cũng
trong tác phẩm nổi tiếng đó, Tùng Phong (Ngô Đình Nhu) còn viết về tâm lý thuộc
quốc một lần nữa và đưa ra một kiến giải mới như sau: “Tâm lý thuộc quốc bắt đầu từ hai sự kiện. Tương quan lãnh thổ và dân số
giữa hai quốc gia là một nguyên nhân tự ty mặc cảm. Sự lệ thuộc của Việt Nam đối
với văn hóa Tàu là một lý do khác. Tương quan lãnh thổ và dân số là hai điều kiện
vật chất hiển nhiên khó thay đổi được. Tuy nhiên, trong khung cảnh chính trị của
thế giới ngày nay, sự bang giao giữa Việt Nam và Trung Hoa không còn nằm trong
khuôn khổ xưa nữa và không còn là một sự kiện chỉ liên quan đến hai quốc gia.
Trong lĩnh vực văn hóa,
một dân tộc lớn hay nhỏ, do sự góp phần nhiều hay ít của dân tộc ấy vào di sản
của văn minh nhân loại. Trong lịch sử cổ Hy Lạp, thành Athen nhỏ bé được tôn sùng
là người hướng đạo của dân tộc Hy Lạp, vì sự góp phần to tát vào di sản văn
minh Hy Lạp. Điều kiện văn hóa này, chúng ta có thể chủ động được, miễn là công
cuộc phát triển của dân tộc thực hiện được. Và thế hệ của chúng ta có thể có đủ
điều kiện và hoàn cảnh để thực hiện ý chí của Lý Thường Kiệt và Nguyễn Huệ, tiêu
diệt tâm lý thuộc quốc đã mấy ngàn năm bao trùm dân tộc và ám ảnh các thế hệ lãnh
đạo của chúng ta. Xem thế, chúng ta càng ý thức tính cách quan trọng của công
cuộc phát triển dân tộc trong giai đoạn này.” (Tùng Phong-Ngô Đình Nhu, Sách đã dẫn,
trang 110).
Trong
lịch sử cận đại, chủ quyền đất nước giai đoạn Pháp thuộc nằm gọn trong tay người
Pháp và đã có biết bao phong trào đấu tranh, tổ chức cách mạng, nhân vật lịch sử
dấn thân tranh đấu để giành lại trong gần một thế kỷ. Những người muốn vinh thân
phì gia hay cốt tìm miếng đỉnh chung thì dù hoạt động trong môi trường chính trị
họ chỉ nhìn chủ quyền đất nước như là một chiêu bài để hoàn thành công việc của
một đầy tớ với một ông chủ, còn những người có tâm huyết thực sự sống chết đối
với đất nước, họ nhìn chủ quyền quốc gia là một lý tưởng phải tôn thờ, trân quý
và xả thân phục vụ. Công cuộc phát triển dưới thời TT Ngô Đình Diệm cho thấy nỗ
lực phá bỏ tâm lý thuộc quốc đối với Trung Hoa hay đối với Hoa Kỳ bộc lộ qua đoạn
văn nói trên dưới ngòi bút của Ngô Đình Nhu vẫn còn giá trị hiện thực đối với đất
nước VN ngày nay.
3.- Sự cần thiết trong rèn luyện kỹ năng chính trị
và dấu ấn của những người đi trước…
Trong cuốn Tam Tự Kinh, một cuốn sách mà Tiến sĩ Phùng Hữu Lan (Fung Yulan
1895-1990) cho là căn bản của triết lý đạo học Trung Quốc, chúng ta đọc thấy câu
“Nhân
bất học, bất tri lý” để nói lên rằng sự học là rất cần thiết. Nghề nghiệp
tay chân cũng phải học, phải rèn luyện huống chi là việc dấn thân vào con đường
chính trị lại càng phải học nhiều hơn nữa, học nữa, học mãi.
Ở
Hy Lạp, một nhà hiền triết, Plato (428-347 trước Công Nguyên) đã từng đề nghị đào
tạo một lớp chuyên viên lãnh đạo chính trị, những người không phải chỉ được huấn
luyện về nghệ thuật chỉ huy mà còn phải được huấn luyện và có một truyền thống
về một triết lý sống tốt đẹp. (Barbara W. Tuchman, The March of Folly: From Troy to Vietnam (1984), Trần Bình Nam, Con đường tự diệt, Trang web Thông-Luận,
24-04-2006).
Một triết gia lừng danh thời cổ Hy-Lạp, học
trò của Plato, Aristote (384-323) từng nói “Con
người là một con vật biết làm chính trị”
(Man is a political animal) và nhà cách mạng Tôn Dật Tiên của Trung Hoa (Sun
Yat-sen 1866-1925) cũng có phát biểu : “Chánh là việc của chúng nhơn, trị
là quản lý, và chánh trị là quản lý của tất cả mọi người.” (Hùng Nguyên, Chủ nghĩa Dân tộc Sinh tồn, chủ nghĩa quốc
gia khoa học, Quyển II, 1964, trang 9).
Như
vậy chính trị là việc ai cũng làm được vì đó là điều “sinh nhi tri chi” và là bổn
phận của mọi người, trong khi đó một nhà đại hiền triết Á Đông, Khổng Tử, tuy
không phản đối các quan niệm nói trên, nhưng lại nhấn mạnh rằng những người làm
chính trị cần phải có khả năng và được huấn luyện nghĩa là: “Phải
học trước rồi mới làm chính sự. “Trong thiên Tiên Tiến của cuốn Luận Ngữ, có ghi lại câu chuyện như sau:
“Tử Lộ sử Tử Cao vi Phí tể. Tử viết: “Tặc
phù nhân chi tử”. Tử Lộ viết: “Hữu dân nhân yên, hữu xã tắc yên, hà tất độc thư
nhiên hậu vi học?” Tử viết: “Thị cố ố phù nịnh giả”. 子 路 使 子 羔 爲 費 宰 . 子 曰 : 賊 夫 人 之 子. 子 路 曰, 有 民 人 焉 , 有 社 稷 焉 , 何 必 讀 書 , 然 後 爲 學.子 曰, 是 故 惡 夫 侫 者 .
Dịch
: Tử Lộ (làm gia thần họ Quý), tiến cử Tử
Cao làm quan tể đất Phí. Khổng tử trách: “Như vậy là làm hại con người ta”
(vì Tử Cao chưa học được bao, chưa làm quan được). Tử Lộ bảo: “(Làm chức tể thì)
có nhân dân để trị, có thần xã (đất đai), tắc (mùa màng) để thờ (đó là học), hà
tất phải đọc sách rồi mới gọi là có học?” Khổng tử nói:“Vì thế mà ta ghét những
lời lợi khẩu (cưỡng lý để tự biện hộ)”. (Nguyễn Hiến Lê, Khổng Tử & Luận Ngữ, Nhà xb Văn Học,
2003, trang 404).
Linh
mục Tiến sĩ Séraphin Couvreur, S.J. trong bản dịch bộ Tứ Thư tái bản ở Paris năm 1981 (Les Quatre Livres de Confucius), đã
bổ túc một vài chữ giải thích trong đoạn trích trên như sau: “Tzeu Iou avait nommé Tzeu kao gouverneur de
la ville de Pi. Le Maitre dit: “C’est faire grand tort à ce jeune et à son père.”…
(trang 193). Linh mục Couvreur là một nhà Trung Hoa học nổi tiếng trong thế kỷ
trước, đã cho biết con người ta mà cụ Nguyễn Hiến Lê nói không rõ lắm đó
là “người trẻ đó và cha anh ta” (ce jeune et son père).
Về
sau người ta lại có thể hiểu đoạn văn đó là: Khổng tử chủ trương rằng "phải học trước đã rồi mới làm chính sự được.
Nếu kẻ vô học cai trị dân thì theo Khổng Tử, thế là “làm hại con người ta” (Tiên
Tiến, XI/24). (Hoàng Văn Lân, 7 luận
điểm về kẻ sĩ trong học thuyết Khổng Tử, Trang điện tử Talawas, 10-3-2007).
Con người ta ở đây là bàn dân thiên hạ, là các thế hệ tương lai, khắp nơi, khắp
chốn.
Lời
nói của Khổng Tử thật là sâu sắc, tuy ngắn nhưng có nhiều gợi ý và điều này cũng
nói lên giá trị ngàn đời của cuốn Luận Ngữ,
và ngài được vua Khang Hi (1654-1722) phong bốn chữ “Vạn Thế Sư Biểu” cũng là đúng
thôi.
Ngày
nay trong các trường đại học trên thế giới nhất là Hoa Kỳ đều có dạy môn chính
trị học, và chính trị được coi là một môn khoa học (Political Science). Alexis
Tocqueville (1805-1859) một văn sĩ và chính khách người Pháp, một trong những
nhà kinh điển hàng đầu của khoa chính trị học và từng được coi là “Montesquieu
của thế kỷ XIX”, trong cuốn sách danh tiếng (De la Démocratie en Amérique) đã có
nói: “Cần có một khoa học chính trị mới mẻ
cho một thế giới hoàn toàn mới.” (Il faut une science politique nouvelle à un
monde tout nouveau).
Đối với một quốc gia nhược tiểu như đất nước
VN, người Pháp luôn luôn thẳng tay đàn áp các phong trào nổi dậy mà không thực
tâm khai hóa để giúp dân tộc chúng ta tiến lên, vì thế không như Ấn Độ là nơi mà
người Anh không nặng tay lắm nên Ấn Độ có một tầng lớp chính trị gia bản xứ đông
đảo thuộc tầng lớp trung lưu, Việt Nam trái lại không được như vậy. Nhận định
sau đây của sử gia Nguyễn Thế Anh cho thấy rõ hơn tình trạng khiếm khuyết về lãnh
đạo khi dân tộc chúng ta có cơ hội giành được độc lập: “Chính sách của chính phủ bảo hộ có một hậu quả không mấy tốt đẹp là nó
khiến những phần tử ôn hòa từ bỏ hoạt động chính trị vì không muốn bị khó khăn
với chính quyền; trái lại, những người không bị ràng buộc bởi những liên hệ hay
quyền lợi xã hội lại hướng tới các phương pháp bạo động của sự đấu tranh bí mật
nhiều hơn trước. Tình trạng này làm cho nước Việt Nam có nhiều cán bộ cách mạng
hơn là chính trị gia, nghĩa là thiếu những nhân vật có khả năng nghiên cứu và
giải quyết những vấn đề hành chánh quốc gia, một khi giành được độc lập.”
(Nguyễn Thế Anh, Việt Nam thời Pháp đô hộ,
Tủ sách Sử-Địa học, Lửa Thiêng xb., 1970, trang 432).
TT
Ngô Đình Diệm vốn xuất thân từ một gia đình có thân nhân làm quan triều Nguyễn,
được huấn luyện kỹ càng trong lãnh vực quản trị hành chánh, tư cách đạo đức của
người cầm quyền và đời sống gương mẫu của một tín đồ Công Giáo. Trong cuốn The Two Vietnams, sử gia Pháp Bernard B.
Fall (Frederick A. Praeger, USA, 1967, trang 240) viết: “Ông Hồ vốn biết ông Diệm có thiên tài về hành chính và quản trị, và cũng
thấy rõ sự kém khủng khiếp của đàn em mình trong lãnh vực khó khăn đó, nên đã
cho mời vị quan này đứng về phe mình và đề nghị trao ông chính cái công việc mà
ông đã làm dưới quyền Bảo Đại: Bộ Nội Vụ.”
Có
ba người đã để lại dấu ấn trong chính sách và đường lối của TT Ngô Đình Diệm đó
là cụ Ngô Đình Khả, cụ Nguyễn Hữu Bài và cụ Phan Bội Châu.
Một
sử gia nổi tiếng của Hoa Kỳ, Mark Moyar, trong tác phẩm Triumph Forsaken, The Vietnam War, 1954-1965, đã viết về dòng tộc của
Cố TT Ngô Đình Diệm như sau: “The son of
the famous mandarin Ngo Dinh Kha, Diem could trace his roots all the way back
through Ngô Quyen, the first king of Vietnam.” (Cambridge University Press,
2006, trang 10). Dịch: “Là con trai của vị
đại thần danh tiếng Ngô Đình Khả, Ngô Đình Diệm có thể vạch lại toàn bộ nguồn gốc
của mình lên tới Ngô Quyền, vị vua tiên khởi của Việt Nam.”
Theo
Lữ Giang, một tài liệu nói dòng họ Ngô Đình Diệm trước sinh sống ở Sơn Tây, một
tỉnh ở phía tây bắc Hà Nội, cách Hà Nội khoảng 42 cây số. Dòng họ này đã di cư
vào Quảng Bình khoảng thế kỷ 15 dưới thời Lê Tháng Tông, lúc đầu cư ngụ ở thôn
Xuân Dục, xã Xuân Ninh, phủ Quảng Ninh, bên bờ sông Long Đại… Nhưng ông Ngô
Vui, Chủ tịch Hội đồng Ngô tộc Việt Nam, cho biết hiện nay đã liên kết được 208
chi họ nhà Ngô có gia phả ở 29 tỉnh thành trong cả nước và được biết gia tộc giòng
họ Ngô Đình Diệm phát xuất từ ông Ngô Trừng, Tham Đốc Nghị Quốc Công, hậu duệ là
họ Ngô Lạc Nghiệp ở Thọ Nghiệp, Xuân Trường, Nam Định. Họ Lạc Nghiệp phân chi đi
nhiều nơi, trong đó có họ Ngô Vạn Xuân đi vào xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh
Quảng Bình. Gia tộc của TT VNCH Ngô Đình Diệm phát xuất từ nhánh đó. Trong họ
Ngô Vạn Xuân cũng có một nhánh đổi sang họ Vũ. (Lữ Giang, Đài RFA của Mỹ trúng kế Việt Cộng? Hãy nhìn lại số phận mình, Bài
trên mạng, ngày 10-11-2015. Một vài người được cho là có nghiên cứu sử học đưa
ra luận điệu sai lạc về dòng tộc Ngô Đình với mục đích “bần cùng hóa” và “cô độc
hóa” gia thế cụ Diệm dần dần đã không che dấu nổi sự thật về việc làm và chủ đích
của họ.
Trong
cuốn La République du Việt-Nam et les Ngô-Đình,
các tác giả Ngô-Đình Quỳnh, Ngô-Đình Lệ-Quyên (mất năm 2012), Jacqueline
Willemetz đã ghi về cụ Ngô Đình Khả như sau: “ Homme de belle intelligence, de vaste culture et de grande probité, Ngô
Đình Khả fonde une école privée avant d’entrer à la cour de Huế comme précepteur.
Puis il devient ministre des cultes et enfin conseiller de l’empereur Thanh
Thai à qui il restera toujours fidèle. En Asie, le rôle du maitre est tellement
respecté qu’il précède même celui du père dans l‘échelle hiérarchique.” (Nhà
xb. L’Harmattan, 2013, trang 13). Dịch: “Là
một người rất thông minh, kiến thức văn hóa rộng, và rất mực thanh liêm, cụ Ngô
Đình Khả đã xây dựng một tư thục làm quản giáo trước khi vào trong triều Huế. Cụ
đảm nhận chức Thượng thư bộ Lễ và sau cùng thành cố vấn của vua Thành Thái người
mà cụ trung thành cho đến suốt đời. Ở Á châu, vai trò của bậc thầy được coi trọng
và kể theo thứ bậc thì còn đứng trước cả bậc cha mẹ.”
Ngôi
trường nói ở đây thật sự không phải là trường tư mà là một trường công do nghị định
của vua Thành Thái ban hành đó là Trường Quốc Học ở Huế rất nổi tiếng, nơi đào
tạo biết bao nhân tài của đất nước. (Nguyễn Đức Cung, Diên-Lộc Quận Công NGUYỄN THÂN, Nhà xb. Nhật-Lệ, 2002, trang
380-387).
Trong
cuốn sách Misalliance: Ngo Dinh Diem, the
United States, and the Fate of South Vietnam, Edward Miller có viết về cụ
Ngô Đình Khả như sau: “Suốt thời thơ ấu
của Diệm, cha ông là người có ảnh hưởng nhất trong gia đình họ Ngô ở Huế. Ngô Đình Khả là hiện thân của tất cả những
trào lưu tôn giáo, văn hóa và chính trị định hình nên cuộc sống thời trẻ của Diệm.
Ngoài việc là một tín đồ Công giáo sùng đạo, ông Khả còn có một sự nghiệp thành
công trong bộ máy chính quyền bảo hộ và sau lại trở thành quan đại thần trong
triều nhà Nguyễn. Là người thông thạo cả chữ La-tinh lẫn chữ Hán cổ, ông Khả quyết
tâm bảo đảm cho các con trai mình được học cả kinh Công giáo lẫn các tác phẩm
kinh điển của Nho giáo. Nhưng ông Khả không phải là một “vị quan Công giáo” nệ
cổ cứng nhắc.” (Bản dịch Việt ngữ, nhóm Minh Thu-Trọng Minh-Kim Thoa, Nhà
xb Chính Trị Quốc Gia - Sự Thật, Hà Nội, 2016, trang 34).
Cũng
trong tác phẩm đó, Edward Miller viết tiếp: “Ngô Đình Khả là một người cha khắt khe và tác động của ông đối với thời
trẻ của Diệm rất sâu sắc. Hồi còn bé, Diệm mắc chứng dị ứng với món cá. Thật không
may, cái lệ Công giáo ăn cá vào những ngày thứ Sáu được gia đình họ Ngô tuân thủ
nghiêm ngặt, và ông Khả bắt Diệm ăn bằng hết những gì được bưng ra, dù rằng sau
đó Diệm thường nôn mửa. Ngoài việc thực thi gắt gao chế độ ăn của gia đình, ông
Khả còn kỳ vọng rất nhiều vào việc học hành của con trai mình. Trước yêu cầu cương
quyết của ông Khả, Diệm buộc phải đăng ký vào học tại Trường dòng Bình Linh (cũng
gọi Trường dòng Pellerin), một trường tiểu học Công giáo ở Huế. Giống như Trường
Quốc Học, trường Bình Linh có chương trình học Pháp-Việt kết hợp và được giảng
dạy bằng cả tiếng Pháp, tiếng La-tinh lẫn tiếng Hán cổ. Diệm nhanh chóng thông
thạo ba thứ tiếng này và sau này có người còn cho rằng ông học chăm chỉ đến mức
gần như bị ám ảnh. Sự nỗ lực của ông xuất phát một phần từ tư tưởng ganh đua dữ
dội của người một nhà với hai anh ruột của ông là Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Thục.
Khôi lớn hơn Diệm 10 tuổi, quyết tâm theo nghiệp ông Khả, theo học quản lý hành
chính để sau này tham gia vào bộ máy công chức, quan lại. Thục hơn Diệm bốn tuổi,
lựa chọn con đường sự nghiệp mà ông Khả đã từ bỏ và trở thành một học sinh trường
đạo.” (Edward Miller, Sách đã dẫn, trang 36).
Năm
1907, cụ Ngô Đình Khả quyết liệt phản đối việc người Pháp truất quyền và đày
vua Thành Thái vì cho rằng nhà vua mắc chứng tâm thần. Sử gia Edward Miller viết:
“Thất vọng vì những kế hoạch cải cách của
mình bị phá hỏng, ông Khả từ quan và xin rút khỏi triều đình. Khi tin tức về những
hành động của ông Khả lan rộng, các nhân vật chống thực dân trên toàn Đông Dương
ngợi khen ông là nhà yêu nước. Trong số những người từng bày tỏ sự khâm phục dành
cho ông Khả có người thanh niên mà sau này được thế giới biết đến với tên Hồ Chí
Minh. Nhiều thập niên về sau sự phản kháng của vị quan già này vẫn được nhớ tới
và tán dương trong một câu truyền miệng dân gian như sau: “Đày vua không Khả/ Đào
mả không Bài.” (Edward Millers, Sách đã dẫn, trang 36).
Một
người như Tổng Thống Ngô Đình Diệm khi được Cụ Nguyễn Hữu Bài tiến cử với vua Bảo
Đại để ra làm Thượng thư Bộ Lại và chủ tịch Hội Đồng Cải Cách năm 1933, vốn đã
học hỏi rất nhiều và có lắm kinh nghiệm về vấn đề chính trị và quản trị hành chánh.
Điều này dĩ nhiên ông phải học từ những vị được giao tiếp thường ngày như cụ Ngô
Đình Khả, cụ Nguyễn Hữu Bài, rồi cụ Phan Bội Châu, và các vị giám mục, linh mục
trong hàng ngũ chức sắc Công Giáo ngoại quốc cũng như Việt Nam, các vị bề trên
dòng tu, các tu sĩ và giáo dân v.v… Ngoài việc học được những kinh nghiệm xử thế,
kiến thức, chữ nghĩa, có lẽ ông cũng học được nơi các bậc tiền bối và nhiều người
các đức tính khác của một nhà lãnh đạo một đất nước. Việc giới thiệu này chắc
chắn đã được cân nhắc rất kỹ càng giữa người tiến cử và người được tiến cử. Hơn
nữa, TT Ngô Đình Diệm đã chứng tỏ khả năng và tinh thần làm việc của mình từ thời
gian làm công tác phiên dịch một số tài liệu Pháp Văn, Hán Văn (thời gian là học
viên Trường Hậu Bổ ở Huế) cho Tòa báo Bulletin
Des Amis Du Vieux Hué (Đô Thành Hiếu Cổ), mà đối với giới nghiên cứu sử học
đó là những tư liệu rất quý. rồi đảm nhận chức vụ tri huyện Hải-Lăng (Quảng Trị),
Quản đạo Ninh Thuận rồi Tuần phủ Bình-Thuận…
Theo
gia phả của cụ Nguyễn Hữu Bài, thủy tổ của cụ là Nguyễn Trãi (1380-1442) tức Nhị
Khê Hầu, đệ nhất công thần đời Hậu Lê.
(Nguyễn Thúc, Thơ Nôm Phước Môn, Bảng
Thế-hệ Họ NGUYỄN-HỮU, bản in lần thứ nhất, 1959, trang 26-30). Trong dòng tộc
của cụ Nguyễn Hữu Bài, người ta đọc thấy các danh nhân như Nguyễn Triều Văn tước
Triều-Văn Hầu thời Lê. Ông Nguyễn Triều Văn sinh ra tướng Nguyễn Hữu Dật giúp
triều Nguyễn có công đánh Trịnh lấy được Nghệ An, Quảng Bình. Con ông Dật là
Nguyễn Hữu Hào và Nguyễn Hữu Cảnh có công đánh Chiêm Thành, Chân Lạp. Nguyễn Hữu
Cảnh xây dựng sự nghiệp lớn của mình trong cuộc Nam Tiến. Ông Nguyễn Hữu Cảnh (Lễ Thành Hầu) sinh ra
Nguyễn Hữu Tứ (tính từ Nguyễn Trãi xuống ông nầy là 12 đời). Ông Tứ sinh ông Hiệp.
Ông Hiệp sinh ra ba ông Nguyễn Hữu Hoãn, Nguyễn Hữu Ba, Nguyễn Hữu Quỳnh.
Ông Nguyễn Hữu Quỳnh theo Công Giáo được chức Vệ-Úy dưới thời Gia Long, có nhiều
công trạng nhưng vì trung thành với Đức tin Công giáo, không chịu bỏ đạo nên ông
bị vua Minh Mạng xử giảo (thắt cổ) ngày 10-7-1840, được Đức Thánh Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II phong làm Hiển Thánh ngày 19-6-1988. Ông Hoãn sinh ra ông Nguyễn Hữu Trí và Nguyễn
Hữu Huệ. Ông Trí sinh ra ông Nguyễn Hữu Tín đi tu làm linh mục.
Ông
Nguyễn Hữu Ba sinh ra ông Đài. Ông Nguyễn Hữu Đài sinh ra ông Các. Ông Nguyễn Hữu
Các sinh ra ông Nguyễn Hữu Bài. Theo cụ Nguyễn Hữu Bài cho biết dòng tộc chuyên
nghề làm thuốc.
Ông
Nguyễn Hữu Bài sinh ngày rằm tháng 8 năm Quý Hợi tức 28-9-1863 tại làng Cao-xá,
tổng Xuân-hòa, phủ Vĩnh-linh, tỉnh Quảng-Trị, gia đình theo Công Giáo, cháu của
Linh mục Nguyễn Hữu Thơ. Được bà mẹ hết lòng dạy dỗ và khi ông Bài lên 10 tuổi mẹ
ông cho đi tu tại Tiểu chủng viện An Ninh. Trong thời gian 10 năm tu học ở đây,
ông học rất thông minh, luôn luôn đứng đầu lớp và theo Nguyễn Thúc, biên giả cuốn Thơ Nôm Phước Môn chính Giám Mục Caspar
“khen ông là một thanh niên anh tuấn, tương
lai thành tài đạt đức, sẽ nên đại dụng.” Sau hòa ước Patenôtre, triều đình
Huế cần sử dụng một số người biết tiếng Pháp để giúp việc tại Nha Thương bạc Huế,
ông cùng nhiều tu sĩ khác (như các linh mục Nguyễn Hoằng và Nguyễn Cư) quyết tâm
ra đảm đương việc nước. Lúc đầu ông làm thừa phái ở Thương Bạc Ty, rồi qua Ký Lục
và Thông Sự tại Tòa Khâm Sứ. Năm 1886, Triều đình cử ông đi với phái bộ quan
binh Pháp để phân định biên giới Bắc kỳ, tiếp giáp nước Tàu. Năm 1887, Nguyễn Hữu
Bài đi quân thứ đánh dẹp thổ phỉ quấy nhiễu miền thượng du Bắc kỳ. Năm 1897 ông
làm Ngự Tiền Thông Sự, hộ giá vua Thành Thái đi Sài gòn. Năm 1898 ông làm Bố chánh
Thanh Hóa và chính tại đây ông gặp ông Ngô Đình Khả và được ông Ngô Đình Khả vận
động cho về làm việc tại Huế chức Thị Lang bộ Lại rồi Tham Tri bộ Hình. Năm 1902 ông ở trong phái bộ của ông Nguyễn
Thân sang chính thức viếng thăm nước Pháp. Ông Nguyễn Hữu Bài là người có cùng
một lập trường với ông Ngô Đình Khả trong việc chống lại người Pháp phế bỏ vua
Thành Thái. Ngày 17-01-1913, Khâm sứ Georges Mahé cho đào lăng vua Tự Đức để tìm
vàng nhưng bị ông Nguyễn Hữu Bài phản đối quyết liệt nên người Pháp bỏ chiến dịch
này. Dân gian có câu: “Đày vua không Khả, Đào mả không Bài” là đề khen cụ Ngô Đình
Khả và cụ Nguyễn Hữu Bài”. Các đức tính liêm khiết, chính trực, “uy vũ bất năng
khuất” của các bậc tiền bối chắc chắn có ảnh hưởng trên chính sách của TT Ngô Đình Diệm về sau.
Đối
với một người ảnh hưởng phần nào trên chính sách của TT Ngô Đình Diệm có lẽ là
cụ Phan Bội Châu, khi Bernard Fall cho biết sau vụ từ chức năm 1907, cụ Ngô Đình
Khả đã bắt đầu vận động giúp đỡ cho Phan Bội Châu lúc bấy giờ hoạt động dưới ảnh
hưởng của Tôn Dật Tiên qua các đồng chí của ông ở Hà Nội. (Fall, The
Two Vietnams, trang 235 và chú thích
trang 479). Năm 1925, người Pháp đưa cụ Phan Bội Châu về giam lỏng ở Bến Ngự,
Huế và trong thời gian từ 1925-40, cụ Ngô Đình Diệm đã có nhiều dịp tiếp xúc với
cụ Phan Bội Châu.
Edward
Miller ghi nhận rằng: “Diệm thần tượng
Phan Bội Châu về những gì ông đã làm được với tư cách là một nhà cách mạng, vậy
nên không có gì ngạc nhiên khi hai người trở nên thân thiết kể từ khi Diệm từ
chức vào năm 1933 đến khi Phan Bội Châu qua đời vào năm 1940. Diệm cũng rất kính
trọng Phan Bội Châu về kiến thức Nho giáo, nhất là những bình luận thông thái
của Phan Bội Châu về những bản văn Nho
giáo kinh điển vào những năm tranh tối tranh sáng đó.” Ở một đoạn khác, sử
gia này còn cho biết Phan Bội Châu “quả
quyết rằng, Nho giáo, khi được gạn lọc về nội dung cốt lõi, có thể trở nên rất
linh hoạt và có thể trả lời cho rất nhiều câu hỏi và vấn đề hiện thời.” Đối
với tư tưởng này của “ông già Bến Ngự”, “Diệm
hoàn toàn tán thành quan điểm của Phan Bội Châu về Nho giáo như một dạng
triết lý xã hội linh hoạt, có thể áp dụng vào các vấn đề đương đại của Việt
Nam. Sau năm 1954, người ta sẽ nhận thấy sự rập khuôn theo quan điểm của Phan Bội
Châu trong quan điểm về chế độ dân chủ và các nỗ lực của Diệm nhằm đưa ngôn ngữ
và những khái niệm Nho giáo vào các chương trình xây dựng quốc gia của mình.” (Edward
Miller, Sđd, trang 42).
Một
số tác giả Hoa Kỳ coi TT Ngô Đình Diệm là người theo chủ nghĩa Khổng Tử cuối cùng
(The Last Confucean) nhưng họ không hiểu con người Ngô Đình Diệm, nhất là những
nhà báo trẻ trẻ tuổi ít kiến thức về Á Châu Học như David Halberstam, Neil
Sheenan chẳng hạn.
4.- Tổng Thống Ngô Đình Diệm và vấn đề chủ
quyền đất nước.
Trong cuốn Chính Đề Việt Nam, tác giả Tùng Phong (Ngô Đình Nhu) cho biết:“Thi hành đúng theo chủ nghĩa Đế quốc của họ
chủ trương, người Pháp không bao giờ muốn, và cũng không bao giờ thực hiện việc
đào tạo những người bản xứ có đủ khả năng để làm những công việc mà người Pháp đang
làm và để, trong tương lai thay thế họ. Thoảng như có những người bản xứ, nhờ
những nỗ lực riêng, mà thâu thập được một sự đào tạo lý thuyết ngang hàng với
những nhân viên cao cấp của họ, thì không bao giờ người Pháp lại giúp cho những
người ấy những hoàn cảnh thuận lợi để họ có thể thâu thập những kinh nghiệm lãnh
đạo cần thiết.” (Tùng Phong, Nhà xb. Hùng Vương, trang 26, dựa theo bản in của
Nhà xb Đồng-Nai).
Cụ
Ngô Đình Diệm chính là điển hình của một người Việt Nam mà đoạn văn trên vừa mô
tả. Là người đã thừa hưởng một nền giáo dục nghiêm túc trong gia đình, đã trải
nghiệm nhiều năm trong vấn đề quản trị hành chánh, tiếp xúc nhiều với đủ hạng
người trong xã hội, thu tập được nhiều kinh nghiệm với giới trí thức ngoại quốc
cũng như quốc nội, đã được huấn luyện để có đủ khả năng điều hành một quốc gia
và điều này trái ngược với chủ trương cố hữu của người Pháp như đã thấy ở trên. Cụ đã tự rèn luyện, tự học hỏi để trở thành một bậc xuất chúng, đã khiến cho
nhiều sử gia ngoại quốc, nhiều chính khách phải đi từ ngạc nhiên đến thán phục.
Qua cuốn sách chính luận nói trên, tác giả Tùng Phong đã viết rằng: “Những nhà lãnh đạo xứng danh bao giờ cũng hành
động theo một triết lý chính trị mà họ đã nghiền ngẫm lâu ngày, trước khi mang
ra thực hành.” Vấn đề chủ quyền đất nước đối với TT Ngô Đình Diệm là một chủ
đề đã được suy tư, biện giải, nghiền ngẫm để trở nên một lý tưởng, và bao lâu
chưa làm hết sức mình để đạt cho được lý tưởng đó Cụ vẫn còn nhất quyết đấu
tranh từ khởi thủy cho đến chung cuộc. Ý thức rằng chủ quyền nằm tản mạn trong
dân chúng cho nên để có sức mạnh huy động được dân chúng, người lãnh đạo phải làm
việc vì dân, sống chết vì dân, đi sát vào cuộc sống của người dân nhất là ở nông
thôn.
Thời
cụ trấn nhậm vùng Phan Rang là một thời bất an, vì bấy giờ Cộng Sản bắt đầu bạo
hành trên toàn cõi Đông Dương. Nhưng càng gặp khó khăn, cụ Diệm càng tỏ ra tài
cán. Thay vì đục nước béo cò, nước càng đục phèn càng quý. Đang khi phòng Nhì
Pháp bắt bớ dân chúng vì tình nghi Cộng Sản, cụ lại càng ra tay bênh vực dân
lành. Một tác giả không mấy tử tế với họ Ngô (Denis Warner, The Last Confucean, New York, MacMillan,
1963, tr. 70) đã phải nói tóm tắt về Cụ trong thời đó như sau: “Đối với Pháp, Ông là một công chức gương mẫu; đối với người Việt, Ông là một nhà cầm quyền trẻ tuổi mà tài cán, hết mực cần cù,
làm tròn phận sự mà bàn tay không bị vấy bẩn.” (Nguyễn Phương, A parade of American
puppets, trang 14).
Trong
cương vị là quản đạo hay tuần phủ ở một tỉnh nhỏ hay tỉnh lớn, cụ được cấp phương
tiện xe kéo, lính hầu nhưng cụ dùng ngựa, vừa nhanh và có thể đi sâu vào các vùng
xa xôi, hẻo lánh, thấy rõ được dân tình.
Đồng
liêu với cụ Ngô Đình Diệm vào giai đoạn này có cụ Tôn Thất Hoàn làm tri huyện
Nghi Lộc, Nghệ An, đã bị Cộng Sản huy động dân quê trong Phong trào Xô viết Nghệ
Tĩnh giết vào ngày 2-01-1931 khi cụ Hoàn tới hiểu dụ đám đông giải tán mặc dù có
đem theo hộ vệ. Cuộc đời liêm chính của cụ Tôn Thất Hoàn và sự hiến thân vì lý
tưởng đất nước của cụ cũng không khác gì tinh thần làm việc của cụ Ngô Đình Diệm;
bởi vậy mà sau cái chết của cụ Hoàn, Thượng Thư Bộ Binh Phạm Liệu, người Quảng
Nam, Tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1898) có đôi câu đối khắc treo ở miếu thờ cụ Tôn Thất
Hoàn tại Nghi Lộc, Nghệ An đã được nhân dân lưu truyền như sau:
爲 國 亡 軀 勇 敢 一 身 行 獨 馬
出 家 化 佛 英 雄 千 古 塟 雙 魚
Phiên âm:
Vị quốc vong khu, dũng cảm nhất thân hành độc
mã,
Xuất gia hóa Phật,
anh hùng thiên cổ táng Song ngư.
Dịch nghĩa:
Vì nước quên thân, dũng cảm một mình lên đường
với một ngựa.
Xuất gia hóa Phật,
anh hùng muôn thuở vùi thây tại Song ngư (Cửa Lò).
Tinh
thần làm việc vì quốc gia, vì dân tộc của các bậc tiền nhân dưới triều nhà Nguyễn
thật đáng khâm phục, không như ‘cán bộ’ đảng Cộng Sản Việt nam ngày nay chỉ biết
tham nhũng mà thôi.
Nhìn vào mối liên hệ giữa Ngô Đình Diệm với
cụ Nguyễn Hữu Bài rất mật thiết sau khi cụ Ngô Đình Khả mất (1923) người ta thấy
được lý tưởng trong sáng đó. Theo Edward Miller, mặc dầu cụ Nguyễn Hữu Bài bị mất
chức trong cuộc cải tổ nội các của Bảo Đại năm 1933, nhưng để xoa dịu vị quan
già này, người Pháp đã đưa đệ tử ruột của cụ là Ngô Đình Diệm vào vị trí Thượng Thư bộ Lại, nhưng chưa đầy hai tháng sau khi được đề bạt vào nội các, ông Diệm
từ chức. “Trong một bức thư gửi vua nhà
Nguyễn - một thiếu niên được gọi là Bảo Đại, người sẽ có nhiều mối tiếp xúc khác
với Diệm vào những năm sau này - Diệm dẫn ra những lời phàn nàn về sự hà hiếp của
Pháp đối với chủ quyền Việt Nam mà ông
Bài đã dâng thưa trước đó…” (Edward Miller, Sđd, trang 39). Hành động từ
quan, mà là một chức quan lớn đầu triều của cụ Ngô Đình Diệm, khi mới 32 tuổi,
không chỉ khiến cho nhiều người trong triều Nguyễn và khắp nước thán phục mà còn
làm một nhà cách mạng đã một đời dấn thân vì đất nước, cụ Phan Bội Châu cũng phải
kính trọng với những lời như sau: “Ông
Ngô Đình Diệm, con người có tâm huyết, biết thương giống nòi, biết nhục vong quốc,
nên ông mới dám chống lại cường quyền, lui về ẩn tích, đợi thời tuyết sỉ. Đó mới
là đáng bậc CHÍ SĨ, VĨ NHÂN, tất sau này cuộc Phục Hưng chỉ có hạng người ông
Diệm mới làm nổi… Ta muốn tặng ông Diệm một bài thơ để tỏ lòng kính trọng bậc
thiếu niên hiền triết… Ông Diệm bây giờ mới là ông lớn thật sự.” (Minh Võ, Ngô Đình Diệm: Lời khen tiếng chê, Thông
Vũ tái bản lần thứ nhất, California, tháng 10-1998, trang 42). Biết rằng người
Pháp còn quyết liệt nắm lấy chủ quyền đất nước và mình sẽ không làm được gì nên
cụ Diệm đã từ chức.
Tháng
2 năm 1946, khi bị Hồ Chí Minh bắt và đưa về gặp họ Hồ ở Bắc Bộ phủ, cụ Ngô Đình
Diệm lúc đó đang bị bệnh sốt rét nặng, đã từng tỏ khí phách can trường trong một
cuộc đối thoại căng thẳng, giữa hai người qua đó cụ Ngô đã từ chối đề nghị cộng
tác với Hồ Chí Minh qua chức vụ Bộ trưởng Nội vụ:
-“Không thể được, ông có chính sách cứu nước
của ông, và tôi có chính sách cứu nước của tôi. Ông có cam đoan được rằng ông sẽ
bỏ thuyết vô sản chuyên chính không? Khắp nơi, cán bộ ông đang thi hành thuyết đó.
Họ giết hết các nhà quốc gia chân chính. Họ giết cả anh em tôi.”
Đến đây Hồ Chí Minh cảm thấy phải chữa mình.
Ông nói:
-“Vậy mà tôi không hay biết gì cả. Nước đang lâm
cảnh loạn ly. Xin ông ở lại với tôi để cùng nhau chống Pháp.” Dường như cả
hai người đều hiểu rằng chỉ có vì sợ cụ Diệm mới chấp nhận. Cụ lên tiếng: “Ông biết tôi là ai không? Tôi không phải hạng
hèn nhát”. Hồ Chí Minh vội vàng nói đỡ: “Không, ông không hề hèn nhát”. Cụ Diệm tiếp: “Vậy thì để cho tôi đi”. Và Hồ Chí Minh để cụ Diệm ra đi. (Trúc Long
Nguyễn Phương, Sơ lược về thân thế &
sự nghiệp của Cố TT Ngô Đình Diệm, Trích Tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong, số 118).
Edward
Miller trong bài viết được Hoài Phi và Vy Huyền dịch ra Việt ngữ có tên “Viễn kiến, quyền lực và tính chủ động: Con
đường lên nắm quyền của Ngô Đình Diệm, 1945-1954” (Talawas 9.8.2007) đã có
viết: “Không có lý do gì để nghi ngờ việc
Ngô Đình Diệm tuyên bố ông dùng những lời lẽ sắc bén và chua chát trong cuộc gặp
đó, vì ông biết rằng quân Việt Minh bắt và xử tử người anh cả Ngô Đình Khôi của
mình mấy tháng trước đó. Mặt khác, khi câu chuyện được Ngô Đình Diệm kể lại về
cuộc gặp này vào sau năm 1954 lược bỏ sự thực rằng ông đã sẵn lòng tham gia một
chính phủ Việt Minh nếu như Hồ Chí Minh chỉ cần đồng ý với yêu cầu để ông nắm
giữ một số mặt trong chính sách.”
Trong
chú thích số 13 ở dưới Edward Miller có viết: “Ngô Đình Diệm trước đó đã từng công nhận rằng mình hẳn đã tham gia
chính phủ của Hồ Chí Minh để đổi lấy việc được nắm quyền trong chính sách an
ninh của Việt Minh; xem Ellen J. Hammer, The Struggle for Indochina, 1940-1955 (Stanford: Stanford
University Press, 1966), trang 149-150; và Memorandum of Conversation, Edmund
S. Gullion, 8 May 1953, Foreign Relations
of the United States [FRUS] 1952-1954, vol. 13 (Washington: Government
Printing Office, 1982), trang 553-554.”
Một
nhà nghiên cứu sử, Minh Võ cung cấp thêm một chi tiết cần được kiểm chứng là
trong biến cố gặp gỡ này “Ông đòi quyền
thay đổi, chi phối chính sách của ông Hồ, như một điều kiện để hợp tác.” (Minh
Võ, Ngô Đình Diệm và chính nghĩa dân tộc,
Hồng Đức xb. 2008, trang 122). Thật sự thì cụ Ngô đã thẳng thừng (carrément)
bác bỏ đề nghị hợp tác của Hồ Chí Minh ngay trong vài phút của cuộc gặp gỡ đầu
tiên và cũng là cuối cùng.
Đây
là trận đánh cân não giữa một bên là chủ quyền dân tộc và một bên là chủ quyền
của vô sản quốc tế. Cụ Ngô Đình Diệm thừa biết Hồ Chí Minh là tay sai của Cộng
sản Quốc tế không hề có ý thức về chủ quyền mà chỉ làm việc theo lệnh của Liên
Xô và Trung Cộng nên cụ đã không sợ chết một khi cần bảo vệ và công khai hóa lý
tưởng và con đường đấu tranh của mình.
Lý
tưởng bênh vực chủ quyền của đất nước vẫn luôn là điểm quy chiếu trong lịch trình
hoạt động của TT Ngô Đình Diệm trong các giai đoạn tranh đấu trước khi nắm được
chính quyền. Sử gia Edward Miller trong bài báo trích dẫn bên trên cho biết: “Vào tháng Hai năm 1948, Ngô Đình Diệm và các
lãnh đạo khác thuộc phe quốc gia gặp tại Sài Gòn để thảo ra một khung đàm phán
với Pháp về vấn đề độc lập của Việt Nam. Sau đó Ngô Đình Diệm quay trở lại Hồng
Kông vào tháng Ba để cố gắng thuyết phục Bảo Đại ủng hộ kế hoạch này; ông cũng
vận động các quan chức Pháp nhượng bộ thêm về phạm vi chủ quyền của Việt Nam…”
Ba năm sau, vấn đề chủ quyền đất nước cũng được
chính khách Ngô Đình Diệm tỏ rõ một lần nữa. Theo tác giả Minh Võ, qua tờ Écho du Vietnam đăng lời tuyên bố của Ngô
Đình Diệm ngày 16-6-1949 “ nhận định một cách chính xác rằng chỉ có
dành được độc lập hoàn toàn và giữ đúng cương vị của một quốc gia có chủ quyền mới có thể thi đua với Việt Minh, và đánh
thắng Việt Minh.” (Minh Võ, Ngô Đình
Diệm và Chính Nghĩa Dân Tộc, Hồng Đức xb, 2008, trang 37).
Trong
bản tuyên bố đó, cụ Diệm cho biết thêm: “Nên
biết rằng cuộc tranh đấu hiện tại không chỉ là một cuộc chiến đấu cho độc lập Tổ Quốc về phương diện chính trị, mà còn là một cuộc cách mạng xã hội để khôi phục
độc lập cho nông dân và thợ thuyền Việt Nam. Để tất cả mọi người ở Việt Nam có đủ
phương tiện sống xứng đáng với phẩm cách con người, con người tự do thực sự, tôi
chủ trương những cải cách xã hội hết sức tân tiến và mạnh bạo, miễn là phẩm cách
con người luôn được tôn trọng và tự do nảy nở.” (Lời tuyên bố của Chí-sĩ Ngô-đình-Diệm
ngày 16 tháng 6 năm 1949”, trong CĐCN, 1:221-222, dẫn theo Edward Miller, Sđd,
trang 54).
Ngày
16 tháng sáu năm 1954, ở Ba-Lê, khi nhận lập chính phủ, cụ tuyên bố “một nền hòa bình lâu dài và trù phú, đặt
trên một nền tảng độc lập của quốc gia và tự do của dân tộc, đưa ra một vấn đề
có một tính cách đáng quan ngại. Chỉ có một cuộc chuyển hướng chính trị mới mẻ,
mới có thể đưa đến mục đích đó.” (Nguyễn Phương, Ánh sáng dân chủ, 1957, trang 121). Chỉ hơn một tuần sau, ngày 25
tháng sáu, khi đặt chân xuống Sài-gòn, cụ liền tuyên bố cụ về là để “cứu vãn tình thế, thực hiện hòa bình với sự
thống nhất lãnh thổ và chủ quyền quốc gia, hoàn bị một nền hòa bình trong tự
do, trong sự tôn trọng nhân phẩm và gia đình. Vì chỉ nền hòa bình ấy mới phù hợp với nguyện vọng đồng bào là an cư
lạc nghiệp trong một xã hội công bình dân chủ.” (Nguyễn Phương, Sđd, trang
122).
Trong
bản Hiến pháp của nền Đệ Nhất Cộng Hòa, công bố ngày 26-10-1956, ở Thiên Thứ Nhất,
mục Điều Khoản Căn Bản, Điều 2 có ghi: “Chủ quyền thuộc về toàn dân”.
Muốn
hiểu rõ xin đọc đoạn văn trích dẫn sau đây của sử gia Nguyễn Phương đã làm sáng
tỏ tinh thần “tôn trọng chủ quyền của dân” của TT Ngô Đình Diệm như sau:
“Như mọi người đều biết, Ông Ngô Đình Diệm đã
đảm đương nhiệm vụ cứu nước trong những trường hợp độc nhất của lịch sử Việt
Nam. Ở Bắc, Cộng-sản đang nắm chặt một nửa giang sơn, và như con hùm dữ, đang há
miệng sặc nồng mùi máu đợi thời gian đem cả miền Nam dâng tiến cho. Và bấy giờ
miền Nam lại là một con mồi như càng ngày càng hấp dẫn. Thực dân đang cố tiêu hủy
những lực lượng quốc gia còn lại. Quân chủ phong kiến trước khi tàn tạ đang bộc
lộ tất cả phần thối tha mục nát của mình ra. Thật là một mớ bòng bong, nhìn vào
đã đủ chóng mặt, không nói gì đến chuyện gỡ ra và xây dựng lại. Nhưng, lo ngại
như một người ý thức rõ rệt tất cả sự quan trọng của tình hình, và đồng thời quả
cảm như một kẻ đã nắm bí quyết của thành công trong tay, Ông Ngô Đình Diệm đã
hiên ngang đương đầu với trở ngại một cách mạnh dạn và sáng suốt. Ngày 16 tháng
sáu, 1954, ở Ba Lê, khi nhận lập chính phủ, Ông nói: ‘Giờ phút nầy là giờ phút
quyết định. Cố nhiên, tôi quan tâm đến một tình hình quân sự rất nghiêm trọng;
nhưng ta có thể và rất cần gỡ lại tình thế ấy, bởi vì nó chỉ là hậu quả dĩ nhiên
của một chuỗi dài những sự không hiểu biết và lầm lỗi. Nền hòa bình, một nền hòa
bình lâu dài và trù phú, đặt trên một nền tảng độc lập của quốc gia và tự
do của dân tộc, đưa ra một vấn đề có một
tính cách khác đáng quan ngại. Chỉ có một cuộc chuyển hướng chính trị mới mẻ,
mới có thể đi đến mục đích đó.’
Thế rồi, Ông không để dân Việt Nam phải đợi
lâu mới cho biết hướng chính trị mới mẻ Ông vừa đề xướng đó. Chỉ hơn một tuần
sau, ngày 25 tháng sáu, khi đặt chân xuống Sài gòn, Ông liền tuyên bố Ông về là
để “cứu vãn tình thế, thực hiện hòa bình với sự thống nhất lãnh thổ và chủ quyền quốc gia, hoàn bị một nền hòa
bình trong tự do, trong sự tôn trọng nhân phẩm và gia đình. Vì chỉ nền hòa bình
ấy mới phù hợp với nguyện vọng đồng bào là an cư lạc nghiệp trong một xã hội công
bình dân chủ.”
Khi lập nội các xong,
ngày mồng 7 tháng 7, Ông còn cho quốc dân biết rõ hơn rằng:“Quốc dân mong mỏi
công lý và an ninh. Quốc dân có thể tin cậy ở chính phủ tôi để tổ chức một nền
hành chánh và tư pháp công minh và liêm chính. Quốc dân khát vọng những tự do và
dân chủ. Chính phủ sẽ xây dựng một Quốc gia dân chủ có sức hấp dẫn mãnh liệt đối
với dân chúng.”
(Nguyễn Phương, Sđd, trang 122).
Còn
có lời nào tha thiết hơn, chí tình hơn những lời nói của một vị nguyên thủ
trong một chế độ dân chủ, tự do thấu hiểu khát vọng ngàn đời của người dân?
.” Điều 8 (cũng trong Thiên Thứ Nhất) của Hiến Pháp có ghi: “Nước Việt-Nam Cộng-Hòa chấp thuận những nguyên
tắc quốc tế pháp không trái với sự thực hiện chủ quyền Quốc-Gia và sự bình đẳng giữa các dân tộc.”
Đây
là một trong những nguyên tắc hành sử bất biến của TT Ngô Đình Diệm kể từ khi dấn
thân vào con đường tranh đấu với các thế lực thù nghịch với chính nghĩa quốc
gia, thí dụ thực dân Pháp, cộng sản và ngay cả sau này đối với ngoại bang khác
như Hoa Kỳ. Cụ Diệm không chỉ thể hiện nỗ lực bảo vệ chủ quyền đất nước qua tư
tưởng, suy nghĩ, nhận thức hay quan điểm mà còn bằng các hành động cụ thể của mình.
Người Mỹ khi đổ tiền bạc vào giúp cụ Diệm, họ nghĩ rằng họ có quyền đưa ra những
quyết định trong chính sách của Miền Nam nhưng với cụ Diệm việc đó không thể được
vì chạm vào một nguyên tắc tối kỵ, và vì thế Hoa Kỳ bắt đầu nói xấu cụ bằng dư
luận, bằng báo chí sau hết là bằng hành động. Họ sử dụng Phật Giáo làm công cụ đánh
phá chế độ qua những cuộc tự thiêu được dàn dựng trước để vu cho chế độ của TT
Ngô Đình Diệm đàn áp Phật Giáo. Người Mỹ dùng báo chí làm công cụ đổi trắng
thay đen chẳng hạn từ tình hình chống Cộng rất khả quan tháng 10-1963 trở thành
trạng huống nguy ngập về một cuộc chiến tranh không thể thắng được nếu còn chế
độ của Cụ Diệm. Một vị Bộ Trưởng của Cụ Diệm kể lại chuyện cụ với một nhà báo Mỹ:
“Hình như cả thế giới nổi dậy chống chúng
tôi. Không phải chỉ báo chí Mỹ, mà ngay đến cả Tiếng Nói Hoa Kỳ là cơ quan chính
thức của chính phủ Mỹ cũng không ngớt nhã ra toàn là những lời tố cáo chúng tôi
như là những kẻ dở, làm gì cũng là làm bậy hết. Tưởng như đài BBC trong Đệ Nhị
Thế Chiến bỗng nhiên nổi dậy tố cáo Mỹ và hô hào lật đổ Roosevelt…” Tất cả
chỉ vì vấn đề chủ quyền, nghĩa là cố vấn Mỹ phải ở khắp nơi, quân đội Mỹ phải vào
Việt Nam, Cam Ranh phải được nhường, Cao nguyên phải được nhường. Nói cách khác,
Việt Nam không còn chủ quyền nữa.
Trong
cuộc đảo chính long trời lở đất dồn vào Dinh Gia Long ngày 1-11-1963, đã xảy ra
cuộc đối thoại sau đây giữa TT Ngô Đình Diệm và Đại sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge. Sau đây
là báo cáo của Lodge gửi về Hoa Thịnh Đốn:
Ông Diệm: Vài đơn vị đã nổi loạn và tôi muốn biết thái độ của Hoa Kỳ.
Ông Lodge: Tôi cảm thấy
không biết khá đủ để có thể nói cho ông hay. Tôi nghe tiếng súng nổ, nhưng không
biết tất cả các dữ kiện. Bây giờ là 4 giờ 40 sáng tại Hoa Thịnh Đốn và chính phủ
Mỹ không thể có một nhận định được.
Ông Diệm: Nhưng ông
phải có một vài ý niệm tổng quát. Sau hết, tôi là quốc trưởng. Tôi đã cố gắng làm
bổn phận của tôi. Bây giờ tôi muốn làm cái gì mà bổn phận và thiện ý đòi hỏi. Tôi
tin tưởng vào bổn phận trên hết.
Ông Lodge: Chắc là ông
đã làm bổn phận của ông. Như tôi đã nói với ông sáng nay, tôi thán phục lòng
can đảm và sự đóng góp lớn lao của ông cho xứ sở. Không ai có thể lấy đi được
danh tiếng về những gì ông đã làm. Bây giờ tôi lo âu về sự an ninh của ông. Tôi
được báo cáo rằng những kẻ phụ trách vụ bạo động đang tiến hành đồng ý để hai
anh em ông ra khỏi nước an toàn nếu ông từ chức. Ông đã nghe điều này chưa?
Ông Diệm: Không (rồi sau khi ngưng một chốc). Ông có số điện thoại của tôi?
Ông Lodge: Vâng. Vậy
nếu tôi có thể làm gì được cho sự an toàn của ông, ông cứ điện thoại cho tôi.
Ông Diệm: Tôi đang cố
gắng tái lập trật tự.
(The
Pentagon Papers, Key Documents, văn kiện số 59, trang 232, dẫn theo bản dịch
Việt ngữ của Hoàng Ngọc Thành & Thân Thị Nhân Đức, Những ngày cuối cùng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Quang Vinh &
Kim Loan & Quang Hiếu xuất bản, in lần ba 1999, trang 432).
Lúc
bấy giờ cũng như trước đây, chủ quyền đất nước là điều tối thượng đối với cụ Ngô
Đình Diệm chứ không phải là sinh mạng của chính Cụ và Cụ tìm cách tái lập trật
tự tức là tái lập chủ quyền đất nước đang bị ngoại nhân dùng bọn ngoại nô để phá
hoại, chiếm đoạt.
Ngày
7 tháng 4 năm 1985, mười năm sau cái chết của Việt Nam Cộng Hòa, đài truyền
thanh KFWB/98 thông báo nhiều lần kết quả thăm dò dư luận của hãng Gallup cho
biết 63% dân chúng Mỹ đã công nhận rằng việc Mỹ can thiệp vào chiến tranh Việt
Nam là một lầm lẫn. Dưới ngòi bút Trúc Long, sử gia Nguyễn Phương nhận định rằng:
“Mỹ đã lầm lẫn ngay từ nguyên nhân. Khi
can thiệp vào Nam Việt Nam, họ đã tuyên bố là giúp Nam Việt Nam để đánh Cộng sản.
Nhưng họ đã giúp Nam Việt Nam thật hay không?
Tổng thống Nam Việt Nam lúc bấy giờ là Cụ Ngô Đình Diệm đã dựa vào những
lời tuyên bố như thế để xử sự. Cụ Diệm nghĩ rằng Mỹ giúp, tất nhiên Mỹ phải đóng
vai phụ vì phụ là giúp, và Nam Việt Nam đóng vai chính, cả về chính trị, cả về
quân sự. Với quan niệm đường đường chính chính như thế, Cụ đã không nhường một
tấc đất cho Mỹ để làm căn cứ, cũng không để cho Mỹ nắm một quyền chủ động nào
trong vùng đất nhỏ bé mà Cụ có bổn phận nắm giữ chủ quyền. Đang khi Cụ Diệm đinh
ninh xử sự như vậy mới là làm xong phận sự thì Mỹ lại không cho rằng phận sự đó
là đúng. Thế là Cụ Diệm bị tố là quan liêu lỗi thời, là cục bộ, là lạc hậu… Ở
Hoa Thịnh Đốn, một Tổng Thống John được hoan nghinh vì dùng bào đệ Robert làm cố
vấn nhưng ở Sài Gòn bào đệ Nhu bị coi như một ác quỷ nhất thiết phải trục xuất
ra khỏi chính quyền chỉ vì lý do là làm cố vấn cho đại huynh Diệm. Và điều kiện
dứt khoát của Hoa Thịnh Đốn là Cố vấn Nhu phải ra đi, nếu không Mỹ sẽ cắt đứt hết
mọi viện trợ vừa kinh tế vừa quân sự cho Nam Việt Nam. Cuối cùng, chỉ vì không
thể chịu được cái ức của kỳ thị mà Cụ Diệm đã bị đảo chánh và bị giết. Không
may, Cụ Diệm chết thì chủ quyền của Nam
Việt Nam cũng hết sống. Kể từ ngày 1-11-1963, cho đến ngày 30-4-1975, Nam
Việt Nam chỉ còn là một cái xác không hồn…” (Tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong, số 224, bài Một lầm lẫn được thú nhận).
Mục
đích Hoa Kỳ lật đổ chế độ hợp pháp của TT Ngô Đình Diệm là đổ quân vào Nam Việt
Nam, dành toàn bộ công cuộc chống Cộng vào tay quân đội Mỹ, dưới tác động của
nhóm siêu quyền lực để tiêu thụ số vũ khí còn lại trong thời Đệ Nhị Thế Chiến.
Theo cụ Diệm như vậy là Miền Nam sẽ mất chính nghĩa và Cộng Sản Bắc Việt sẽ
khai thác nhược điểm này để tuyên truyền trước mặt quốc tế. Với TT Ngô Đình Diệm,
khi cần, VNCH sẽ thông qua quốc hội ký một thỏa ước kêu gọi Hoa Kỳ tham dự vào
cuộc chiến ở VN và quân đội Hoa Kỳ sẽ chỉ đóng ở vùng biên giới thuộc vĩ tuyến
17.
Quả
thật, sau cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, chủ quyền đất nước đã không còn
và Hoa Kỳ đã không hiểu rằng vì vấn đề chủ quyền của đất nước mà Việt Nam đã phải
chống Tàu hơn một nghìn năm, chống thực dân Pháp trong một trăm năm, và đang
long đong lận đận chống lại bọn Cộng Sản Việt Nam đang làm đầy tớ cho Trung Cộng,
để giành lại chủ quyền của người dân.
Sau
Tổng Thống Ngô Đình Diệm, những người do Hoa Kỳ đưa lên lãnh đạo VNCH không có đạo
đức và khả năng cho nên việc mất nước vào tay Cộng Sản chỉ còn là vấn đề thời
gian. Sau đây là nhận xét của Giáo sư Hoàng Ngọc Thành dựa trên sự phân tích của
cơ quan tình báo Hoa Kỳ:
“Nhưng phân tích và tìm hiểu đến tận cùng, như
cơ quan CIA đã làm về các tướng lãnh và nhân vật tại Nam Việt Nam, các ông Trần
Văn Đôn, Lê Văn Kim, Dương Văn Minh, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Nguyễn Ngọc
Lễ và một số khác nữa chỉ là về căn bản những người đánh thuê cho thực dân Pháp
rồi vì thức thời nên đã theo ủng hộ ông Diệm. Họ đã được đổi đời nhưng tận đáy
lòng họ, căn bản vẫn thế. Điều này không có nghĩa là họ không muốn trở thành
người tốt, người “yêu nước”đúng nghĩa của danh từ. Nay ông Diệm gặp khó khăn vừa
trong nội bộ và nhất là đối với đồng minh khổng lồ Hoa Kỳ, họ cũng lăm le muốn
làm “cách mạng”, làm người yêu nước yêu nòi như ai. Nhưng như sự diễn tiến tình
hình cho thấy, họ đâu có tầm vóc, đức tính và khả năng để làm đúng theo tham vọng
của họ được. Nên họ cũng trở lại làm tay sai. Một số sách và báo chí ngoại quốc
có chỉ trích tổng thống Diệm về sự thiếu cương quyết và cứng rắn trong cách đối
xử với một số tướng tá. Điều nhận xét này có thể xem là đúng.” (Hoàng Ngọc
Thành & Thân Thị Nhân Đức, Sách đã dẫn, trang 392).
Có
ba nhân vật phải được thêm vào đây để mọi người nhớ đến, kể về quá trình có mặt
trong lực lượng quân sự Pháp và chịu sự chỉ đạo của Tòa Đại sứ Mỹ cùng với các
nhân vật nói trên đó là Nguyễn Văn Thiệu, Tôn Thất Đính và Đổ Mậu là ba nhân vật
chủ chốt trong vụ đảo chính 1-11-1963.
Trong
thực tế, TT Ngô Đình Diệm không kỳ vọng gì vào các lớp sĩ quan trong Quân lực
VNCH ở chung quanh đã một thời phục vụ cho Pháp, mà Cụ chỉ nhắm và hy vọng nhiều
vào thế hệ thanh niên trẻ đang được đào luyện ở Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt,
Trường Võ Khoa Thủ Đức. Rủi cho Cụ và cũng là cho đất nước khi các thế hệ trẻ này
chưa có cơ hội cầm nắm giềng mối trong Quân đội, thì đã nổ ra vụ đảo chính
1-11-63, đưa đất nước ngày càng chìm xuống vực thẳm.
Dưới
ngòi bút cẩn trọng, nhà biên khảo Minh Võ, khi trích dẫn đoạn văn sau đây của
Giáo sư Hoàng Ngọc Thành, cho rằng “ông
Thành đã so sánh một cách hết sức tế nhị và kín đáo người yêu nước Ngô Đình Diệm
với những người lãnh đạo quốc gia sau ông như sau: ‘Lằn ranh giới giữa người yêu
nước thực sự và tên tay sai là người yêu nước tìm đủ mọi cách để bảo vệ chủ quyền
của xứ sở, đến tận cùng, dù phải hy sinh tính mạng, phú quý của cá nhân và dòng
họ, còn tên tay sai dù có phản đối nhưng rút cục cũng buông xuôi theo thực dân
để khỏi tổn thương đến tính mạng, phú quý của cá nhân và gia đình. Dù lỗi lầm gì
đi nữa, người yêu nước thực sự NGÔ ĐÌNH DIỆM CÓ THÁI ĐỘ QUYẾT LIỆT TRONG SỰ BẢO
VỆ CHỦ QUYỀN CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM. Thái độ này làm chính quyền Mỹ John F.
Kennedy mưu đồ đảo chính và sát hại ông. Và biến miền Nam thành một “xứ bảo hộ”
của Hoa Kỳ.’ ” (Minh Võ, Sđd, trang 257).
Trong
cuốn sách Ngô Đình Diệm, Lời khen tiếng
chê, nhà biên khảo Minh Võ đã cho biết sự liên hệ rất mật thiết bộ ba Rufus
Philip - Lê Văn Kim - Bùi Diễm (nhân viên CIA), mà Kim là người phụ trách vấn đề
chính trị của cuộc đảo chính 1-11-1963 tất nhiên Bùi Diễm cũng là một trong những
người quyết định số mạng của TT Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu (trang
54). Và đó cũng là những người đã góp công sức biến Nam Việt Nam trở thành “xứ
bảo hộ” của Mỹ sau ngày TT Ngô Đình Diệm bị thảm sát cũng là ngày chủ quyền VN
lâm vòng cáo chung.
Trong
cuốn sách viết bằng Anh ngữ có tên A
Parade of American Puppets, A story of South Vietnam from 1954 to 1975, (Cuộc
diễn hành của những tên bù nhìn Mỹ, Câu chuyện Miền Nam Việt Nam từ 1954 đến
1975), sách dày 399 trang khổ 8/11, in ronéo năm 1978, gồm có một bài tựa,
một bài dẫn nhập, mười bốn chương, và lời bạt. Trong phần Dẫn nhập ở trang
XVIII, sử gia linh mục Nguyễn Phương có viết: “…But the man who resented most the partition of Vietnam was Ngo Dinh
Diem who viewed the fate of his fatherland more important than his own” (…Nhưng
người oán hận nhất về sự phân chia đất nước là cụ Ngô Đình Diệm vốn đã coi số phận của Tổ Quốc còn quan trọng hơn
sinh mệnh của mình).
Ở
trang 101, sử gia Nguyễn Phương viết tiếp: “Ngo
Dinh Diem, on the other hand, was a mandarin proud of his career. He loved his
country above anything else and tried his best to make it independent and
unified. In his pursuit of national liberation, he was not alone, but his team
did not count many. He had with him a handful of friends and especially his
brother Ngo Dinh Nhu. He wielded, however, a great political power just because
of his immense popularity. Man of integrity and righteousness, of heroic
patriotism and thorough dedication, he was de eply loved and widely respected
by his fellow countrymen.” (Ngô Đình Diệm, trái lại, là một vị quan tự hào về
nghiệp vụ của mình. Ông yêu mến quê hương hơn bất cứ một cái gì khác và nỗ lực
hết sức mình để làm cho đất nước được độc lập và thống nhất. Trong khi theo đuổi
công cuộc giải phóng quốc gia, ông không cô đơn nhưng nhóm của ông cũng không mấy
đông đảo. Ông có một ít bạn hữu và đặc biệt có em của ông, ông Ngô Đình Nhu.
Tuy nhiên, ông vẫn tạo ra được quyền hành chính trị lớn bởi lẽ ông có uy tín
trong quảng đại quần chúng. Là con người liêm khiết chính trực và với tấm lòng
yêu nước nồng nàn, hoàn toàn tận hiến, ông được đồng bào yêu mến và kính trọng).
(Nguyễn Phương, A parade of American
Puppets, trang 249.)
Viết
về người Mỹ tại Việt Nam, linh mục Nguyễn Phương có lúc bộc lộ tinh thần phẫn nộ
và niềm uất ức của ngòi bút sử học như sau: “The work of the US in South Vietnam was, in summary, a work of
destruction, systematic and thorough. There was the destruction of patriotism
and nationalism in the case of Diem’s overthrow and assassination. There was
the destruction of Vietnamese sovereignty by the establishment of a regime of
American puppets by way of aid and advice. There was the destruction of the
Vietnamese society by testing the ‘search and destroy’ strategy which was the
cornerstone of the Kennedy’s counterinsurgency tactics, and which, as Barry
Weisberg remarked, ‘has given way to the incentive to simply destroy.’ Finally,
there was the destruction of all human rights by engineerring a total surrender
of South Vietnam to the Communists.’ “I am uniting Vietnam”, had boasted
Kissinger since 1972.”(Thành tích của Hoa Kỳ ở Nam Việt Nam, tóm lại, là thành
tích phá hủy có hệ thống và toàn diện. Đó là sự phá hủy lòng ái quốc và tinh thần
quốc gia qua việc lật đổ và ám sát cụ Diệm. Đó là sự phá hủy chủ quyền của Việt Nam bằng cách dựng lên một chế độ gồm
toàn những tay bù nhìn Mỹ qua viện trợ và cố vấn. Đó là sự phá hủy xã hội Việt
Nam bằng cách thí nhiệm chiến lược “lùng và diệt” vốn là viên đá gốc trong chiến
thuật phản nổi dậy của chính quyền Kennedy, và điều đó, như Barry Weisberg lưu ý,
đã nhường bước cho sự kích hứng nhằm chỉ để diệt gọn mà thôi. Cuối cùng, đó là
sự phá hủy mọi quyền con người bằng cách bố trí một cuộc đầu hàng của toàn bộ
Nam Việt Nam vào tay Cộng Sản. Từ năm 1972, chính Kissinger từng khoác lác
khoe: “Tôi đang thống nhất Việt Nam.” ( Nguyễn Phương, A parade of American puppets, trang 350)
Sau
đây chúng ta đọc một đoạn tiếp về Cựu Trung Tướng cũng là Cựu TT của VNCH Nguyễn
Văn Thiệu, dưới ngòi bút của sử gia Nguyễn Phương để thấy sự tương phản trong tư
cách của TT Ngô Đình Diệm, vị sáng lập nền Cộng Hòa ở Miền Nam Việt Nam và Tướng
N.V. Thiệu (của nền Đệ II Cộng Hòa): “Thieu
was malleable by nature. Extremely ambitious and perfidious, he was no devotee
of any ideological or nationalistic cause… He was corrupt, but this did not
bother the United States when corruption became a means to widen the American
fre edom of action in another country.”(Bản chất Thiệu vốn dễ bảo. Rất đỗi tham
vọng và hay lừa đảo, ông ta không phải là người có thể tận hiến bản thân cho một
ý thức hệ hay chính nghĩa quốc gia… Ông ta tham nhũng nhưng điều đó không làm bận
tâm người Mỹ khi vấn đề tham nhũng đã trở thành một phương thế giúp cho họ được
tha hồ tự do hành động ở một quốc gia khác.)
Tướng
Thiệu không phải là nhà chính trị vì ông không được học tập, rèn luyện có bài bản
trong môi trường chính trị như TT Ngô Đình Diệm và các bào đệ của Cụ. Theo sự
tiết lộ của Bác sĩ Hồ Văn Châm với báo chí vào năm 1973(?) khi ông làm Tổng
Trưởng Bộ Chiêu Hồi, là vào năm 1946, ông Nguyễn Văn Thiệu đã tham gia Mặt Trận
Việt Minh với chức vụ Huyện Ủy Viên huyện Tri Thủy, Phan Rang. Vì sự tiết lộ này
mà ông Châm bị thất sủng một thời gian. Mới đây ông Nguyễn Quang Duy ở Úc Đại Lợi
có nhắc lại chuyện “ông Thiệu là huyện ủy” trên một số trang mạng trong đó có
Web BBC tiếng Việt nhưng không nói rõ xuất xứ, vả lại câu chuyện cũng không phải
mới mẻ gì với những người hiểu biết. Trong thời gian ở tù Cộng Sản tại trại Nam
Hà (1976-1988, tỉnh Hà Nam Ninh, Bắc Việt), tôi có đọc một cuốn sách nhan đề Books
Changed The World (lâu ngày nên quên tên tác giả) trong đó có một bài
viết liên quan đến Đô đốc Hải quân Hoa Kỳ Charles Turner Joy vốn là Trưởng phái
đoàn đàm phán của Liên Hiệp Quốc tại Hội Nghị Bàn Môn Điếm (trong chiến tranh
Cao Ly). Đô đốc này về sau có viết một cuốn hồi ký ghi lại kinh nghiệm của ông
đối với người Cộng sản, có lẽ trong đó có câu được trích dẫn như sau: “Do not believe in Communist words but look
at Communist deeds”. Lúc bấy giờ khoảng 1985 khi đọc thấy câu nói này, tôi
chợt liên tưởng đến câu khẩu hiệu mà Bộ Thông Tin Dân Vận Chiêu Hồi của ông Hoàng
Đức Nhã ngày nào cũng phát trên hệ thống truyền thanh và truyền hình ở Nam Việt
Nam: “Đừng nghe những gì Cộng Sản nói mà
hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm”. Tôi tự hỏi không lẽ Bộ của ông Hoàng Đức
Nhã lại “cầm nhầm” câu nói đó của Đô Đốc C. Turner Joy để biến ra làm câu danh
ngôn cho ông Tướng Thiệu? Hồ Chí Minh từng ăn cắp câu nói của Quản Trọng, nhà
chính trị có tài nhất thời Xuân Thu (722-479) : Nhất niên chi kế mạc như thụ cốc, thập niên chi kế mạc như thụ mộc,
bách niên chi kế mạc như thụ nhân . 一 年 之 計 莫 如 樹 穀 , 十 年 之 計 莫 如 樹 木 , 百 年 之 計 莫 如 樹 人 nghĩa
là: Vì kế hoạch một năm thì trồng lúa, vì kế hoạch mười năm thì trồng cây, vì kế
hoạch trăm năm thì trồng người. Hồ Chí Minh đã lấy nhiều câu nói của kẻ khác làm
của mình, và việc này đã được nhiều học giả phanh phui. Không lẽ người quốc gia
cũng bắt chước việc làm của người CS sao?
Tôi
viết lại chuyện này trong tinh thần học hỏi và muốn làm sáng tỏ một câu nói lịch
sử nên cũng rất mong đón nhận được kiến giải của giới trách nhiệm ngành truyền
thông của VNCH trước năm 1975.
Một
vị tướng khác, Nguyễn Cao Kỳ cũng nhảy vào chính trường Việt Nam với hai bàn
tay trắng đến đổi Tổng Thống Pháp de Gaulle phải hỏi “Qui est Ky?” thì thật là
xấu hổ cho nhân dân Miền Nam như thế nào!
Trong
cuốn hồi ký chính trị Gọng Kìm Lịch Sử,
(trang 222) Bùi Diễm từng cộng tác với
Phan Huy Quát và thuộc nhóm “Đại Việt Quan Lại” ở Bắc Việt giai đoạn 1945-1954,
bào chữa cho Cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát cho biết khi Hoa Kỳ đổ bộ quân vào Đà
Nẵng ngày 8 tháng 3 năm 1965, Phan Huy Quát có thái độ không bằng lòng nên chỉ
được sứ thần Manfull thông báo chứ không hề được Hoa Kỳ bàn thảo trước và như vậy
có nghĩa rằng chủ quyền Nam Việt Nam đã chết, sau cái chết của Tổng Thống Ngô Đình
Diệm, như nhận định ở trên của sử gia Nguyễn Phương, hay là vĩnh viễn thống thuộc
vào chủ quyền của Hoa Kỳ qua thực tế chứng minh. Với việc đổ quân lên bãi biển Đà
Nẵng, Hoa Kỳ đặt chính phủ của Phan Huy Quát trước sự đã rồi mặc dù trong hồi ký
của Bùi Diễm tác giả này cho biết ông Quát phần nào chưng hửng và bối rối vì sự
việc xảy ra quá đột ngột làm cho ông Quát có giọng nói hơi gắt gỏng, thiếu bình
tĩnh (trang 223).
Trong
cuốn hồi ký Bên Giòng Lịch Sử, hồi ký
1940-1965 của LM Cao Văn Luận (1908-1986) có đoạn kể cuối
năm 1947, Cha Luận vào Huế gặp Ngô Đình Cẩn, Trần Điền (khuynh hướng Đại Việt),
được Trần Văn Lý đề nghị làm Giám đốc Nha Văn hóa Miền Trung, rồi từ Huế đi ra
Đồng Hới (ngụ tại Giáo xứ Tam Tòa) rồi từ đây đi ca-nô ra Quảng Khê lên Ba Đồn
và về xứ Đan Sa trông coi giáo xứ này. Lúc bấy giờ một số giáo xứ đã liên lạc với
người Pháp xin súng để rào làng chống Việt Minh. Từ tháng tư 1948 nghe nói Bảo
Đại về nước. Linh mục Cao Văn Luận từ Quảng Khê vào Đồng Hới và mua vé máy bay
vào Huế. Bửu Lộc đánh điện mời Linh mục Cao Văn Luận lên Đà Lạt ý chừng nhờ
ngài thuyết phục ông Ngô Đình Diệm lúc đó đang ở Đà Lạt ra thành lập một chính
phủ nhưng khi gặp, ông Diệm lắc đầu.
Trong lần gặp đầu tiên, ông Ngô Đình Diệm
đã tỏ ra có những nhận định chính trị rất chính xác và sắc bén:
-Vùng
Cao nguyên này có một tầm quan trọng lớn về chiến lược và kinh tế. Về chiến lược,
nó nằm ở giữa ba quốc gia Việt Miên Lào. Ai chiếm giữ được cao nguyên này có thề
gây áp lực được đối với cả ba quốc gia đó. Người Pháp gọi vùng Cao nguyên là
Hoàng Triều Cương Thổ chỉ là một lối trá hình trên thực thể, chủ tâm của họ là
biến vùng này thành thuộc địa Pháp. Về mặt kinh tế, thì vùng Cao nguyên hết sức
quan trọng đối với Việt Nam trong tương lai. Ở đó chắc chắn có nhiều tài nguyên
thiên nhiên, nhiều khoáng sản chưa được khám phá và khai thác, nhưng chúng ta cần
phải bảo vệ cho Việt Nam. Rồi còn vấn đề thể diện quốc gia, chủ quyền nữa.
Không thể bỗng dưng nhường cho Pháp một vùng đất quan trọng như thế, nằm ngay
giữa lãnh thổ quốc gia, người Việt Nam nào muốn lên lại phải xin thông hành!
Linh mục Cao Văn Luận tiếp lời:
-Cụ
nói đúng. Tôi có đọc một cuốn sách đại ý rằng Pháp muốn ngăn chặn sức bành trướng
của dân tộc Việt Nam về phía Tây, muốn để dân tộc Việt Nam dừng lại ở các miền
duyên hải, còn Pháp thì phải giữ vững vùng Cao Nguyên Trường Sơn, vừa để ngăn
chặn sức bành trướng của dân tộc Việt Nam, vừa canh phòng phía Lào. Như vậy khi
lập Hoàng Triều Cương Thổ, đặt trực thuộc Pháp, thì Pháp đã bắt đầu thi hành
đúng cái chính sách đó rồi.
Trong cuộc chiến tranh 55 ngày giữa Nam
Việt Nam và CS Bắc Việt, Hà Nội đã chiếm được Ban Mê Thuột ngày 10-3-1975 và
sau đó không lâu đã làm chủ Cao Nguyên. Nhiều tư liệu cho biết Tướng Thiệu làm
mình làm mẩy với Hoa Kỳ khi bỏ Cao nguyên và với chiến thuật “đầu to đít teo” mặc
cả với người Mỹ về số tiền viện trợ. Ông Thiệu đã hoàn toàn chối bỏ cương vị là
Tổng Thống VNCH, phủ nhận chủ quyền của dân tộc để biến thành tên ngoại nô, hay
tay sai của một cường quốc, bày đặt mặc cả này nọ với Hoa Kỳ vốn là “boss” của
Thiệu từ khuya. “Khẳng khái tòng vương dị,
thung dung tựu nghĩa nan 肯 慨 從 王 易 , 慵 容 就 義 難 “ (Theo vua đi kháng chiến thì dễ, Thong
thả bước lên đoạn đầu đài thì thật là khó). Câu nói này trong sách Trung Dung của Khổng Tử vẫn là lời nhắc
nhở và cũng là lời thẩm định giá trị của nhiều người trong lãnh vực chính trị.
Nhưng
làm sao có thể buộc những người như Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, Dương Văn
Minh, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Nguyễn Khánh, Đỗ Mậu v. v… và v… v. không biết
chính trị là gì, nhưng lại muốn làm chính trị để được ăn trên ngồi trốc – làm
sao khiến họ tỏ bày được khí phách can trường, coi thường cái chết như TT Ngô Đình
Diệm không chỉ một lần mà nhiều lần, thí dụ cuộc đối đầu với Hồ Chí Minh năm
1946, vụ Hà Minh Trí ám sát cụ Diệm ở hội chợ Ban Mê Thuột 1957, cuộc đảo chính
của Nguyễn Chánh Thi ngày 11-11-1960, cuộc dội bom của Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú
Quốc năm 1962, và nhất là tinh thần quốc gia coi thường cái chết của mình, bảo
vệ cuộc sống của dân lành, quân đội mà nhất quyết không phí phạm xương máu của
người lính dưới quyền? Bọn cầm đầu đảo chính theo lệnh Mỹ đã khinh rẻ xương máu
của những chiến hữu của họ như Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Đại Tá Lê Quang Tung, Thiếu
Tá Lê Quang Triệu, thì họ ngại gì mà không giết TT Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình
Nhu. Ngay cả những người như Ngô Đình Cẩn, Phan Quang Đông vốn là những người đã
tiêu diệt hầu hết cơ sở hạ tằng của CS đến nỗi Nguyễn Văn Linh đã phải thú nhận
rằng từ 50,000 cán bộ CS chỉ còn khoảng 6,000 năm 1963. Công lao như vậy của Ông
Ngô Đình Cẩn chỉ để bị Nguyễn Khánh theo lệnh của Thích Trí Quang là phải trả bằng
cái chết mà thôi. Tài năng và khí phách như Phan Quang Đông từng làm cho hệ thống
tình báo Bắc Việt phải nhiều phen xiểng liểng suốt từ 1954-1963 để rồi bị tử hình
ở sân vận động Huế sau cuộc đảo chính bỉ ổi do Hoa Kỳ giật dây ngày 1-11-1963. Là một người chứng kiến được những việc làm vương
đạo và cũng đầy bá đạo của Hoa Kỳ khắp nơi trên thế giới, nhất là ở Trung Đông,
do bị ám ảnh bởi cái chết của TT Ngô Đình Diệm, Tổng thống Pakistan Ayub Khan đã
nói thẳng với TT Nixon năm 1964 câu nói chí lý sau đây: “that it is dangerous to be a friend of the United States; that it pays
to be neutral; and that sometimes it helps to be an enemy.” nghĩa là: “thật là nguy hiểm khi làm bạn với Hoa Kỳ; đứng
trung lập thì phải trả giá; và đôi khi làm kẻ thù mà hay hơn”. (Richard
Nixon, In the arena, A memoir of victory,
defeat and renewal, Simon and Schuster, New York, 1990, trang 71).
Cuối
cùng, cái chết của TT Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu chính là cái chết có
tính toán như lời ghi nhận của sử gia Nguyễn Phương. Trong cuốn A parade of American puppets, vị giáo sư
sử học nhận định rằng: “He refused to ask
asylum in a foreign country. He did not want to confide his fate into the hands
of another, whosoever he could be. Lodge had tried hard to bring him to safety.
The American ambassador had even asked the Apostolic Delegation to intervene for
Diem to change his mind. But in vain. Diem kept his own counsel, until death
and in spite of death, because by this gesture he meant to keep alive the
sovereignty of his nation. That’s why he was assassinated in South Vietnam on
November 2, 1963.” (Ông ta từ chối xin một chỗ tị nạn ở một nước ngoài. Ông không
muốn giao phó số mệnh của mình vào tay người khác dù bất cứ là ai. Lodge đã cố
thử để đem ông tới chỗ an toàn, kể cả việc viên đại sứ Mỹ này đã xin Tòa Khâm Mạng
Tòa Thánh can thiệp để ông Diệm thay đổi ý kiến nhưng vô hiệu. Ông Diệm vẫn giữ
ý định của mình cho đến chết và bất chấp cái chết, bởi vì với phong thái đó ông
muốn giữa cho chủ quyền quốc gia của ông được sống. Đó chính là lý do vì sao ông
bị ám sát chết ở Nam Việt Nam vào ngày 2 tháng 11, 1963.”46 (Nguyễn
Phương, A parade of American puppets, trang
149).
Sau đoạn văn nêu trên, chúng ta có dịp đọc
vào chú thích số 46 dẫn lời chú của sử gia Marguerite Higgins tác giả cuốn Our
Vietnam Nightmare ( New York, Harper and Row, 1965) về một quan điểm có liên
hệ đến vấn đề chủ quyền và cái chết của TT Ngô Đình Diệm: “Marguerite Higgins quoted a Vietnamese philosophy professor as saying
about the reason why President Ngo Dinh Diem opted to be killed. “If Diem had
sought help of a foreign power, he would have undermined everything he stood
for. It would have destroyed the faith of the people in his integrity and
character. It would have been craven and cowardly for Diem to seek help from
the Americans; more so, because they had betrayed him. He kept faith with his
principles concerning Vietnam’s national sovereignty. He surrended to the
Vietnamese generals, not foreigners. History will applaud this. It may be that
the Americans would have treated Diem more gently than the generals. But as a
Vietnamese, it would have been wrong for Diem to put his trust publicly in
outsiders. As a Vietnamese, he surrended to Vietnamese. The generals killed him
and the onus is on them.” (Marguerite Higgins trích dẫn lời của một giáo sư triết
học khi nói về lý do tại sao Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã chọn việc sẽ bị giết.
“Nếu ông Diệm tìm sự giúp đỡ của một cường quốc bên ngoài thì như thế ông đã đạp
đổ hết mọi cái mà ông từng tranh đấu. Điều đó cũng phá hủy niềm tin mà người dân
đặt vào sự chính trực và cá tính của ông. Điều đó cũng nói lên sự hèn nhát của ông
Diệm khi ông tìm sự giúp đỡ nơi người Mỹ, hơn nữa vì họ đã phản bội ông. Ông giữ
vững sự tin tưởng vào những nguyên tắc của ông liên quan đến chủ quyền dân tộc
Việt Nam. Ông đã đầu hàng các tướng lãnh Việt Nam chứ không đầu hàng người ngoại
quốc. Lịch sử sẽ ca tụng điều đó. Cũng có thể rằng người Mỹ sẽ đối xử với ông
nhã nhặn hơn các tướng lãnh. Nhưng là một người Việt Nam, ông Diệm cho rằng sẽ
là một sai lầm khi đặt hết niềm tin vào người ngoại quốc một cách công khai. Là
người Việt Nam, ông đầu hàng người Việt Nam. Các tướng lãnh đã giết ông và trách
nhiệm lớn cho điều sai lầm trầm trọng này sẽ đổ xuống trên đầu họ.” (Nguyễn
Phương, A parade of American puppets, trang
372).
Đây
là lời giải đáp cho thắc mắc của cá nhân kẻ viết bài này vốn canh cánh từ lâu,
và có lẽ cũng cho nhiều người khi có những bậc vĩ nhân, như TT Ngô Đình Diệm đã
xem cái chết nhẹ tựa lông hồng vì trong con mắt họ lý tưởng ôm ấp mới là điều
cao cả nhất, và bài học chủ quyền của đất nước cần phải là bài học suy tư, nghiền
ngẫm đối với tất cả mọi người, nhất là những người nắm nhiệm vụ trọng yếu là lãnh
đạo đất nước.
LỜI KẾT
Xét cho cùng, bài học chủ quyền không chỉ
có tác động trong lãnh vực chính trị mà còn là tác nhân trong phạm trù luân lý
nữa thí dụ tương quan giữa vua tôi, cha con, anh em, vợ chồng, bằng hữu rộng ra
là người trong một nước tức là tương quan giữa nhà với nước, hay gia với
quốc. Bài học chủ quyền không chỉ có trên sách vở mà còn biểu lộ qua cách sống;
nó không chỉ là một hữu thể nhưng phải thể hiện một tương quan. Có nhiều sắc thái
trong tương quan của người này với kẻ khác, thí dụ như Henry Kissinger, Cố Vấn
An Ninh của TT Nixon thể hiện mối tương quan hận thù, trù dập giữa y với nhân dân
Miền Nam Việt Nam, năm 1975 sau ngày di tản Đà Nẵng, đã thốt lên: “Sao chúng không chết phứt cho rồi” (Why
don’t these people die fast ?) (Nguyễn Tiến Hưng, Khi Đồng Minh tháo chạy, Cơ sở xuất bản Hứa Chấn Minh, 2005, trang
20). TT Ngô Đình Diệm đã thể hiện mối tương quan lo lắng, thương yêu giữa Cụ đối
với đất nước trong thời khắc cuối đời Cụ, năm 1963, trong đó có hàng chục triệu
sinh linh, đồng bào, đồng chí, chiến sĩ quốc gia, hàng chục vạn quân cán chính,
những người mà Cụ đặt hạnh phúc của họ trong nồi cơm của chính họ qua câu hỏi thể
hiện mối tương quan não lòng của Cụ được Đại Úy Đỗ Thọ, tùy viên của Tổng Thống
ghi lại trong nhật ký của mình như sau: Khi rời bỏ Dinh Độc Lập, cũng lối 5 giờ
chiều ngày 1-11-1963, “từ Dinh đi ra xe để
đến nhà Mã Tuyên, cùng với Cụ Ngô Đình Diệm đi trước, có Cố vấn Nhu và ông Cao
Xuân Vỹ. Theo ông Vỹ, Cụ vẫn không tỏ dấu lo lắng gì. Dọc hành lang, Cụ bỗng xé
bầu im lặng, tự nhiên thốt ra: “Phận tui
sao cũng được, nhưng đất nước này sẽ ra thế nào đây?” (Nguyễn Phương tự
Trúc Long, Tưởng niệm một cái chết, Văn
Nghệ Tiền Phong số 285).
Những
người như Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, v.v… khi lên máy bay của Hoa Kỳ
ra khỏi VN những ngày trước khi VNCH sụp đổ, đã nghĩ gì về số phận của một đất
nước còn lại sau một thời gian dài hưởng thụ đã chán chê?
Sau
cái chết của TT Ngô Đình Diệm, giới sử học Hoa Kỳ và nhiều nước trên thế giới đứng
vào phía phe chiến thắng tha hồ chê trách, mạt sát, mạ lị, dèm pha chế độ của nền
Đệ I Cộng Hòa, đạp xuống tận bùn đen trong khi đó cũng có rất nhiều cây bút có
công tâm, cố gắng biện minh cho chế độ của Cụ Diệm trong đó phải kể đến
Marguerite Higgins, Ellen Hammer, Suzanne Labin, Tướng Thomas A. Lane, nhất là
các tài liệu được giải mật của Ngũ Giác Đài tức The Pentagon Papers… Càng ngày
số tác giả truy tầm sự thật về chiến tranh Việt Nam đã đóng góp rất nhiều cho
việc phục hồi sự thật và danh dự cho chế độ của Cụ Diệm, gần đây như tác phẩm của
Mark Moyar, Geoffrey Shaw thuộc về trường phái phi chính thống để chống lại trường
phái chính thống sau năm 1963. Sử gia Mark Moyar, trong tác phẩm Triumph Forsaken (Chiến thắng dang dỡ)
512 trang, đã công bình khi đặt lại giá trị của TT Ngô Đình Diệm và cuốn sách này
đã gây chấn động lớn trong giới sử học Hoa Kỳ cũng như thế giới.
Gần
đây, tác giả Geoffrey Shaw đã dành tất cả sự kính trọng để nói về cái chết của
TT Ngô Đình Diệm như là một cuộc tử đạo (martyrdom) trong cuốn sách có tên The Lost mandate of Heaven, The American
Betrayal of Ngo Dinh Diem, President of Vietnam (Ignatius Press, San
Francisco, 2015, trang 23-24).
Một
số sử gia ngoại quốc khi gọi TT Ngô Đình Diệm là “Nhà Khổng Học cuối cùng” (The
Last Confucean) hay là “Vị quan cuối cùng” (The Last of The Mandarians) đã có vài
hậu ý… nhưng một học giả Trung Hoa, Tiến Sĩ Phùng Hữu Lan (Fung-Yulan) (1895-1990)
là người có quyền uy nhất trong việc trình bày và lý giải triết học Trung quốc
chừng 50 năm trở lại đây, tác giả những bộ sách lớn về triết học Trung Quốc như
Trung quốc Triết học sử, Triết học sử
chính, Trung quốc triết học sử bổ, Tân lý học, Tân nguyên đạo, Tân thế huấn,
Tân sự luận v.v… đã đưa ra một mẫu hình tượng về một bậc minh quân thánh chúa,
có thể như Cụ Diệm, mà ông gọi tên là “nội
thánh ngoại vương” 內 聖 外 王 . Giáo sư Phùng Hữu Lan viết : “Người ta thường bảo rằng nhân cách của thánh
nhân là “nội thánh ngoại vương”. Tức là trong đức tính nội thánh, thánh nhân
hoàn bị sự tu dưỡng tinh thần của mình, và trong địa vị ngoại vương, thánh nhân
cải tạo xã hội. Thánh nhân không nhất thiết phải là một lãnh tụ chính trị.
Trong thực tế, ít có cơ hội cho thánh nhân lên cầm quyền. Câu “nội thánh ngoại
vương” chỉ có ý nghĩa trên mặt lý thuyết: người đạo đức nhất thì đáng làm vua.
Còn trong thực tế người ấy có được làm vua hay không, cái đó không quan hệ.” (His
character is described as one of “sageliness within and kingliness without.”
That is to say, in his inner sageliness, he accomplishes spiritual cultivation;
in his kingliness without, he functions in society. It is not necessary that
the sage should be the actual head of the government in his society. From the
standpoint of practical politics, for the most part, the sage certainly has no
chance of being the head of the state. The saying “sageliness within and
kingliness without” means only that he who has the noblest spirit should,
theoretically, be king. As to whether he actually has or has not the chance of
being king, that is immaterial.” (Fung Yu-lan, A Short History of Chinese Philosophy, A systematic account of Chinese
thought from its origins to the present day, Edited by Derk Bodde, The Free
Press, 1966, page 8).
TT
Ngô Đình Diệm đã từ bỏ quyết định tiên khởi là sống đời tu hành làm linh mục để
dấn thân vào việc nước, rất sùng đạo, tham dự thánh lễ hằng ngày, và trong chiếc
cặp Đỗ Thọ mang theo cho Cụ chiều ngày 1-11 chỉ có một bộ y phục đàng hoàng nhất
của Cụ để dùng vào cái nghi lễ trọng vọng nhất đối với Cụ: Lễ Các Đẳng Linh Hồn
(La Fête Des Morts) vào ngày mai qua dự Lễ và chịu Lễ ở nhà thờ Cha Tam. Theo Đại
úy Thọ, tâm hồn Cụ dường như tất cả để vào cuộc Lễ đó. Phong cách hành sử của Cụ
khi ngồi uống trà ở nhà Mã Tuyên được ghi nhận: “Dáng diệu bệ vệ thường nhật, không thay đổi tí nào” rõ là cung cách
của một thánh nhân hay một đấng quân tử nên việc xưng tụng TT Ngô Đình Diệm là
một bậc “nội thánh ngoại vương” tưởng
cũng rất hợp lý vậy.
NGUYỄN ĐỨC CUNG
Philadelphia, ngày 19 tháng 5 năm 2017