Góc Việt Thi :
Thơ Xuân của cụ NGUYỄN DU (P.3)
Tượng Thi hào NGUYỄN DU ở Bảo tàng Hà Tĩnh
5. Bài thơ XUÂN TIÊU LỮ THỨ 春 宵 旅 次 :
春 宵 旅 次 XUÂN TIÊU LỮ THỨ
蕭 蕭 蓬 鬢 老 風 塵, Tiêu tiêu bồng mấn lão phong trần,
暗 裡 偏 驚 物 候 新。 Ám lý thiên kinh vật hậu tân.
池 草 未 闌 千 里 夢, Trì thảo vị lan thiên lý mộng,
庭 梅 已 換 一 年 春。 Đình mai dĩ huán nhất niên xuân.
英 雄 心 事 荒 馳 騁, Anh hùng tâm sự hoang trì sính,
名 利 營 場 累 笑 顰。 Danh lợi doanh trường luỵ tiếu tần.
人 自 蕭 條 春 自 好, Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo,
團 城 城 下 一 沾 巾。 Đoàn Thành thành hạ nhất triêm cân.
阮 攸 Nguyễn Du
* Chú thích :
- Lữ Thứ 旅 次 : Ở trọ tam nơi nào đó trong lúc xa nhà.
- Tiêu Tiêu 蕭 蕭 : Vừa là từ Tượng thanh vừa là từ Tượng hình, như :
* TIÊU TIÊU ban mã minh 蕭 蕭 班 馬 鳴 : Tiếng ngựa ly biệt hí VANG VANG.
* TIÊU TIÊU Bồng Mấn : Làn tóc mai rối đã LÂM RÂM bạc. Tóc Hoa Râm.
- Kinh 驚 : Động từ là SỢ, ở đây là Tính từ nên có nghĩa là Lo Lắng.
- Vật Hậu Tân 物 候 新 : Vạn vật chờ để đổi mới. HẬU là Đợi chờ.
- Lan 闌 là Tàn. TRÌ THẢO VỊ LAN 池 草 未 闌 là Cỏ trên bờ ao chưa tàn. Lấy ý từ câu thơ: “池 塘 生 春 草 Trì đương sinh xuân thảo”. Có nghĩa: "Cỏ xuân mọc trên bờ ao" theo điển tích sau đây: Đời Tấn, Tạ Huệ Liên 謝 惠 蓮, em họ nhà thơ Tạ Linh Vận 謝 靈 運, mười tuổi đã biết làm thơ. Linh Vận thường khen và nói khi ngồi với Huệ Liên, thế nào làm thơ cũng tìm được câu hay. Một hôm, Linh Vận ngồi bên bờ ao, làm thơ, nghĩ mãi cũng không nghĩ ra câu nào, về nhà ngủ, nằm chiêm bao thấy Huệ Liên, bỗng làm được câu thơ trên, rất lấy làm đắc ý. Câu này ý nói "Còn nhớ mãi đến anh em ở nhà".
- Trì Sinh 馳 騁 : Ngựa đang rong ruổi; Ngựa chạy đường dài.
- Danh Lợi Doanh Trường 名 利 營 場 : Trong cái vòng tìm kiếm danh lợi.
- Tiếu Tần 笑 顰 : TIẾU là Cười, chỉ thành công; TẦN là Nhăn mày, chỉ thất bại. TIẾU TẦN là Khóc cười là Thành bại, là Được mất.
- Tiêu Điều 蕭 條 : là Lơ thơ, lẻ loi, buồn bã.
- Đoàn Thành 團 城 : Tức thành Lạng Sơn. Có sách nói sở dĩ thành nầy có tên như vậy vì góc Tây Bắc của thành có hình vòng cung. Bài nầy Nguyễn Du làm từ mùa Xuân năm Giáp Tý (1805) khi nhà thơ đi đón sứ thần nhà Thanh. Nguyễn Du lên Lạng Sơn vào mùa Đông năm Quý Hợi (1804) nên mới có câu: “Đình mai dĩ hoán nhất niên Xuân” (Cây mai trước sân lại thay đổi thêm một mùa Xuân nữa).
* Nghĩa bài thơ :
ĐÊM XUÂN Ở NƠI XA NHÀ
Nhìn lại thấy tóc mai đã lơ thơ bạc vì phong trần gió bụi. Nỗi lo lắng âm thầm ở trong lòng khi thấy vạn vật cũng đang chờ để đổi mới. Trong mơ ngàn dặm vẫn nhớ về anh em ở nơi xa (như cỏ bên bờ ao vẫn chưa tàn). Cây mai trong sân đình cũng đã thay đổi thêm một mùa Xuân nữa. Tâm sự của người anh hùng như chú ngựa hoang để mặc cho sự rong ruổi. Ở trong trường danh lợi thì phải lụy với sự được mất, khóc cười, thành bại. Người thì tự cảm thấy nguội lạnh lẻ loi, còn mùa Xuân thì cũng tự đem sự tốt lành đến. Đứng dưới thành Đoàn Thành ta cũng chỉ biết tự mình thương cảm mà thôi (tự mình lau nước mắt lấy mình).
* Diễn Nôm :
XUÂN TIÊU LỮ THỨ
Hoa râm tóc bạc nhuốm trần ai,
Lo lắng âm thầm vạn vật thay.
Ao cỏ chưa tàn mơ đệ muội,
Sân Xuân lại đổi đón huỳnh mai.
Anh hùng tâm sự tùy rong ruổi,
Danh lợi trường đồ mặc rủi may.
Người tự âu sầu Xuân tự đến,
Dưới thành nhỏ lệ ướt khăn tay.
Lục bát :
Phong trần tóc đã hoa râm,
Những lo vạn vật âm thầm đổi thay.
Cỏ ao huynh đệ mơ dài,
Một mùa Xuân nữa sân mai lại về.
Anh hùng tâm sự tư bề,
Lợi danh thành bại ê chề oán than.
Người buồn Xuân vẫn cứ sang,
Dưới Đoàn Thành ấy lệ tràn ướt khăn !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
6. Bài thơ THANH MINH NGẪU HỨNG 清 明 偶 興 :
清 明 偶 興 THANH MINH NGẪU HỨNG
東 風 晝 夜 動 江 城, Đông phong trú dạ động Giang thành,
人 自 悲 悽 草 自 青。 Nhân tự bi thê thảo tự thanh.
春 日 有 身 非 少 壯, Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,
天 涯 無 酒 對 清 明。 Thiên nhai vô tửu đối Thanh minh.
村 歌 初 學 桑 麻 語, Thôn ca sơ học tang ma ngữ,
野 哭 時 聞 戰 伐 聲。 Dã khốc thời văn chiến phạt thinh.
客 舍 含 愁 已 無 限, Khách xá hàm sầu dĩ vô hạn,
莫 敎 茅 草 近 階 生。 Mạc giao mao thảo cận giai sinh.
阮 攸 Nguyễn Du
* Chú thích :
- Ngẫu Hứng 偶 興 : là Ngẫu nhiên hứng thú; là Chợt thấy hứng khởi.
- Đông Phong 東 風 : Gió thổi từ hướng đông, chỉ Gió mùa Xuân.
- Trú Dạ 晝 夜 : TRÚ là Ban ngày; DẠ là Ban đêm. TRÚ DẠ là Ngày đêm.
- Bi Thê 悲 悽 : là Bi thảm thê lương; là Buồn thảm lạnh lùng.
- Sơ Học 初 學 : Mới bắt đầu học; Mới tập tành.
- Tang Ma Ngữ 桑 麻 語 : TANG là Dâu tằm ăn, MA là cây gai (cây bố); TANG MA NGỮ là lời hát ngô nghê của các cô gái hái dâu trồng gai khi đang làm việc.
- Chiến Phạt Thinh (Thanh) 戰 伐 聲 : Tiếng đánh giặc chém giết nhau. Chỉ chiến tranh giữa nhà Nguyễn và Tây Sơn.
- Mao Thảo 茅 草 : là cỏ tranh, chỉ cỏ dại.
* Nghĩa bài thơ :
CHỢT HỨNG TRONG NGÀY THANH MINH
Gió Xuân từ hướng Đông cứ ngày đêm thổi động khắp giang thành. Người thì cứ tự mình buồn thảm, còn cỏ thì vẫn cứ xanh om. Ngày Xuân tuy có thân mình nhưng đã không còn trẻ khỏe nữa, Ở nơi chân trời góc bễ nầy không có rượu để uống trong tiết Thanh Minh. Ta mới tập tành hát những bài thôn ca ngô nghê của các cô gái hái dâu trồng đai. Lại thường nghe tiếng khóc than ngoài đồng trống do chiến tranh chém giết nhau gây nên. Ở nơi đất tạm dung nầy đã có vô hạn nỗi buồn rồi, đừng để cho các loại cỏ tranh cỏ dại mọc lấn lên trên thềm nữa !
(Ý của Nguyễn Du muốn nói là không muốn bon chen tranh giành danh vọng với đám quyền thần của vua Gia Long nữa).
* Diễn Nôm :
THANH MINH NGẪU HỨNG
Gió Xuân thổi động khắp Giang thành,
Người cứ bi thương cỏ vẫn xanh.
Xuân đến có thân thôi cường tráng,
Chân trời không rượu đón Thanh minh.
Ngô nghê học hát lời thôn dã,
Bi thảm còn nghe tiếng chiến chinh.
Đất khách ngậm sầu chi xiết kể,
Chớ để leo thềm đám cỏ tranh.
Lục bát :
Gió Đông lay động Giang thành,
Người bi thương cỏ vẫn xanh một màu.
Ngày Xuân người chợt già mau.
Chân trời không rượu đón chào Thanh minh.
Thôn quê lời hát trữ tình,
Chiến tranh còn vẳng bên mình khóc than.
Ngậm sầu đất khách miên man,
Không buồn để cỏ leo tràn thềm cao.
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Hẹn bài dịch tới !
杜 紹 德
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét