Chủ Nhật, 25 tháng 2, 2018

Đại Việt Sử Thi QIII (Hồ Đắc Duy): Nhà Tiền Lê

         Đại Việt Sử Thi Q. III  (Hồ Đắc Duy)
                                  *
ĐẠI HÀNH HOÀNG ĐẾ (980 - 1005)

( Vua Lê Đại Hành)

Tôn Thập Đạo nối chân Thiên Tử
Năm Canh Thìn khai thái tân quân (980)
Tung hô vạn tuế mấy lần
Vân Nga thái hậu cúi dâng áo bào

Lẽ đương nhiên nhân nào quả ấy
Bộ Lĩnh xưa từng lấy vợ người
Trớ trêu cho cái sự đời
Vợ mình kẻ khác lấy rồi biết không? 
  
Quê Ái Châu Lê Hoàn xưng đế
Lấy vợ vua: Dương thị phu nhân
Con cái, ông đã chia phần
Mười hai đứa dần dần phong vương

Năm Canh Thìn Tống Vương hạ chiếu (980)
Sai Đa Tốn mang biểu thư sang
Vừa đe, vừa dọa, vừa nương
Tung đòn tâm lý dọn đường xuất quân

Tống chia quân ra làm bốn mũi
Hướng Bạch Đằng đường thủy tiến qua
Hội quân ở đất Đại La
Lạng Sơn binh bộ chia ba kéo vào

Hầu Nhân Bảo làm Giao Châu sứ (980)
Tôn Hoàng Hưng, Khâm Tộ theo chân
Lưu Trừng đốc thúc thủy quân
Hơn ba vạn đứa lên đường vượt sang

Hầu Nhân Bảo dương dương tự đắc
Kéo quân vào đi tắt lối sông
Vừa qua gần tới Chi Lăng
Bị ta phục kích giết phăng ngay liền

Giặc khiếp đảm thất điên, bát đảo (981)
Lê Đại Hành vũ bão tiến công
Giặc phơi thây chết đầy đồng
Đánh tan ba vạn quét xong giặc thù


Bắt Phụng Huân, trói gô Quân Biện
Giải giặc Tàu về đến Hoa Lư
Bộ binh Khâm Tộ thua to
Tống Vương xuống chiếu truyền thu quân về

Vua nước Tống suy đi tính lại
Dùng chiến tranh không khỏi thương vong
Chi bằng đưa chế sách phong
Giữ cho thông hiếu được lòng hai bên

Lê Đại Hành nắm quyền quân lữ
Sai Tử An mở lộ Bắc Nam (992)
Thân hành đánh chiếm Nam Man
Chém Bê Mi Thuế kinh hoàng dân Chiêm

Vì trước đó người Chiêm bắt giữ
Quan Từ Mục, Ngô Tử Canh sang
Đưa thư hỏi tội Hoàn Vương
Lâu nay không thấy đưa sang cống triều

Trăm cung nữ bắt theo về nước (982)
Lẫn bạc vàng lấy được trong cung
Nhà sư Thiên Trúc bị cùm
Theo quân chiến thắng đi cùng di quan

Vua ra lệnh phá tan tông miếu
Hủy thành trì quốc bửu thu gom
Đánh Chiêm một trận thất hồn
Rửa xong cái nhục dám giam sứ thần 

Đối với Tống dần dần thông hiếu
Sai sứ thần dâng biểu Ung Hy
Xin làm tiết trấn biên thùy (985)
Đến năm Thuần Hóa phong vì Quận Vương (995)

Khéo ngoại giao khi cường, khi nhược
Lúc sứ thần Lý Giác sang thăm (987)
Vua sai Sư Thuận giả làm
Chèo đò đưa sứ, đối ngâm thơ rằng:

Nga nga lưỡng nga nga, 
Ngưỡng diện hướng thiên nha. 
(Ngỗng ngỗng hai con ngỗng, 
Ngữa mặt nhìn chân trời).
Pháp sư đương cầm chèo, theo vần làm nối đưa
 cho Giác xem: 
Bạch mao phô lục thủy, 
Hồng trạo bãi thanh ba. 
(Nước lục phô lông trắng, 
Chèo hồng sóng xanh bơi). 

Giác càng lấy làm lạ, khi về đến sứ quán, làm thơ gửi tặng: 
Hạnh ngộ minh thì tán thịnh du,
Nhất thân nhị độ sứ Giao Châu. 
Đông Đô lưỡng biệt tâm vưu luyến, 
Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu.
 Mã đạp yên vân xuyên lãng thạch, 
Xa từ thanh chướng phiếm trường lưu. 
Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu. 
Khê đàm ba tĩnh kiến thiềm thu.

(May gặp thời bình được giúp mưu, 
Một mình hai lược sứ Giao Châu. 
Đông Đô mấy độ còn lưu luyến, 
Nam Việt nghìn trùng vẫn ước cầu.
Ngựa vượt khói mây xuyên đá chởm, 
Xe qua rừng biếc vượt dòng sâu. 
Ngoài trời lại có trời soi nữa. 
Sóng lặng khe đầm bóng nguyệt thâu)

Thuận đem thơ này dâng lên. Vua cho gọi sư Ngô Khuông Việt đến xem. Khuông Việt nói: "Thơ này tôn bệ hạ không khác gì vua Tống."  Vua khen ý thơ, tặng cho rất hậu . Khi Giác từ biệt ra về, vua sai Khuông Việt làm bài hát300 để tiễn, lời rằng: 
Tường quang phong hảo cẩm phàm trương, 
Dao vọng thần tiên phục đế hương. 
Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lang, 
Cửu thiên quy lộ trường. 
Tình thảm thiết, 
Đối ly trường, 
Phan luyến sử tinh lang. 
Nguyện tương thâm ý vị biên cương, 
Phân minh tấu ngã hoàng301 . 

(Nắng tươi gió thuận cánh buồm giương, 
Thần tiên lại đế hương. 
Vượt sóng xanh muôn dặm trùng dương, 
Về trời xa đường trường. 
Tình thắm thiết, 
Chén lên đường, 
Vin xe sứ vấn vương. 
Xin đem thâm ý vì Nam cương, 
Tâu vua tôi tỏ tường)

Hai người ứng đối văn chương
Giác càng kính phục lên đường tấu lên

Lệnh trả liền bọn Quách Quân biện
Là tù binh trong trận Chi Lăng
Nhân khi Sứ Tống sang thăm
Tỏ tình hòa hiếu nhún nhường của ta

Vua cầm quyền, trông xa thấy rộng
Là một người lương đống tài cao
Giỏi tài nội trị ngoại giao
Giỏi tài khai khẩn vét đào kênh mương

Năm Quý Mão (1003) trên đường thị sát
Kênh Đa Cái hết nước cạn khô
Vua liền ra lệnh truyền cho
Quân dân nạo vét để đưa nước vào 
 
Giặc Cử Long lâu lâu quấy rối
Vua đích thân di tới Cùng Giang
Điều quân, bày trận dọn đường
Kêu trời ba tiếng đánh tràn, giặc tan
Nam Bình Vương tước phong của Tống
Vì bãi binh ở Trấn Như Hồng
Vua Tàu cũng muốn đẹp lòng
Nên sai sứ đến tâng công cho ngài

Việc Ất Mùi (995) quan quân Giao Chỉ
Trăm chiến thuyền trực chỉ Trung Hoa
Hành quân tốc chiến từ xa
Như Hồng thị trấn vòng qua đánh vào

Châu Tô Mậu, Ung Châu nước Tống
Cũng bị ta chiếm đóng mấy ngày
Chiếm rồi cho rút ra ngay
Để mà nhắc nhở cho người biết ta

Sai quan nha đúc tiền Thiên Phúc (984)
Xây thêm lầu Long Lộc, Trường Xuân
Dựng nhà trên núi Đại Vân
Điện vàng, Điện bạc sức dân đổ vào

Đối với nước tài cao trông thấy
Nhưng việc nhà chẳng mấy kỹ cương
Anh em không biết nhún nhường
Mưu giành ngôi báu tranh vương đoạt quyền


(Đền thờ vua Lê Đại Hành ở Hoa Lư - Ninh Bình)

(Đền thờ vua Lê Đại Hành ở Thanh Hóa)

TRUNG TÔNG HOÀNG ĐẾ (1005)
Điện Trường Xuân vào năm Ất Tỵ
Vua băng hà chiếu chỉ truyền ngôi
Anh em giành giật ghế ngồi
Cuối cùng Long Việt lên ngôi cửu trùng

NGỌA TRIỀU HOÀNG ĐẾ (1005 -1009)

Lê Long Đỉnh vô cùng tức tối
Giết anh mình để nối ngôi vua
Sửa quan chế đổi triều xưa
Rập khuôn theo đúng kiểu như bên Tàu (1006)

Mẹ Long Đỉnh tên Hầu Di Nữ ?
Là một người gốc ở Champa
Hai vua bà đã sinh ra
Nửa mang máu Việt, nửa là Champa

Long Đỉnh có: bốn bà hoàng hậu
Xin vua Tàu áo mũ dát vàng (1009)
Tống triều chấp thuận gởi sang
Vua mang trâu trắng đem dâng Bắc Triều (1007)

Theo Sử ký lắm điều quái đản
Được gán cho Long Đĩnh - Minh vương
Một là dâm đãng bạo tàn
Hai là ác đức coi thường mạng dân? 
 
Như chuyện lấy: thằn lằn làm gỏi
Bắt trẻ thơ ra gọi cho ăn
Bắt người trấn nước sủi tăm
Bắt người xẻo thịt, bắt nằm chuồng heo

Bắt trèo cây cheo leo cao vút
Đốn gốc cho rớt xuống coi chơi 
Cỏ tranh lấy quấn vào người
Rồi đem đốt lửa vua tôi giải sầu
Lại róc mía trên đầu sư trọc
Rồi giả vờ như sóc nhằm gai
Thả tay vua để dao rơi
Đầu sư gội máu, vua cười vỗ tay

Vua lại sai cho người bắt rắn
Bỏ vào quần để đặng dọa chơi
Lão bà hoảng vía la trời
Vỗ tay thích chí vua cười bò lăn

Lúc thiết triều vua nằm nghiêng ngả
Bởi vì người đã quá ham mê
Rượu chè, dâm dật ê chề
Mắc thêm bệnh trĩ khó bề ngồi lâu

Tên "Ngọa triều" bắt đầu từ đó
Tẩm điện lâu là chỗ vua băng
Đồng dao lên tiếng hát rằng:
"Ngọa triều hoàng đế" là thằng quái thai 

Có một điều mà đời chẳng hiểu
Tại sao vua dâng biểu xin kinh? (1007)
Đắp đường, dựng cột, đào kênh?
Đóng thuyền để chở bộ hành sang sông? (1009)

Trong bốn năm coi trông việc nước
Đã năm lần chinh phạt phiến quân
Nếu vua là kẻ hôn quân
E rằng phải xét cân phân mọi bề
Nhà Tiền Lê tuyệt dòng từ đấy
Kỷ Dậu niên triều ấy mất ngôi (1009)
Cầm quyền hăm chín năm trời
Thay vua họ khác hai ngày lạ chưa? !

Đã mấy lần cơ đồ nguy biến
Cảnh sơn hà lâm nạn chiến tranh
Quốc gia chìm nổi gập ghềnh
Cuối cùng vẫn thắng xích xiềng ngoại bang.

(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào: