THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 51 :
HOÀNG
Thu ẩm HOÀNG HOA tửu
Đó là một trong bốn câu thơ chỉ sự "Ăn chơi bốn mùa" một cách thanh nhã của các cụ ngày xưa:
春游芳草地, Xuân du phương thảo địa,
夏賞綠荷池, Hạ thưởng lục hà trì.
秋飲黃花酒, Thu ẩm hoàng hoa tửu,
冬吟白雪詩。 Đông ngâm bạch tuyết thi.
Có nghĩa :
Xuân du trên thảm cỏ non,
Hè thì thưởng ngoạn sen tròn trên ao.
Thu nhâm nhi rượu cúc đào,
Đông ngâm thơ tuyết thú nào hơn ta?!
HOÀNG HOA TỬU 黃花酒 là Rượu hoa vàng, tức là rượu được ủ bằng hoa cúc, là CÚC TỬU 菊酒 thường uống vào mùa thu trong ngày Tiết Trùng Cửu. Ngày xưa các lính thú thường được điều đi trấn ngoài quan ải vào mùa Thu năm trước, đến mùa Thu năm sau thì được cho về. Vì thế nên gọi lính đi trấn thủ lưu đồn là HOÀNG HOA THÚ 黃花戌, như trong Chinh Phụ Ngâm Khúc:
Xót người lần lữa ải xa,
Xót người nương chốn HOÀNG HOA dặm dài.
Theo chương Tiểu Nhã - Hoàng hoàng giả hoa 小雅·皇皇者华 là "Hoa nở rực rỡ khắp nơi" trong Kinh Thi 詩經. Kể việc vua dặn dò sứ thần sắp lên đường, như hai câu thơ của ông vua Trần Trùng Quang Trần Qúy Khoách:
Mấy vần thơ cũ ngợi HOÀNG HOA,
Trịnh trọng rày nhân dắng khúc ca.
HOÀNG CÁC 黃閣 là cái Gác sơn màu vàng, nơi làm việc của quan Thừa Tướng đời Hán, nên Hoàng Các dùng để chỉ nơi quyền qúy, như trong Sơ Kính Tân Trang của Chiêu Lỳ Phạm Thái:
Một chiêu là một não nùng ,
Chẳng nơi HOÀNG CÁC cũng vùng huyền lâu.
Còn trong Hoa Tiên Ký của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện thì gọi là GÁC VÀNG:
Gió thanh hây hẩy GÁC VÀNG,
Thảnh thơi chèo Phó, nhẹ nhàng gánh Y.
Theo "Hoàng Cực Kinh Thế Thư 皇极经世書", quyển sách căn cứ vào Dịch lý để giải thích về nguồn gốc của vũ trụ, sự biến thiên của tự nhiên và sự diễn tiến của lịch sử con người theo Hà Lạc Tượng Số 河洛、象数 nên Từ HOÀNG CỰC 皇極 là cái chuẩn mực để thống trị thiên hạ của các bậc đế vương; nên cũng dùng để chỉ các bậc đế vương. Như trong "Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập" của Lê Thánh Tông có câu:
Chín trùng chăm chắm ngôi HOÀNG CỰC,
Năm phúc hây hây dưới thứ dân.
Còn HOÀNG LƯƠNG 黃粱 là Giấc Hoàng Lương. Lương là Cao Lương 高粱, là Kê Vàng , nên giấc HOÀNG LƯƠNG còn gọi là giấc KÊ VÀNG do tích "Chẩm Trung Ký 枕中记" trong Thái Bình Quảng Ký 太平廣記 kể lại chuyện của Lư Sinh 盧生 như sau:
Đường Khai Nguyên năm thứ 7 (719), Lư Sinh bất đắc chí vì thi rớt, khi cởi lừa về đến Hàm Đan, gặp được đạo sĩ Lữ Ông trong quán. Thấy chàng tỏ ra sầu muộn vì nghèo hèn, Lữ Ông bèn đưa cho chàng cái gối bằng sành bảo cứ gối đầu lên mà ngủ một giấc. Lư Sinh nghe theo, rồi mơ thấy mình về quê cưới được vợ đẹp, năm sau lại đậu Tiến sĩ, được bổ làm Thiểm Châu Mục, rồi thăng Kinh Triệu Doãn, lại vinh thăng Hộ Bộ Thượng Thơ kiêm Ngự Sử Đại Phu, Trung Thư Lệnh và cuối cùng được phong là Yên Quốc Công. Hưởng hết tột cùng vinh hoa phú quý trên đời, cả năm người con trai cũng được vinh hiển, con cháu đầy nhà, phúc lộc vinh hiễn vô song, thọ đến tám mươi tuổi mới bị bệnh mà mất. Khi vừa đứt hơi cũng vừa lúc Lư Sinh giật mình tỉnh mộng. Đạo sĩ Lữ Ông vẫn còn ngồi bên cạnh, nồi hoàng lương của chủ quán bắt lên nấu khi nảy vẫn còn chưa chín. Lư Sinh chợt tỉnh ngô: Công danh sự nghiệp, vinh hoa phú qúy chẳng qua cũng chỉ như là một giấc mộng mà thôi!
Đọc tích trên đây làm ta nhớ đến bài hát nói "Vịnh Nhân Sinh" nổi tiếng của cụ Nguyễn Công Trứ trong chương trình cổ văn ngày xưa:
Ôi, nhân sinh là thế ấy,
Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao.
Ba mươi năm hưởng thụ biết chừng nào,
Vừa tỉnh giấc Nồi KÊ chửa chín.
Hoàng Lương khi dùng rộng ra thì cũng chỉ dùng để chỉ một giấc mơ mà thôi. Như khi bị Khuyển Ưng đánh thuốc mê, bắt về giao nạp cho Hoạn Bà, Thúy Kiều đã tỉnh dậy như sau khi qua một giấc mơ :
HOÀNG LƯƠNG chợt tỉnh hồn mai,
Cửa nhà đâu tá, lâu đài nào đây ?
HOÀNG TUYỀN 黃泉 là Suối Vàng, vốn có nghĩa là một con suối ngầm ở dưới đất, vì đất màu vàng mà có tên như thế. Tương truyền người chết đều phải đi qua con suối nầy, nên nghĩa rộng ra của từ nầy là chỉ Cõi Chết, Âm Phủ. Theo Sách Tả Truyện 左傳 có câu: Bất cập hoàng tuyền, vô tương kiến dã 不及黃泉,無相見也。Có nghĩa: Không đến được suối vàng thì sẽ không còn được gặp mặt nhau nữa. Trong Truyện Kiều khi viếng mộ Đạm Tiên trong buổi Đạp Thanh, Thúy Kiều đã thắp hương cho Đạm Tiên với ý:
Gọi là gặp gỡ giữa đàng,
Họa là người dưới SUỐI VÀNG biết cho.
Còn trong truyện Nôm Phương Hoa Lưu Nữ Tướng thì gọi là Hoàng Tuyền:
Khi đưa người xuống HOÀNG TUYỀN,
Thì giương lấy một ngọn đèn cho cao.
Sau Hoàng Tuyền, ta có HOÀNG TƯỚC 黃雀 là con Chim Sẻ màu vàng. Theo tích sau đây:
Theo sách Hậu Hán Thư, Dương Trấn Truyện, tục Tề Hài Ký 後漢書·楊震傳.續齊諧記 : Cha của Dương Trấn là Dương Bảo lúc chín tuổi, đang đi chơi ở phía bắc núi Hoa Âm thấy một con hoàng tước bị chim cắt mổ đến bị thương, rớt dưới gốc cây bị lũ liến bu quanh định tha về tổ. Dương Bảo thấy tội nghiệp, bèn cứu đem về nhà để trong gương có lót vải gấm, cho ăn hoa cúc. Sau một trăm ngày, chim đã bình phục cánh lông đầy đủ bèn bay lên mây. Tối hôm đó, Dương Bảo nằm mơ thấy một tiểu đồng áo vàng miệng ngậm 4 vòng ngọc đến bái tạ mà rằng: "Ta là sứ giả của Tây Vương Mẫu, được ông nhân từ cứu giúp, nay đến đền ơn". Bèn tặng cho Dương Bảo bốn vòng bạch ngọc và bảo rằng: "Vòng nầy có thể bảo vệ phù hộ cho con cháu của ông vinh hiển đến bậc tam công, làm quan thanh liêm và trong sáng như là vòng ngọc nầy vậy". Qủa nhiên, Con của Dương Bảo là Dương Chấn, cháu là Dương Bỉnh, chắc là Dương Tứ, chít là Dương Biêu, 4 đời đều làm quan đến chức Thái Úy và đều rất thanh liêm cương trực và đều được người đời ca ngợi.
Tích trên cho ta 2 thành ngữ: HOÀNG TƯỚC chỉ người đưa tin, như trong truyện Trê Cóc:
Xa nghe triều đẩu anh hùng,
Đưa tin HOÀNG TƯỚC hỏi cùng phải chăng?
NGẬM VÀNH như trong Truyện Kiều, khi ở lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều đã giải bày tâm sự để nhờ Sở Khanh cứu giúp:
Dám nhờ cốt nhục tử sinh,
Còn nhiều kết cỏ NGÂM VÀNH về sau.
HOÀNG THẠCH tức
Hoàng Thạch Công (khoảng 292-195 trước Công Nguyên), là người đời Tần Hán, ở đất Hạ Phì. Khi Trương Lương đang dạo chơi ở trên cầu, gặp một ông già tiên phong đạo cốt, chưa kịp chào hỏi thì ông già đã làm rớt một chiếc dép xuống dưới cầu và bảo Trương Lương xuống dưới nhặt lại cho ông ta. Trương Lương vô cùng ngạc nhiên và tức giận, định dạy cho ông ta một bài học, nhưng thấy ông ta già cả và không hiểu sao lại ngoan ngoản chui xuống dưới gầm cầu nhặt dép cho ông ta. Khi dép đã được nhặt lên rồi ông lão lại chìa chân ra bảo mang vào, Trương lương lại qùy xuống xỏ dép vào chân cho ông lão. Xong việc, ông lão mỉm cười bước đi. Trương Lương còn chưa hết ngẩn ngơ thì ông lão đã quay trở lại hẹn sáng sớm năm ngày sau trở lại đây để gặp mặt. Năm ngày sau, sáng sớm, Trương Lương đến nơi thì thấy ông lão đã đến trước rồi. Ông giận dữ bảo, hẹn với người già sao lại đến muộn hơn. Bèn hẹn lại sáng sớm của năm ngày sau nữa. Trương Lương rất lấy làm lạ, lại hiếu kỳ, nên đến hẹn, chàng tranh thủ đến thật sớm, nhưng ông lão lại đến sớm hơn chàng một bước. Lại bị trách mắng và hẹn đến năm ngày sau nữa. Đến đêm hẹn, vừa mãn canh ba, khi tiếng gà đầu tiên bắt đầu gáy thì Trương Lương đã tới nơi rồi. Khi ông lão đến nơi khen rằng: "Đứa trẻ này có thể dạy bảo được!" Bèn lấy ra tặng cho Trương Lương một quyển sách, bảo rằng: "Về đọc quyển sách nầy, thì có thể làm thầy của bậc đế vương. Mười ba năm sau tảng Hoàng Thạch dưới núi Cốc Thành đất Tế Bắc, chính là ta đó". Trương Lương về giở ra xem thì đó chính là quyển "Thái Công Binh Pháp". Nhờ quyển binh pháp nầy mà Trương Lương mới trở thành mưu thần đắc lực cho Hán Cao Tổ Lưu Bang lập nên nhà Hán sau nầy. Mười ba năm sau, khi cùng Hán Cao Tổ lui về Tế Bắc dưới chân núi Cốc Thành, nhặt được một viên HOÀNG THẠCH, xem như là bảo bối, bèn lập miếu để thờ, đến khi Trương Lương mất thì được táng chung với viên Hoàng Thạch đó.
Trong bài "Tịch Ninh Cư Thể Phú" của Nguyễn Hàng một danh sĩ ở ẩn đời Mạc có câu:
Vận năm hành, thu hai khí, nhớ mọi lời HOÀNG THẠCH dặn dò.
Còn Nguyễn Hữu Chỉnh, nhà quân sự, chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê Trung Hưng và Tây Sơn, trong bài "Trương Lưu Hầu" phú thì gọi là NÂNG CHIẾC DÉP:
Rải ngàn vàng tìm khách thiếu niên;
NÂNG CHIẾC DÉP tôn người lão trượng.
Nhớ khi học thi Tú Tài I, bài CẦM KỲ THI TỬU của cụ Nguyễn Công Trứ cũng có câu:
... Thú xuất trần, tiên vẫn là ta,
Sánh HOÀNG THẠCH, Xích Tùng, ờ cũng đáng!
Cuối cùng, ta có tích HOÀNG SÀO.
HOÀNG SÀO (835-884) người đất Oan Cú Tào Châu (thuộc Hà Trạch Sơn Đông hiện nay), là người ở vào cuối đời Đường. Lúc đầu là thủ lĩnh của bang bán muối lậu, sau là thủ lĩnh của đám dân biến nổi lên chống lại triều đình, tự xưng hoàng đế, lấy quốc hiệu là Đại Tề. Sử xưng là Hoàng Sào chi loạn. Khi thất bại bị chết dưới tay thuộc hạ. Theo truyền thuyết...
Hoàng Sào là người văn võ song toàn, nhưng đi thi văn mãi không đậu, mới chuyển qua thi võ và đậu ngay Võ Trạng Nguyên. Nhưng khi vua Đường Hy Tôn triệu kiến phải giựt mình vì tướng mạo của Huỳnh Sào rất xấu xa, nên tước mất giải Võ Trạng Nguyên của Huỳnh Sào. Huỳnh Sào giận qúa nên mới đề thơ lên vách quán rượu là:
班超投筆去封侯。 Ban Siêu đầu bút khứ phong hầu,
馬前但得三千卒, Mã tiền đản đắc tam thiên tốt,
敢奪唐朝四百州。 Cảm đoạt Đường Triều tứ bách châu !
Có nghĩa :
Cái hạo khí ngùn ngụt bốc lên che lắp cả sao Đẩu sao Ngưu.
Chàng Ban Siêu đã quăng bỏ ngọn bút để đi tìm kế phong hầu.
Trước ngựa nếu ta có được ba ngàn sĩ tốt,
Sẽ dám đánh và đoạt lấy bốn trăm châu quận của nhà Đường!
Diễn Nôm :
Hào khí ngút lên sao Đẩu, Ngưu,
Ban Siêu quẳng bút được phong hầu.
Nếu ta có được ba ngàn lính,
Đánh chiếm nhà Đường các quận châu..
Đối với các nhà Nho xưa thì HOÀNG (Huỳnh) SÀO là giặc, là tôi phản nghịch, nên trong Truyện Kiều khi khuyên Từ Hải quy thuận triều đình, Thúy Kiều đã dẫn tích nầy:
Làm chi để tiếng về sau,
Nghìn năm ai có khen đâu HOÀNG SÀO ?
Chi bằng lộc trọng quyền cao,
Công danh ai dứt lối nào cho qua ?!
Hẹn bài viết tới !
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét