Thứ Bảy, 17 tháng 2, 2018

Đại Việt Sử Thi Q.II (Hồ Đắc Duy): Thời đại Bắc Thuộc Tùy Đường (603-938)

          Đại Việt Sử Thi Q. II  (Hồ Đắc Duy)

                                                                      *
THỜI ĐẠI BẮC THUỘC TÙY ĐƯỜNG (603 - 938)

Đất Việt Thường, vào tròng lệ thuộc (603)
Quân Tùy, Đường lần lượt kéo sang
Dưới giày xâm lược ngoại bang
Nước non xơ xác hoang tàn thảm thương

Bọn Bắc phương đánh hơi thấy lửa
Nghe Lâm Ấp vàng quả thật nhiều
Lưu Phương được phái đem theo
Quân hơn một vạn vượt đèo đánh sang

Vua Phạm Chí chận đường đánh trả
Quân nhà Tùy bèn giả chạy thua
Đột nhiên quay lại đánh vào
Trung quân phản kích làm vua chạy dài

Nhà Tùy mất, Đường sai Đạo Hựu
Sang Giao Châu phủ dụ Khâm Hòa
Là người khét tiếng điêu ngoa
Khâm Hòa Thái Thú xin qua chầu hầu (618)

Y cướp bóc trân châu ngọc quý
Khi về Tàu, làm lễ dâng lên
Địa đồ, sổ bộ tịch điền
Của dân Nam Việt không quên một vùng

Đường Thái Tông đổi tên thành Phủ (622)
Xứ Việt Thường xưa gọi Giao Châu
Nay thì được gọi như sau
An Nam Độ Hộ thuộc Tàu từ đây

LÝ TỰ TIÊN (687)
Quan cai trị mặc tay vơ vét
Của trong dân thu hết làm riêng
Có người tên Lý Tự Tiên
Hưng binh khởi nghĩa đứng lên diệt thù (687)

Vì lực ít, khó cơ chiến thắng
Bị giặc Tàu vây hãm đó đây
Về sau bị bắt, lưu đày
Quân tan, binh vỡ tiếc thay anh hùng

ĐINH KIẾN (687)
Tướng của người là ông Đinh Kiến (687)
Gom tàn quân quyết chiến tới cùng
Đánh thành vây phủ tấn công
Giết tên Đô Hộ dẹp xong lũ này

Vua nhà Đường cử ngay Tư mã
Tào Trực Tỉnh qua ngã Quế Châu
Phục binh giết Kiến trả thù
Cho tên Đô Hộ bấy giờ tham lam

MAI HẮC ĐẾ (722)

(Khu di tích lịch sử Mai Hắc Đế)

Mấy trăm năm, mấy đời Bắc thuộc
Bị đói nghèo trói buộc triền miên
Bọn quan, nha lại đương quyền
Làm điều thất đức đảo điên lòng người

Dân bất mãn khắp nơi ta thán
Mong có người báo hận cho dân
May thay có bậc thánh nhân
Quê làng Mai Phụ, Nam Đàn, Nghệ An
  
Thuở thiếu thời ông ham học hỏi
Là người con hiếu thảo vô cùng
Chăn trâu, cắt cỏ trong vùng
Được người yêu mến, xóm làng ngợi khen

Nhâm tuất (722) niên phất cờ khởi nghĩa
Lập căn cứ ở tại Hùng Sơn
Xây thành tên gọi Vạn An
Binh lương khí giới sẵn sàng ra quân

Cả toàn dân đến nơi Can Lộc (713)
Một lòng trừ ngoại tộc Bắc Phương
Thề nay đánh đuổi giặc Đường
Trừ quân xâm lược nhiễu nhương giống nòi

Năm Quý Sửu lên ngôi Cửu Ngũ (713)
Ngài là người đất cũ Hoan Châu
Thu về đất nước đã lâu
Bị Tàu đô hộ cất đầu không lên
Năm Giáp Dần (714) đuổi tên Đô Hộ
Là Sở Khách ra khỏi Giao Châu
Từ đây sạch bóng quân thù
Toàn dân mở hội khởi đầu kỷ nguyên

Ba hai châu thu liền một mối
Một Vương quyền phục vụ cho dân
Ngoại giao các nước ở gần
Lâm Ấp, Chân Lạp, Kim Lân để cùng

Lập thế chung: Tìm đường giữ nước
Khai sinh ra chiến lược liên hoàn
Họp cùng các nước lân bang
Tạo thành sức mạnh sẵn sàng đấu tranh
Bốn mươi vạn dân binh các nước
Làm kinh hồn lũ cướp Bắc phương
Mười năm ròng rã vua Đường
Vạch xong kế hoạch lên đường xuất quân

Dương Tư Húc làm quan Vệ Tướng (722)
Tiến quân vào theo hướng Phục Ba
Húc theo đường cũ đi qua
Từ Khâm Châu đến chỉ vừa một đêm

Trong thoáng chốc đã lềnh quân giặc
Ùa vào theo lối tắt đường sông
Quân ta bối rối vô cùng
Những nơi xung yếu lọt vòng bao vây
Mai Hắc Đế rời ngay khỏi phủ
Rút vào rừng đánh trả địch quân
Binh lương, khí giới hao dần
Quân cùng lực cạn mười phần còn hai

Nước độc lập đã mười năm chẵn (712 - 722)
Ngài mất rồi nhưng vẫn còn đây.
Tiếc thương không nói nên lời
Đền Mai Hắc Đế sáng ngời khói hương

Hùng cứ châu Hoan đất một vùng,
Vạn An thành lũy khói hương xông,
Bốn phương Mai Đế lừng uy đức,
Trăm trận Lý Đường phục võ công.
Lam Thủy trăng in, tăm ngạc lặn,
Hùng Sơn gió lặng, khói lang không.
Đường đi cống vải từ đây dứt,
Dân nước đời đời hưởng phúc chung

(Còn tiếp)




Không có nhận xét nào: