Trời vào xuân, mời bạn thơ thưởng thức vài nét đẹp qua một bài thơ xuân của thi nhân chúng ta ngày xưa.
Thân
ML
Thư Trai Xuân Mộ
( Nguyễn Như Đỗ )
Thành Nam xuân sắc mộ
Mao ốc yểm sài qùynh
Xế bạn đài ngân lục
Đình tiền thảo sắc thanh
Điểu đề hoa tự lạc
Khách chí mộng sơ tinh
Tận nhật nhàn vô sự
Nghiên châu điểm Dịch Kinh
Dịch nghĩa:
Phía nam thành xuân đã muộn
Nhà tranh cửa sài đã đóng kín
Bờ thềm ngấn rêu biếc
Trước sân cỏ màu xanh
Chim hót hoa tự rụng
Khách đến vừa tỉnh mộng
Suốt ngày nhàn rổi không việc gì
Mài son chấm câu trong Kinh Dịch
Dịch Thơ :
Trai Phòng cuối Xuân
(1)
Thành Nam xuân đã phai
Nhà tranh kín cổng sài.
Biêng biếc bờ rêu phủ
Xanh um cỏ sân ngoài
Hoa rơi chim ríu rít
Khách đến tỉnh mộng say.
Suốt ngày trong nhàn nhã
Kinh Dịch điểm son mài
Mailoc
(2)
Thành Nam xuân muộn nắng phai phai,
Một túp lều tranh kín cổng sài.
Biêng biếc bờ rêu phơi ngõ trước,
Xanh um thảm cỏ trải sân ngoài.
Chim ca ríu rít nhìn hoa rụng,
Khách đến rộn ràng tỉnh mộng say.
Nhàn rỗi suốt ngày không sự việc
Điểm khuyên Kinh Dịch đỏ son mài.
Mailoc
Nguyễn Như Ðỗ 阮如堵 (1424-1525) tự Mạnh An, hiệu Khiêm Trai, người xã Đại Lan, huyện Thanh Đàm (nay là thôn Đại Lan, xã Duyên Hà, huyện Thanh Trì); trú quán tại xã Tử Dương, huyện Thượng Phúc (nay là thôn Tử Dương, xã Tô Hiệu, huyện Thường Tín, Hà Nội). Năm 18 tuổi, đỗ Hội nguyên, Đệ nhất giáp tiến sĩ, Đệ nhị danh (Bảng nhãn) khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo, đời Lê Thái Tông (1442). Làm quan đến Lại Bộ Thượng Thư kiêm Tế Tửu Quốc Tử Giám, hàm Thiếu Bảo. Ba lần được cử đi sứ (các năm 1443, 1450, 1459). Về trí sĩ. Tác phẩm hiện còn 6 bài thơ được chép trong Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét