Thứ Bảy, 6 tháng 10, 2018

Thơ Trần Quang Triều (Bài viết của Đỗ Chiêu Đức)

                Thơ TRẦN QUANG TRIỀU



            Người gìn giữ ngôi chùa tâm linh của quê hương

           Trần Quang Triều 陳光朝, (1287 -1325) còn có tên là Nguyên Đào, biệt hiệu làCúc Đường chủ nhân (菊塘主人) và Vô Sơn Ông (无山翁), là một nhà chính trị, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần, làm quan đến chức Tư đồ (tể tướng) thời Trần Minh Tông. Ông còn là một cư sĩ Phật giáo mộ đạo và là nhà thơ.
           Trần Quang Triều 陳光朝 là con trai của Trần quốc Tảng, cháu nội của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Năm 14 tuổi được phong tước Văn huệ Vương. Tài cả văn lãn võ, tuy nhiên ông không ham công danh phú quý, khi vợ mất ông đã có ý muốn cáo quan về. Cuối cùng được về ẩn cư nơi am Bích Động, gần chùa Quỳnh Lâm, nay thuộc huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, Ông lập ra thi xã Bích Động xướng họa cùng các bạn thơ như Nguyễn Sưởng, nguyễn trung Ngạn... Năm 1324 vua Trần Minh Tông triệu ông ra gánh vác việc nước, nhưng chẳng được bao lâu thì mất. Tác phẩm của ông còn tập Cúc Đưong Di Cảo đã thất lạc, hiện chỉ còn một ít bài thơ. 

       Sau đây là những bài thơ tiêu biểu của ông:

1. Bài thơ Quy Chu Tức Sự:
 
 歸舟即事             QUY CHU TỨC SỰ
 
    Inline image

詭遇念殊輕,     QUỶ (NGỤY) ngộ niệm thù khinh, 歸心夢自縈。     Quy tâm mộng tự vinh. (OANH).鳥啼煙樹沒,     Điểu đề yên thụ một, 帆帶夕陽行。     Phàm đới tịch dương hành. 秋削山容瘦,     Thu tước sơn dung sấu, 潮開水鑑明。     Triều khai thủy giám minh. 醉翁渾未醒,     Túy ông hồn vị tỉnh, 紅葉滿江城。     Hồng diệp mãn giang thành. 
     陳光朝                     Trần Quang Triều.
 
*  Chú Thích :
       Về nghĩa của bài thơ tôi xin chú thích vài từ đặc biệt:

  (1). QUỶ 
 : là Gian xảo, Dối trá, như QUỶ KẾ Đa Đoan. Từ nầy còn được đọc là NGỤY, Ví dụ như NGỤY BIỆN chẳng hạn. Trong bài thơ được phiên âm là QUỶ NGỘ, e là không được chính xác, thiết nghĩ, nên phiên âm là NGỤY NGỘ thì đúng hơn. NGỤY NGỘ có 2 nghĩa:
    a ). Sự gặp gỡ được xếp đặt một cách giả dối.
    b ). Gặp phải toàn những chuyện dối gian xảo trá.
 
  (2). THÙ  : là Khác nhau, là Đặc Biệt, nên THÙ KHINH là: Đặc biệt xem nhẹ, có nghĩa là Xem rất nhẹ.

  (3). VINH (OANH ) 
 : Từ nầy đúng ra phải đọc là OANH, nhưng vì muốn cho ăn vận với từ KHINH ở trên nên mới đọc là VINH (Ví dụ như: Cổ Kim đọc trại thành Cổ Câm vậy). 
    OANH 
 : có nghĩa là Quanh Quẩn, Lòng Vòng, Lởn vởn, Vương Vấn... Trong bài thơ là: Mộng Tự Oanh là Cứ lởn vởn mãi trong giấc mộng của mình hoài!
         Hai câu thơ đầu có nghĩa:
     Trong Ý niệm thì rất xem nhẹ những cuộc gặp gỡ giả dối, không chân thật. Nhưng, trong lòng (quy TÂM) thì khi  về (những cái giả dối đó) cứ lởn vởn mãi cả trong giấc ngủ (Cứ bận lòng mãi về những chuyện đó). Cho nên...
     2 câu Thực :
           Chim kêu khuất trong đám cây lồng khói,
           Cánh buồm đi ngang theo bóng chiều tà.
     Một câu tả cảnh mơ hồ không rõ ràng, một câu là hình ảnh hiển hiện trước mắt của cánh buồm trong buổi chiều tà...

     2 Câu Luận cũng thế:
           Hơi thu đẽo gầy dáng núi,
           Triều lên, mặt nước như gương sáng.
     Cảnh trí cũng như cuộc đời, cái giả dối gian trá mơ hồ hòa lẫn trong cái rõ ràng chân thật của cuộc sống, nên chi...
 
      2 câu Kết :
        
醉翁渾未醒,     Túy ông hồn vị tỉnh, 
        
紅葉滿江城。     Hồng diệp mãn giang thành.

     Ông già say hầu như (hồn 渾 là Hầu như) chưa chịu tỉnh dậy (vì ngán ngẫm cho nhân tình thế thái), để mặc cho lá thu đỏ thắm rơi đầy cả trên sông chảy ra ngoại thành!

 * DIỄN NÔM :
 
        TỨC CẢNH SỰ ĐỜI KHI THUYỀN VỀ

               Xem thường đời gian dối,
               Sao lòng mãi vấn vương.
               Chim kêu trong mây khói,
               Thuyền đi dưới gió sương.
               Thu về sơ xác lá,
               Nước đầy lấp lánh gương.
               Lão say chưa muốn tỉnh,
               Mặc lá đổ muôn phương!
Lục bát :
               Tình đời giả dối xem khinh,
               Trở về với mộng tự mình lân la.
               Khói vương cây, tiếng chim ca,
               Nắng chiều nghiêng đổ buồm xa đi về.
               Núi thu xơ xác   ê,
               Nước thu trong vắt tư bề lăn tăn.
               Say mèm chẳng tỉnh riêng ông,
               Lá thu rơi đỏ cả sông cả thành!
                                 Đỗ Chiêu Đức

              Inline image

2. Bài thơ Đề Gia Lâm Tự:

              Đề Gia Lâm Tự 

     Tâm hôi oa giác mộng,
。     Bộ lý đáo thiền đường.
,     Xuân vãn hoa dung bạc,
。     Lâm u thiền vận trường.
,     Vũ thâu thiên nhất bích,
。     Trì tịnh nguyệt phân lương.
,     Khách khứ tăng vô ngữ,
滿。     Tùng hoa mãn địa hương.
         陳光朝                Trần Quang Triều

    
* Chú thích:
   - Chùa Gia Lâm ở xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội.
    - Tâm Hôi : Tâm là Lòng, Hôi là Tro. Ý chỉ Lòng đà nguội lạnh như đống tro tàn.
    - Oa Giác : Oa là con Ốc, Giác là Sừng thú. OA GIÁC: là Tù Và làm bằng vỏ ốc hay sừng thú. Trong bài thơ "Chiều Hôm Nhớ Nhà" bà Huyện Thanh Quan đã viết:
                    “ Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,                      Tiếng ỐC xa đưa vẳng trống dồn."
   - Bộ Lý : Bộ là Bước, Lý là Bàn chân. BỘ LÝ : là Tản bộ, Đi bộ.
   - Hoa Dung : là Dung mạo của hoa, Ý chỉ Màu sắc của hoa.
   - Thiền Vận : là Âm vận của tiếng ve, Ý nói tiếng ve ngân nga.
   - Vũ Thu : là Mưa tạnh. Trì Tịnh: là Ao nước trong.

* Nghĩa bài thơ :
                          Cảm Đề Chùa GIA LÂM
          Lòng đà nguội lạnh chợt tỉnh mộng sau tiếng ốc xa xa, ta lần bước thả bách bộ đến thiền đường. Mùa xuân sắp tàn nên màu hoa cũng nhợt nhạt và trong rừng rậm thâm u tiếng ve đã ngân dài, trời đã bắt đầu vào hạ. Mưa vừa tạnh nên sắc trời trong biêng biếc, ao nước trong nên bóng trăng có vẻ lạnh lùng. Khách đã đi rồi nhưng nhà sư vẫn lặng im không nói, trong khi hoa phấn thông rụng xuống làm cho mặt đất toả ngát mùi hương.
         Bài thơ toả lên một ý thiền man mát nhẹ nhàng trong cảnh thanh u của nơi Phật tự, mặc cho thời tiết đổi thay, mặc cho cảnh trí nên thơ, mặc cho những tiếng động xung quanh dù rất nhỏ... nhà sư vẫn trầm mặc thản nhiên im lìm như không hay biết gì, khách đi vẫn cứ đi, hoa rụng vẫn cứ rụng, hương bay mặc hương bay...

* Diễn Nôm :
                    Tiếng ốc khơi lòng nguội,
                    Lần bước đến thiền đường. 
                    Xuân tàn màu hoa nhạt,
                    Rừng vắng tiếng ve suông.
                    Mưa tạnh trời xanh biếc,
                    Ao trong trăng tựa gương.
                    Khách đi tăng trầm lặng,
                    Mặc hoa rụng ngát hương !
  Lục bát :
                    Lạnh lòng tiếng ốc choàng mơ,
                    Bâng khuâng lần bước thẩn thơ thiền đường.
                    Xuân tàn hoa đã nhạt hương,
                    Tiếng ve vào hạ vấn vương nỗi niềm.
                    Sau mưa xanh biếc trời êm,
                    Nước ao trong vắt trăng thêm lạnh lùng.
                    Khách đi, tăng vẫn ung dung,
                    Mặc hoa thông rụng một vùng ngát hương!

                                       Đỗ Chiêu Đức 

3. Bài thơ Chu Trung Độc Chước :

  舟中獨酌                   Chu Trung Độc Chước  
    
秋滿山城倍寂寥        Thu mãn sơn thành bội tịch liêu, 
家書不到海天遙        Gia thư bất đáo hải thiên diêu.
人情疏密敲蓬雨        Nhân tình sơ mật xao bồng vũ,
世態高低拍漫潮        Thế thái cao đê phách mạn triều.
松菊故交嗟異路        Tùng cúc cố giao ta dị lộ,
琴書歲晚喜同條        Cầm thư tuế vãn hỷ đồng điều. 
幾多磊塊胸中事        Kỷ đa lỗi khối hung trung sự,
且向樽前試一驕 !       Thả hướng tôn tiền thí nhất kiêu!    
              陳光朝                       Trần Quang Triều 
                    
       Image result for môt mình uống rượu trong thuyền
*Chú thích :
   - Chu Trung Độc Chước: là Một mình chuốc rượu trong thuyền.
   - Bội : là Gấp đôi, ở đây là Trạng từ, có nghĩa là Càng thêm...
   - Sơ : là Thưa, Mật: là Dầy. nên Nhân Tình Sơ Mật: có nghĩa là Tình người khoan nhặt, là Nhân tình ấm lạnh.
   - Thế Thái Cao Đê : là Thói đời cao thấp.
   - Ta : là Ta thán. Ta Dị Lộ : là Than vì chẳng chung đường.
   - Hỉ : là Mừng. Hỉ Đồng Điều : là Mừng vì cùng chung một điệu với nhau.
   - Lỗi Khối : là Chất Chồng, Chồng chất.
   - Thả... Thí : là cặp Tán thán từ (interjection) có nghĩa: Thôi thì... hãy thử... Tôn: là Chai rượu. Kiêu là Kiêu Ngạo, là Liều lĩnh, nên câu cuối "Thả hướng tôn tiền thí nhất kiêu" có nghĩa: Thôi thì hãy thử mượn chai rượu mà chơi liều một chuyến xem sao!

* Nghĩa bài thơ :
                         Tự Chuốc Rượu Trong Thuyền
         Mùa thu đã về đầy cả núi cả thành khiến lòng càng cảm thấy cô đơn buồn bã. Thư nhà không đến được với nơi chân trời góc bễ xa xôi nầy. Tình người thì nhặt thưa ấm lạnh như mưa vổ vào mui thuyền khi khoan khi nhặt, còn thói đời thì phân chia cao thấp như nước thủy triều khi lên khi xuống. Những người bạn cố tri như tùng và cúc của ta thì than ôi đều có hướng đi riêng, chỉ có cầm và thư thì theo ta đến già như người đồng điệu. Biết bao nhiêu là chuyện chất chồng ở trong lòng ta, thôi thì hãy mượn chai rượu nầy thử liều say một chuyến xem sao!

* Diễn Nôm:
                    Thu về khắp lối thêm buồn bã,
                    Góc bể thư nhà khó đến nơi.
                    Ấm lạnh tình người mưa lớn nhỏ,
                    Thấp cao thói tục nước đầy vơi
                    Cố giao tùng cúc giờ riêng lối,
                    Già cỗi đàn thư ấy bạn đời.
                    Trăm mối ngổn ngang lòng lẩn thẩn,
                    Thử xem chén rượu có buồn lơi !
   Lục bát :
                    Thu về thành núi buồn trông,
                    Chân trời góc bể khó mong thư nhà.
                    Tình người ấm lạnh mưa sa,
                    Thói đời cao thấp như là nước sông.
                    Cố giao tùng cúc hết mong,
                    Tuổi già hủ hỉ một lòng cầm thơ.
                    Ngổn ngang dạ rối dường tơ,
                    Thử nhờ chén rượu ơ hờ xem sao !

                                      Đỗ Chiêu Đức

4. Bài thơ Đề Phúc Thành Từ Đường:

               Đề Phúc Thành Từ Đường
,   Vân tự du du tuế nguyệt thâm,。   Từ đường lưỡng bạn bách sâm sâm.
宿,   Hoa ngưng túc vũ thiên hàng lệ,
。   Nguyệt ấn hàn đàm nhất phiến tâm.,   Đài hạ thảo phân kim nhựt lộ,
。   Tùng trung hạc thức cựu thời cầm.
,   Dạ lai ký đắc đăng tiền mộng,?    Hải khoát thiên cao hà xứ tầm ?
             陳光朝                     Trần Quang Triều  

      Image result for 海闊天高何處尋          
 * Chú thích :
    - Sâm Sâm  :  Hai chữ Sâm Sâm được ghép bởi 6 chữ MỘC 木 là cây, nên SÂM SÂM có nghĩa là: Âm u, U ám.
    - Túc Vũ : là Mưa đêm.
    - Hàn Đàm : là Đầm nước lạnh.
    - Hạc Thức : là Chim hạc nhận biết được.    
    - Đăng Tiền Mộng: là Nằm mơ dưới ánh đèn.   
    - Hải Khoát Thiên Cao: là Biển rộng trời cao, Ý chỉ trời nước mênh mông.

* Nghĩa bài thơ :
                        Đề Từ Đường Phúc Thành
          Mây tự mình trôi trôi theo tháng ngày qua đi dằng dặc, hai bên từ đường những cây tùng cây bách mọc thâm u vắng lặng.  Những cánh hoa còn ngưng đọng lại những hạt mưa đêm nhỏ xuống như ngàn hàng lệ, và bóng trăng in xuống bên đầm nước lạnh lùng như một tấm lòng trong sáng. Dưới đài cỏ chia ra lối đi của ngày hôm nay, trong rừng tùng tiếng chim hạc như nhận ra được cung cầm của ngày xưa cũ. Đêm đến lại nhớ về giấc mộng trước đèn, nhưng biển rộng trời cao biết nơi đâu mà tìm kiếm?!

* Diễn Nôm :
                   Tháng ngày dằng dặc tựa mây ngàn,
                   Tùng bách thâm u xếp mấy hàng.
                   Ngàn giọt lệ mưa đêm đổ xuống,
                   Một lòng đầm lạnh ánh trăng tan. 
                   Dưới đài cỏ rẻ đường chia lối,
                   Trong khóm thông reo hạc nhớ đàn.
                   Đêm đến trước đèn luôn nhớ mộng,
                   Trời cao biển rộng biết hà phang ?!
   Lục bát :
                   Mây trôi ngày tháng dần trôi,
                   Thâm u tùng bách xếp đôi từ đường.
                   Mưa đêm hoa cũng lệ tuôn,
                   Trăng soi đầm lạnh vấn vương chút lòng.
                   Dưới đài đường cỏ rẻ phân,
                   Trong thôn hạc lắng tiếng cầm ngày xưa.
                   Trước đèn nhớ mộng đêm mưa,
                   Trời cao biển rộng tìm chưa được tìm !

                                          Đỗ Chiêu Đức

5. Bài thơ Trường An Hoài Cổ :

                    Trường An Hoài Cổ 

,   Hà nhạc chung tồn cố quốc phi,
。   Sổ hàng lăng bách bối tà huy.
,   Cựu thời vương khí mai thu thảo,
。   Mộ vũ tiêu tiêu dã điệp phi.
         陳光朝                         Trần Quang Triều  

         Inline image
* Chú Thích :
   - Hà Nhạc : Hà là Sông ; Nhạc là Núi; nên Hà Nhạc là Sông núi, chỉ đất nước, giống như từ Sơn Hà 山河 vậy. Chung Tồn: là Rốt cuộc vẫn còn. Cố Quốc Phi: là Nước cũ đã không phải nữa rồi.
     Nên câu: "Hà nhạc chung tồn cố quốc phi" có nghĩa: Sông núi chung cuộc vẫn còn, nhưng nước cũ thì đã không còn nữa. Câu thơ đầu của bài thơ nầy làm ta nhớ đến câu đầu bài Xuân Vọng 春望 của Đổ Phủ là:
                  國破山河在   Quốc phá sơn hà tại
có nghĩa :
              Nước mất nhưng núi sông thì vẫn còn đó.
  - Lăng Bách: là Những cây bách trồng trên gò cao, cũng có nghĩa là Những cây bách trồng bên những lăng mộ, vì ngày xưa các bậc vương hầu thường được chôn trên những gò đất cao.
  - Bối : là Cái Lưng. Bối Tà Huy: là đưa lưng hứng ánh nắng chiều.
  - Vương Khí : là Cái vượng khí của vương hầu.
  - Dã Điệp : là Những con bướm ngoài đồng nội.

* Nghĩa Bài Thơ :
                       Đất Trường An Nhớ Lại Thuở Xưa
         Sông núi rốt cuộc vẫn còn đó, nhưng nước cũ thì đã không còn nữa. Mấy hàng cây tùng cây bách đứng trơ lưng giữa ánh nắng chiều. Cái vương khí hưng vượng ngày xưa đã chôn vùi theo cỏ thu vàng úa. Chỉ còn thấy mấy con bướm hoang ngoài đồng nội bay bay trong buổi chiều mưa lất phất.
         Qủa là một bài thơ hoài cổ làm não lòng người !

* Diễn Nôm :
                           Trường An Hoài Cổ
                   Nước không sông núi vẫn còn đây,
                   Tùng bách trơ lưng dưới nắng gầy.
                   Vương khí chôn theo màu cỏ úa,
                   Mưa chiều rả rít bướm bay bay!
    Lục bát :
                   Núi sông còn, nước cũ không,
                   Mấy hàng tùng bách trơ lưng nắng chiều.
                   Cỏ thu vương khí tiêu điều,
                   Bướm hoang chấp chới mưa chiều phất phơ !

                                              Đỗ Chiêu Đức

6. Bài thơ Hoàng Châu đạo thượng tác :

    Hoàng Châu Đạo Thượng Tác 

,     Hành lộ thạch đầu hoạt,
。     Loan vân tạp chướng yên.
,     Khách phàm thu vũ ngoại,
。     Sơn tự tịch dương biên.
,     Lục ám tang ma địa,
。     Hồng minh quất dữu thiên.
,     Đăng xa không hữu ức,
。     Quy tứ hựu thê nhiên.
        陳光朝                 Trần Quang Triều    

         
* Chú Thích :
   - Hoạt: là Trơn trợt. Thạch Đầu Hoạt: là đá trơn trợt. 
   - Loan: là Ngọn núi. Loan Vân: là những ngọn núi có mây phủ.
   - Chướng: Hơi độc trong rừng núi, Yên : là Khói, nên Chướng Yên hay Chướng khí là những hơi khói bốc lên trong núi rừng.
   - Tang Ma: Tang là Dâu tằm ăn. Ma là Cây Đay.
   - Quất Trữu: Quất là Cây Quít. Dữu là Cây Bưởi.
   - Thê Nhiên: cảm thấy thê lương buồn bã.

* Dịch nghĩa :
                   Cảm Tác Trên Đường Đến Hoàng Châu
        Trên đường đi đá núi trơn trợt, các ngọn núi lẫn trong mây mù của sơn lam chướng khí. Thuyền khách xa xa ở ngoài tầm mưa thu và ngôi chùa trên núi lẫn khuất trong nắng chiều. Khoảnh đất trồng dâu đay cũng nửa xanh nửa tối, trên nền trời nửa sáng nửa hồng với vườn cam vườn bưởi. Lên xe mà lòng cảm thấy trống trải không có nhớ nhung gì, nghĩ đến ngày về mà lòng cảm thấy xót xa buồn bã!
        Đường đi gập ghềnh trắc trở với sương khói mông lung, lại thêm cảnh chiều trọ lại bên chùa nhìn ngắm cảnh trí xa xa và chung quanh mình mà bồi hồi tấc dạ. Đi còn chưa tới nơi mà lại nghĩ đến không biết bao giờ mới được trở về nên cảm thấy lòng buồn man mác!...

* Diễn Nôm :
                   Đường đá đi trơn trợt,
                   Núi mây chướng khí quanh.
                   Buồm khách ngoài mưa đổ,
                   Chùa chiều trong nắng hanh.
                   Ruộng dâu đay sáng tối,
                   Vườn quít bưởi vàng xanh. 
                   Lên xe lòng trống vắng,
                   Ngày về lại mong manh !
   Lục bát :
                   Đường đi đá núi trợt trơn,
                   Mây đùn chướng khí khói vờn quanh non.
                   Mưa thu ngoài cánh buồm con,
                   Chùa chiều trong nắng chập chờn quanh đây.
                   Rậm xanh này ruộng dâu đay,
                   Đỏ vàng vườn quít bưởi ngay bên trời.
                   Lên xe dạ luống bồi hồi,
                   Ngày về xa lắc ngậm ngùi riêng ta!
                         
                                  Đỗ Chiêu Đức

7. Bài thơ Giang Thôn Tức Sự : 

   江村即事                  Giang Thôn Tức Sự 

西,   Tây lân thôn hạng cách đông lân,
。   Kê khuyển tương văn cận yếu tân.
,   Hải yến nhựt tà đê lộng ảnh,
。   Giang hoa phong tế viễn tùy nhân.
,   Đạo phùng mai vũ lien vân thục,
。   Tàm đáo tang thiên trứ diệp tân.
,   Khước tiếu ngâm ông tham thắng thưởng,
。   Ngọc kinh quy trạo dĩ kiêm tuần.
               陳光朝                    Trần Quang Triều 
         Image result for 江村即事
* Chú thích :
   - Giang Thôn Tức Sự : Tức cảnh mà làm thơ vịnh xóm bên sông.
   - Tây Lân : là Xóm phía tây. Đông Lân : là Xóm phía đông.
   - Thôn Hạng : là Con đường nhỏ trong xóm. Hạng : còn có nghĩa là Hẽm, nên Thôn Hạng ngày nay có nghĩa là: Con hẽm trong xóm.
   - Tương Văn : là Nghe qua nghe lại lẫn nhau. Tân: là Bến sông.
   - Hải Yến : là Én biển. Đê : là thấp. Lộng Ảnh: là Đùa giởn với bóng.
   - Phong Tế : Gió nhỏ là Gió nhẹ.
   - Đạo : là Lúa. Mai Vũ : là Mưa Mai, khoảng đầu tháng 5 khi mơ chín.
   - Tàm : là con Tằm. Tang Thiên : là Mùa dâu chín.
   - Trứ (Trước) Diệp Tân : là Ra lá mới.
   - Ngọc Kinh : chỉ Kinh Đô, nơi vua ở. Tuần: là Mười ngày (ngày xưa).
   - Quy Trạo : là Trở mái chèo đi ngược về

* Nghĩa bài Thơ:
                          Tức Cảnh Xóm Bên Sông
         Xóm tây và xóm đông chỉ cách nhau một con đường làng, nên tiếng gà chó hai bên cùng nghe lẫn nhau cạnh bến nước sông. Những con én biển bay thấp xuống như muốn đùa với bóng dưới ánh nắng chiều và những bông hoa ở ven sông như muốn bay theo người khi có cơn gió nhẹ thoảng qua. Lúa gặp tiết Mai Vũ thì cũng chín đến tận chân mây và tằm đến mùa dâu mới thì trổ đầy lá non. (Trước cảnh đẹp đẽ hữu tình nầy) Buồn cười cho ông lão ham thích ngâm thơ vịnh cảnh, nên (cứ nấn ná) trên đường trở về Kinh đô cả mươi ngày nay mà còn chưa tới!
        Trần Quang Triều đã tự cười mình là "  Ngâm ông tham thắng thưởng": Cái ông già thích ngâm thơ tham lam thưởng thức cảnh đẹp" mà nấn ná trên đường về kinh. Quả là một ví von vô cùng thi vị với một nhà hoàng tộc!

* Diễn Nôm :
                          Giang Thôn Tức Sự

                   Xóm tây đông cách một đường làng,
                   Bến nước tiếng gà chó vọng sang.
                   Én liệng nắng chiều đùa bóng nước,
                   Hoa bay gió cuốn khách qua đường.
                   Lúa vào mai vũ chân mây chín,
                   Tằm đến mùa dâu lá mới vươn.
                   Cười lão thích ngâm mê thắng cảnh,
                   Ngọc kinh trở mái đã mươi hôm !
    Lục bát :
                   Thôn đoài cách với thôn đông,
                   Tiếng gà chó vọng bến sông nghe cùng.
                   Chiều về én liệng nước trong,
                   Hoa bay gió cuốn theo dòng khách đi.
                   Mùa mai lúa chín chân mây,
                   Tằm dâu thay lá đến kỳ trổ hoa.
                   Nực cười lão thích ngâm nga,
                   Ngọc Kinh trở mái la cà mười hôm !

                                Đỗ Chiêu Đức

                   Image result for xóm nghèo ven sông
                   
  












Không có nhận xét nào: