ĐỜI MỆ QUA CHIẾN TRANH
Mấy ông cháu ngoại đang chuẩn bị lo “lễ tạ mộ” cho mệ.
Mệ, dù được công nhận muộn màng, là mẹ liệt sĩ.
Họ vừa lãnh tiền thờ cúng mệ. Số tiền không đủ để tính
chuyện xây lăng cho mệ; số tiền cũng chẳng là bao để
chia chác ra cho ai muốn tiêu gì thì tiêu. Rốt cuộc, họ
bàn nhau mời thầy, sắm lễ đem lên mộ cúng cầu khẩn
Đất Đai yên ổn, mua vàng mã đốt ra tro để mệ “dẫn hồi
phục dụng”. Nhân dịp, con cháu tập trung, liên hoan
một bữa. Cũng có thể thuê giàn máy về hát karaoke ca
tụng công đức đấng sinh thành họa may mệ mãn
nguyện nơi suối vàng.
*
Mộ mệ hiện ở vùng rú, cách làng khoảng 5 cây số, đi
lên đi về, phải thuê xe hơi; đường sá gập ghềnh, thời
buổi bây giờ, không ai chịu nhọc gánh lễ vật đi bộ,
thậm chí, chở lễ vật bằng xe máy, cũng không.
Nói là mộ, nhưng đó chỉ là mô đất chôn cái xương
cẳng chân của mệ cải táng từ dưới nương mệ lên theo
lệnh của chính quyền, khi đất nước thống nhất, là
mồ mả không được ở trong khu gia cư.
Mộ chỉ chôn cái xương cẳng chân. Vậy mà làng xóm
vẫn cho rằng phần số mệ còn may mắn hơn nhiều
hoàn cảnh đáng thương khác trong làng.
Chẳng hạn, chú Tồn ở xóm trên đi lính chết trận
giữa rừng núi bạt ngàn Tây Nguyên, mất xác, cha
mẹ chú ấy dùng tiền tử tuất mời thầy làm đám chay,
lấy sọ dừa thay cái đầu, lấy cành cây dâu sắp xếp
thay bộ xương chôn thành “mộ gió” rồi kinh kệ
nhiều ngày để chiêu hồn nhập mộ; nghĩa là, không
được như mộ mệ, mộ của chú Tồn hoàn toàn là giả.
Lại như ở xóm giữa, cậu Tấn đi lính, được cử ra
trấn giữ quần đảo Hoàng Sa; năm 1974, quân đội
Trung Quốc cưỡng chiếm quần đảo, cậu Tấn tử
trận, xác thịt trôi lềnh bềnh trên biển làm thức
ăn cho cá; gia đình cậu Tấn hiện không còn ai,
cậu không có mộ phần gì, thậm chí cả “mộ gió” …
*
Mệ sinh ra cuối thế kỷ 19. Đầu thế kỷ 20, mệ lấy
chồng, mới sinh được một trai, một gái thì chồng
vắng nhà.
Vào giai đoạn cuối của Thế Chiến I (1914 – 1918) ở
Âu châu; nước ta đang dưới ách cai trị của thực
dân Pháp, ông bị chính quyền đô hộ Pháp bắt lính,
đưa qua Âu châu tham chiến, ông tử trận bên ấy.
Ở quê nhà, mệ một tay nuôi hai con khôn lớn trong
cảnh góa bụa.
Chế độ trọng nam khinh nữ của xã hội ngày xưa
làm cho sự mưu sinh của mệ vô cùng khó khăn.
Ở quê, mọi người sống bằng nông nghiệp; vậy
mà gia đình mệ, do không có đàn ông, không được
cấp ruộng đất.
Thuở ấy, ruộng đất trong làng, ngoài tư điền, tư
thổ của nhà nào thì nhà đó canh tác, còn công điền
công thổ chỉ chia cho nam giới. Không có ruộng
đất, để canh tác nuôi con, mệ đi mót lúa, mót khoai…,
đi làm thuê, làm mướn theo mùa vụ - làm cỏ lúa,
cỏ bắp, cỏ đậu... Ngày nào đi làm thuê, đến bữa,
mệ ăn cơm tại nhà chủ, xong bữa, mệ ngả nón ra,
chủ đổ hai phần cơm để mệ bới về cho hai con.
Thời gian làm thuê trong ngày không hạn định giờ
giấc; sáng, chiều, lao động ngoài đồng, ngoài ruộng;
trưa, tối, phải phụ xay lúa, giã gạo. Dù cực khổ, mệ
vẫn mong ngày nào cũng có người thuê. Không ai
thuê đồng nghĩa với không có gì để mẹ con ăn.
*
Rồi hai người con của mệ trưởng thành, con gái mệ
gả chồng về một gia đình nông dân nghèo khổ, ít
bà con thân thuộc; con trai mệ đà dạm vợ vài nơi,
nhưng không nhà nào chịu gả, họ không bằng lòng
làm thông gia với mệ vì mệ thuộc diện mẹ góa con
côi; họ xét không tương xứng với họ về mặt “môn
đăng hộ đối”.
Chiến tranh Việt - Pháp (1946 – 1954) nổ ra, người
con trai đi Vệ Quốc Đoàn. Đêm về, mệ ít khi ngủ
ngon giấc, nằm trằn trọc, hễ nghe tiếng súng gần
xa, mệ hồi hộp, lo lắng, ngồi dậy trong bóng tối,
chắp tay nguyện cầu “đứa con trai ở đâu đó được
vui”, “mong chờ ngày chiến thắng” để con Mệ
được về với mệ, với xóm làng.
Rủi là ngày chiến thắng chưa về, con trai mệ tử trận.
Mệ sống đơn chiếc trong chiến tranh, lủi thủi trong
túp lều xiêu vẹo.
Chiến tranh cứ đeo bám mệ, không chịu lìa xa mệ,
bom đạn cứ tiếp cận mệ. Vào một buổi chiều trời
đông se lạnh năm 1967, những loạt đạn pháo kích
réo vang dội vào các căn cứ quân sự ở Đông Hà,
một quả đạn pháo lạc đường rớt trong vườn mệ,
mảnh ria lung tung; một mảnh văng trúng cẳng mệ,
cắt lìa chân mệ khỏi cơ thể. Mệ được đưa đi nhà
thương cấp cứu, còn cái chân được đem ra chôn ở
góc vườn.
*
Từ đó, mệ không đi đứng được. Đã 70 tuổi, già yếu,
mệ chỉ dùng hai cánh tay trườn bò giữa nền nhà
như đứa bé mới 6 tháng tuổi. Thấy vậy, thương mệ,
gia đình con, rể đem mệ về ở cùng. Mệ bỏ lại túp
lều hoang vắng.
Mùa xuân năm Nhâm Tý (1972), quân Giải Phóng
đánh từ phía Tây – núi rừng – xuống, đánh từ
phía Bắc vào. Quân Cộng Hòa bỏ đồn, bót, rút
dần về Nam. Dân chúng sợ tai nạn bom đạn, dìu
dắt người già, bồng bế trẻ thơ, gồng gánh lương
thực di tản khỏi làng. Gia đình con, rể mệ cũng phải đi.
Còn mệ, mệ đi thế nào đây? Thôi, mệ ở lại, ứa nước
mắt, nhìn con cháu ra đi, xa dần, xa dần …
Mệ ở lại, hy vọng quân Giải Phóng tới sớm, thấy
hoàn cảnh mệ tội nghiệp, lòng trắc ẩn trổi dậy, có
thể họ tìm cách cưu mang; nếu rủi mà bom đạn
giết mệ đi thì mệ cũng chết nơi mệ đã sinh ra, lớn
lên, ấy là quê nhà. Thi hài mệ chắc chắn, chóng hay
chầy, sẽ có người phát giác đưa ra vườn chôn cất.
Biết đâu cái chân mệ chôn trước đây ghép lại vào
xác mệ để mệ trở thành người lành lặn ở thế giới
bên kia. Ấy là niềm tin đơn sơ trong dân gian; có
thể hay không thể ai mà biết được!
*
Dân làng di tản ra khỏi làng đã chục ngày rồi
mà quân Giải Phóng chưa tới. Trong vắng vẻ của
ngôi nhà, hàng ngày, mệ bò tới bếp nhen lửa thổi
cơm, bò ra vại kiếm nước uống, rửa ráy.
Chuyện không ngờ \… do quân vụ, thằng cháu
ngoại mệ là lính Cộng Hòa, từ Huế lái xe ra Đông
Hà, nó tranh thủ thời gian, ghé nhà, xem tình
hình mệ thế nào. Khi đi, nó không đành lòng để
mệ ở lại, bế mệ lên xe, chở vào trại tỵ nạn
trường Bồ Đề ở tỉnh lỵ Quảng Trị - nơi cha
mẹ, anh em nó đang nương náu.
Oái oăm là hôm sau, quân Giải Phóng tiến chiếm
Đông Hà rồi trên đà chiến thắng, tiến về tỉnh
lỵ Quảng Trị. Dân chúng đang lánh nạn ở trường
Bồ Đề bỏ chạy – nhóm thì tản về vùng quê Triệu
Phong, Hải Lăng, nhóm thì theo Quốc Lộ 1 xuôi
Nam về Huế, Đà Nẵng. Một lần nữa, vấn đề đem
mệ đi hay bỏ mệ ở lại được đặt ra. Rốt cuộc,
mệ phải ở lại trong vắng lặng tạm thời để chờ
đương đầu với súng đạn. Quá thảm!
Tỉnh lỵ Quảng Trị chìm trong đạn lửa, mệ sống
thêm được bao lâu? Chẳng ai biết. Mệ chết như
thế nào? Chẳng ai biết; thi hài mệ có được ai
chôn cất hay thối rữa và phân hủy dần? Chẳng
ai biết.
*
Cuộc sống của mệ đã chấm dứt – một cuộc sống bị
bầm dập bởi chiến tranh.
Trên nước Việt Nam và trên những nước thường
xuyên có chiến tranh, những mảnh đời như mệ
không phải là ít.
Chừng ấy vẫn chưa đủ động lòng những kẻ
xem chiến tranh là phương tiện để giành phần “ăn
trên ngồi trước” cho bản thân mình, phe nhóm
mình. Chiến tranh đang xẩy ra. Ôi, ghê tởm quá!
Câu chuyện kể ra để minh thị chiến tranh không
những phân rẽ nước này nước kia trên thế giới,
phe này phe kia trong một quốc gia mà còn phân
rẽ thân thể một con người ra mỗi nơi một phần.
*
Tạ mộ là lễ cúng cầu xin Thổ Thần ban phép để
thi hài kết phát, phò hộ con cháu được hanh thông
trên đường đời.
Thịt xương mệ một phần rải ở quê nhà, phần còn lại
ở tỉnh lỵ Quảng Trị, qua hơn 50 năm, đã thành cát bụi.
Thi hài mệ dưới mộ không có, thì làm sao mà cầu kết
phát.
Con cháu mệ, theo niềm tin dân gian chỉ tính về bên
nội, cũng không có; thì cầu nguyện hanh thông cho
những người sống nào đây!
Hoàng Đằng
31/8/2022
(05/Tám/Nhâm Dần)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét