Tạp Ghi và Phiếm Luận :
LIỄN DÁN CÁC BÀN THỜ TRONG NHÀ
Hằng năm cứ đến ngày đưa ÔNG TÁO về trời là sau khi cúng tiễn TÁO QUÂN xong, thì tất cả chưn nhang đều được nhổ ra, chỉ chừa lại 3 cây trong mỗi lư hương mà thôi, còn lại thì thiêu hóa chung với giấy tiền vàng bạc và giấy cò bay ngựa chạy để theo ông Táo về trời, kể cả đôi liễn dán hai bên bàn thờ ông Táo cũng thế. Và không riêng gì bàn thờ ông Táo mà tất cả bàn thờ trong nhà cũng vậy! Dẹp hết để chưn nhang khỏi đùn quá cao, vừa mất mỹ quan vừa dễ gây hỏa hoạn. Sẵn làm vệ sinh lau chùi khảm thờ cho sạch sẽ, rồi... dứt luôn nhang khói...
Mãi cho đến tận chiều ba mươi Tết, khi cúng rước Ông Bà về ăn Tết với con cháu, thì mới dán liễn mới lên để đón Giao Thừa và tiếp tục nhang khói như thường lệ. Công việc của tôi hàng năm là tân trang và viết lại các đôi liễn mới nầy.
Nào, ta bắt đầu từ trước sân nhà nhé. Một cây cột lửng được đóng giữa sân, trên gát một miếng ván vuông hoặc chữ nhật, có lư hương nhỏ hoặc một cái lon sửa bò đổ đầy cát để cắm nhang. Những nhà khá hơn thì cột được xây bằng gạch tiểu, trên gác một miếng gạch Tàu đo đỏ, còn nhà cửa khang trang hoặc phố chợ thì bàn thờ ÔNG THIÊN được đặt sát bên trái hoặc bên phải của cửa ra vào... Nhưng dù như thế nào thì trên bài vị hoặc trên thân cây cột để bàn thờ đều phải có 4 chữ: THIÊN QUAN TỨ PHƯỚC 天 官 賜 福, có nghĩa các vị quan trên trời sẽ ban phát phước lành xuống cho gia chủ.
Thường thì chỉ đổi mới 4 chữ THIÊN QUAN TỨ PHƯỚC mà thôi, vì bàn thờ Ông Thiên bình dân thông thường không có câu đối, chỉ có nhà giàu hoặc ở các Đạo Quan, bàn thờ Ông Thiên lớn hơn, nên mới có câu đối 4 chữ như sau:
受 天 百 祿, Thụ thiên bách lộc,
吉 庆 有 余. Cát khánh hữu dư.
Có nghĩa :
Hưởng nhận trăm lộc của trời ban,
Điều lành điều tốt có thừa.
Bên dưới ngay cửa đi vào là bàn thờ Thổ Địa. Bước vào phòng khách thì ở bên trong ngay lối vào là bàn thờ của Thần Tài xây mặt ra cửa cái. Thường thì Thổ Địa và Thần Tài được thờ chung ở nơi đây, nên bài vị thường viết là:
五 方 五 土 龍 神, Ngũ phương ngũ thổ long thần,
前 後 地 主 財 神. Tiền hậu địa chủ tài thần.
Bên trên khảm thờ là 3 chữ TỤ BẢO ĐƯỜNG 聚 寶 堂, câu đối 2 bên thường là như thế nầy:
金 枝 初 發 葉, Kim chi sơ phát diệp,
銀 樹 正 開 花。 Ngân thọ chánh khai hoa.
Có nghĩa :
- Cành vàng vừa trổ lá, đúng lúc...
- Cây bạc đang ra hoa.
Hoặc là câu đối thật hay lấy từ bài Đằng Vương Các Tự 藤 王 閣 序 của VƯƠNG BỘT 王 勃 đời Đường như sau:
物 華 天 寶 日, Vật hoa thiên bảo nhật,
人 傑 地 靈 時。 Nhân kiệt địa linh thời.
Có nghĩa :
- Đây là những ngày vật đẹp như là tinh hoa báo vật của trời, và...
- Cũng là lúc đất đai linh hiển nên sinh ra người tài giỏi (hào kiệt).
Đó là bàn thờ Thần tài Thổ Địa ở trong nhà, còn nếu là Miếu thờ Thổ Địa hoặc Thổ Thần cho cả làng xóm thì câu đối liễn sẽ hay hơn. Sau đây là liễn dán miếu Thổ Thần:
土 旺 人 從 旺, THỔ Vượng nhân tòng vượng,
神 安 宅 自 安。 THẦN an trạch tự an.
Có nghĩa :
- Đất có vượng thì người sẽ vượng theo, và...
- Thần có yên thì người tự nhiên cũng sẽ được yên.
Và... Sau đây là liễn thờ miếu Thổ Địa:
土 能 生 白 玉, THỔ năng sanh bạch ngọc,
地 可 出 黃 金。 ĐỊA khả xuất hoàng kim.
Có nghĩa :
- Đất có thể sanh ra ngọc trắng, và...
- Đất cũng có thể cho ra vàng ròng.
Bạch Ngọc là Ngọc Trắng, một loại đá quí. Bạch Ngọc còn có thể hiểu đó là những hạt gạo trắng tinh như Ngọc dùng để nuôi sống con người! Và...
Hoàng Kim là Vàng ròng, kim loại quí, Nếu biết siêng năng trồng trọt canh tác thì: "Tất đất sẽ cho Tấc Vàng" như chơi !
Ngưởi Hoa còn gọi THỔ ĐỊA là ĐỊA CHỦ 地 主, nên lại có câu đối cho Địa Chủ như sau:
地 藏 天 下 寶, ĐỊA tàng thiên hạ bảo,
主 納 世 間 財。 CHỦ nạp thế gian tài.
Có nghĩa :
- Đất thì tàng trữ báu vật trong thiên hạ, còn...
- Chủ thì chiêu nạp cất giữ tài lộc của thế gian .
Tùy theo gia đình, thường thì phía trên cùng của phòng khách là nơi thờ Thần Thánh, nếu nhà có lầu thì thờ ở trên lầu trong căn phòng phía trước. Các Vị Thần Thánh được thờ thường là Bà Quan Thế Âm Bồ Tát, Phật Tổ Như Lai, nhưng thông thường nhất là Bàn Thờ ÔNG, ÔNG ở đây là Ông QUAN CÔNG, tức QUAN VÂN TRƯỜNG thời Tam Quốc.
Năm nào tôi cũng phải lau chùi quét dọn và viết lại bộ liễn của Bàn Thờ Ông. Bộ liễn khá bài bản và nghiêm trang như sau: Phía trên cùng của khảm thờ là hai vòng tròn giấy đỏ trên viết hai chữ CHÍNH KHÍ 正 氣 để chỉ cái khí tiết chính trực của Quan Công, phía dưới hai chữ Chính Khí là bốn chữ TRUNG TÂM QUÁN NHẬT 忠 心 貫 日, có nghĩa : Lòng trung thành vằng vặc như mặt trời. Liễn hai bên thì như vầy :
志 在 春 秋 功 在 漢, Chí tại Xuân Thu công tại Hán, 忠 同 日 月 義 同 天。 Trung đồng nhật nguyệt nghĩa đồng thiên.
Có nghĩa :
- Chí thì như ở đời Xuân Thu (muốn làm nên nghiệp lớn), nhưng công thì ở đời Hán. Còn...
- Lòng trung thành thì như mặt trăng mặt trời, còn nghĩa khí thì cũng cao tợ như là trời cao vậy.
Một đôi liễn thường thấy ở Bàn Thờ Ông nữa là:
千 秋 義 勇 無 雙 士, Thiên thu nghĩa dõng vô song sĩ, 萬 古 精 忠 第 一 人。 Vạn cổ tinh trung đệ nhất nhơn.
Có nghĩa :
- Cái nghĩa khí và vũ dũng ngàn năm không có được hai người, còn...
- Lòng trung thành tuyệt đối muôn đời là người số một duy nhất.
Hai người đứng hai bên Quan Công, người râu rìa mặt đen là Châu Thương cầm Thanh Long Yễm Nguyệt Đao, người mặt trắng đẹp trai là Quan Bình, tay bưng cái ấn Hớn Thọ ĐÌnh Hầu. Theo dị đoan thì lưỡi của Thanh Long Yễm nguyệt Đao phải xây về hướng nước ròng, tức là phải chém ngược lại dòng nước lớn đang chảy vào.
Nếu có bàn thờ của Phật bà Quan Thế Âm Bồ Tát, thì hai bên ảnh hoặc hai bên kham thờ thường có đôi liễn sau đây :
紫 竹 林 中 觀 自 在, Tử trúc lâm trung quan tự tại,
白 蓮 座 上 現 如 來. Bạch liên tọa thượng hiện như lai.
Có nghĩa :
- Trong rừng trúc tía luôn có Quan Âm Bồ Tát ở trong đó, và...
- Trên tòa sen trắng luôn có đức Phật Như Lai hiện ra.
Đôi khi ta cũng bắt gặp một đôi câu đối lạ, như:
千 處 祈 求 千 處 應, Thiên xứ kì cầu thiên xứ ứng,
苦 海 常 作 渡 人 舟. Khổ hải thường tác độ nhân chu.
Có nghĩa :
- Một ngàn nơi cầu xin, một ngàn nơi đều ứng nghiệm.
- Trong biển khổ thường làm thuyền để cứu độ chúng sinh.
Tương truyền Phật Bà Quan Âm ở trong Tử Trúc Lâm là Rừng trúc màu tím ở biển Nam Hải, nên còn được đồng bào Nam kỳ Lục tỉnh gọi là "MẸ NAM HẢI".
Dưới các khảm thờ của Thần Thánh mới là bàn thờ Tổ Tiên. Bàn thờ Gia Tiên thường đặt một hoặc nhiều bài vị hoặc di ảnh của Tổ Tiên các đời, phía trên thường thấy ba chữ ĐỨC LƯU PHƯƠNG 德 流 芳. Chữ LƯU 流 là Chảy, là Dòng Chảy, chứ không phải LƯU 留 là GIỮ, là ĐỂ Lại, nên có nghĩa là: Cái ĐỨC phải sống động như dòng chảy tỏa mùi hương từ đời nầy sang đời khác, tức là muốn con cháu các đời đều phải TÍCH ĐỨC, chứ không phải chỉ trông chờ để hưởng cái ĐỨC của ông bà để lại mà thôi. Vì hễ cái gì LƯU để lại thì cũng phải có ngày khánh kiệt, như gia tài chẳng hạn, ĐỨC cũng vậy, để ĐỨC lại cho con cháu mà con cháu không biết TÍCH ĐỨC thì ĐỨC đó cũng sẽ bị hao mòn khánh kiệt mà thôi! Bên dưới ba chữ ĐỨC LƯU PHƯƠNG là bốn chữ CỮU HUYỀN THẤT TỔ. Hai bên của bốn chữ CỬU HUYỀN THẤT TỔ là đôi câu đối.
Có lần tôi đọc được đôi câu đối thật hay trong gia đình của một người bạn ở xã Nhơn Ái, thuộc huyện Phong Điền thành phố Cần Thơ như sau:
敬 七 祖 千 年 不 盡, Kính thất tổ thiên niên bất tận, 重 九 玄 內 外 相 同。 Trọng cửu huyền nội ngoại tương đồng.
Có nghĩa :
- Lòng kính trọng Thất Tổ dù cho đến ngàn năm vẫn không dứt, và...
- Tôn trọng Cửu Huyền của hai bên nội ngoại ngang bằng như nhau.
Có người hỏi : CỬU HUYỀN THẤT TỖ là Chỉ những AI, và gồm có những AI ?!.
Xin thưa :
CỬU HUYỀN THẤT TỔ gồm có 9 đời Con Cháu và 7 đời Cha Ông, như sau :
* CỬU HUYỀN là:
Tử, Tôn, Tằng, Huyền, Lai, Côn, Nhưng, Vân, Nhĩ.
九 玄 :
子、 孫、 曾、 玄、 來、 昆、 仍、 雲、 耳 .
THẤT TỔ là :
Phụ, Tổ, Tằng, Cao, Thái, Huyền, Hiễn.
七 祖 :
父、 祖、 曾、 高、 太、 玄、 顯 .
Cuối cùng, ở phía sau nhà, nơi bếp núc củi lửa là bàn thờ ông Táo. Ta còn gọi là Thần Bếp, Vua Bếp, Táo Quân... Bên trên bàn thờ là bốn chữ : NGŨ TỰ CHI THỦ 五 祀 之 首, hai bên là đôi liễn rất có ý nghĩa như sau:
有 德 能 司 火, Hữu đức năng ty hỏa,
無 私 可 達 天。 Vô tư khả đạt thiên.
Có nghĩa :
Có ĐỨC thì mới có thể trông coi việc củi lửa bếp núc được.
Phải CHÍ CÔNG VÔ TƯ thì mới được lên chầu trời (để trình tấu mọi việc).
NGŨ TỰ 五 祀 : là 5 chỗ cần phải cúng tế ở trong nhà, đó là : MÔN, HỘ là Cổng, cửa (nơi ra vào), TỈNH, TÁO là Giếng, Bếp (nơi ăn uống), TRUNG LƯU là phần giữa nhà (nơi ngủ nghỉ). Xưa thì cho rằng CỔNG là nơi đứng đầu cần phải cúng tế, nhưng sau với khuynh hướng "Dĩ thực vi thiên 以 食為 天", Cái ăn là trên hết, thì Bếp được đứng đầu, nên bàn thờ Táo Quân mới có được bốn chữ "NGŨ TỰ CHI THỦ" là vì thế!
Ngoài ra, còn có một đôi câu đối rất hay nêu bật được cái chức năng của Táo Quân như sau:
上 天 呈 好 事, Thướng thiên trình hảo sự,
下 世 保 平 安。 Há thế bảo bình an.
Có nghĩa :
- Lên trời thì nên tâu toàn chuyện tốt mà thôi, còn...
- Xuống dưới thế thì bảo hộ cho gia đình gia chủ được bình an.
Sự hòa hợp giữa bếp núc và gia đình nơi con người với Táo quân cùng chung cư ngụ, đói no cùng chịu, ngọt bùi có nhau, nên lại có bài thơ Tống Táo Quân rất thân thiết như sau:
麥 芽 糖 餅 餞 行 蹤, Mạch nha đường bỉnh tiễn hành tung,
拜 祝 佯 癡 且 作 聾。 Bái chúc dương si thả tác lung.
只 有 一 般 應 開 口, Chỉ hữu nhất ban ưng khai khẩu,
煩 君 報 我 一 年 窮。 Phiền quân báo ngã nhất niên cùng !
Mạch nha, Kẹo, bánh... đưa tiễn bước chân ông đi. Khi bái kiến và chúc tụng Thượng Đế xin ông giả ngây giả điếc dùm cho (đừng nói lung tung những chuyện không tốt của tôi). Chỉ có một điều ông nên mở miệng nói là... Cảm phiền ông báo với Ngọc Hoàng là sao tôi lại nghèo suốt cả năm vậy?!
DIỄN NÔM :
THƠ TIỄN ÔNG TÁO
Mạch nha kẹo bánh tiễn chân ông,
Lên đó giả ngây giả điếc dùm.
Chỉ có một điều nên mở miệng,
Rằng ta nghèo suốt một năm ròng !
Hẹn bài viết tới !
杜 紹 德
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét