Thứ Hai, 3 tháng 2, 2020

Bức Tranh Chợ Tết Ở Làng Hauts de Seine - Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

      Bức Tranh Chợ Tết Ở Làng Hauts de Seine


       Mỗi lần Tết đến, dòm những bức tranh dân gian treo trong nhà như cái diều cốc dang cánh đưa lão về tuổi ấu thời với đì đẹt ngòai sân tràng pháo chuột, om sòm trên vách bức tranh gà. Lão nhớ ngày nào trước năm 54, lão và cô em gái theo ông cụ bà cụ đi sắm Tết. Đi qua phố phường, trong khi cô em gái lão lo thổi cái tò he xanh xanh, đỏ đỏ, thì lão dán mắt vào những bức tranh gà lợn. Bây giờ đến tuổi mười tầng mây chín tầng trời, lão sưu tầm được bộ tranh Đông Hồ, theo lão túm tó bức Tranh gà cũng lại đỏ đỏ, xanh xanh… Tây quá thể. Không những thế bức “Tranh gà” đâm ra làm lão rối trí tợn như thể dưới đây.


       ***
       Không có mây sao có mưa, nhè vào một ngày lão vác xác đi Tây thăm cô em gái với cái tò he “tò te, tò te” để thành chuyện… có sao kể vậy.
       Chú em rể đón lão ở phi trường Charles De Gaulle với chiếc xe Citroen 2CV lụm cụm như con cóc cụ. Từ phi trường về hướng tây, chú lái theo tỉnh lộ 92 thẳng tới làng Hauts de Seine. Làng có nhà thờ cổ lỗ sĩ với con gà cồ đứng trên tháp chuông, cái cầu đá bắc qua con sông nhỏ, hai bên ghềnh đắp đá tảng chả lớn hơn con rạch ở quê nhà là bao. Nói cho ngay làng mạc ở bên Tây chán chết, chả như làng quê ở bên nhà với ao chuôm ruộng vườn này nọ.
       Chú em dẫn xuống basement chỉ lão chỗ ngủ nghê. Vừa dậm bước xuống chân cầu thang va vào mắt lão Bức tranh Chợ Tết (xem tr 2 & 5). Lão thấy chẳng khác mấy bức tranh lão đang có ở nhà. Chỉ khác cái khung gỗ nâu sần sùi lên nước mốc meo, trong khi tranh nhà lão chỉ treo với hai ống trúc nhỏ. Lão lậu bậu đúng là dở người, qua đây chú đâm đầu chơi đồ cổ…như lão. Lão bụng bảo dạ chú ta đổ đốn mua bức tranh để làm cảnh vì cái khung lắm ạ. Quẹt vào mặt lão có con ruồi vướng mắc trong cái màng nhện mỏng tang ở mặt khung. Lão định giơ tay quẹt một cái cho đỡ ngứa mắt, chú giữ tay lão lại, nhấm nhẳng rằng cả bức tranh sống động ở… cái màng nhện. Nghe quái. Chưa hết, lão còn bắt gặp một lỗ thủng to bằng móng tay út ở góc bức tranh. Săm soi cái lỗ, lão thấy dường như được đốt bằng đầu thuốc lá nên có mầu vàng đen nên dòm cũng hay hay vì bức tranh ra dáng cổ lỗ.


        Đang búi bấn cái màng nhện và cái lỗ, chú em rủ ra vườn và mang theo chai Bordeaux. Lão lại kỳ cổ rằng vạn lý quan san đến chốn này, khi không vặn cổ chai vang cho khốn khổ cái thân già. Ra đến vườn vừa ngồi xuống, chú miệng đá lưỡi: “Chẳng dấu gì bác…” với ý đồ bắt qua chuyến về thăm quê nhà năm ngoái. Khi mới đến, ngỡ chú em rể… cùng một lứa bên trời “lận đận” với lão, hoá ra chú ấy khọm mươi niên hơn lão, hở miệng ra là giở cái giọng Bắc Kỳ hương lý với “bác, bác, em, em”. Lão vạy vọ chả hiểu ở Sài Gòn bộ hết người hay sao mà cô em gái lão lại rước thằng chồng vừa “cụ”, vừa khọm như… chiếc xe Citroen 2CV.   
        Ấy thế mà nhằm vào tuổi khọm lại hay bám víu những rêu phong ẩm mốc của miếu đình. Chú róc đời về gặp… ông từ giữ đền làng Thổ Khối của dòng họ. Nhờ vậy, chú em rị mọ ra cơ ngơi bản quán của chú em cạnh làng Đông Hồ. Lão dều người ra với chú em Bắc Kỳ hương lý chuyện Tranh Tết của ai đấy viết về nghề làm tranh làng Đông Hồ… 
“…Viên quan hai Léc nói sõi tiếng Việt, thích tìm hiểu phong tục xứ Tonkin. Về làm sếp bốt Ngã Tư Hồ, hôm sau vào làng bước trên con đường lát gạch. Tên thông ngôn rành phong tục ở đây, giải thích: “Con đường có lịch sử của nó, con gái đi lấy chồng, theo tục lệ, phải lát cho làng một đoạn đường gạch. Những lớp gạch cũ, mới cứ nối nhau kéo dài dưới rặng tre xanh thế này”.
       Lão bòn mót với chú em tên thông ngôn đây chả biết quái gì sất. Bởi lệ “nộp cheo” chả hẳn là lát gạch cho làng. Lão khoe chữ với chú ấy “Cheo hay cheo làng” từ tiền qua hiện vật tùy theo quy định của mỗi làng, làng bắt nộp mâm đồng, chén bát để dùng cho hội làng. Có làng bắt làm giếng nước, cổng làng. Tuy nhiên làng giàu có đường lát gạch Bát Tràng (xem tr 6) xuyên qua làng, làng nghèo đường đất mưa đi lõm bõm. Vì vậy ở Bắc Ninh có lệ con gái đi lấy chồng phải nộp cheo cho làng cả trăm viên gạch vồ.
       Nghe thủng rồi, từ con đường làng, ra cái điều cũng dầy chữ như… lão, chú em vắt qua làng tranh Đông Hồ trên dưới 500 năm. Khi Trịnh Tùng dẹp tan nhà Mạc ở Cao Bằng, họ Mạc chạy tứ tán khắp nơi, phải thay tên, cải họ để tránh cuộc truy lùng thành họ Phạm, Hoàng, Nguyễn với tên đệm bộ mộc. Riêng họ Nguyễn ở làng Thổ Khối của chú chữ đệm là Đăng, từ tên đệm “Đăng” của Mạc Đăng Dung. Lão ớ ra chú em họ…Nguyễn Đăng mà lão chả hay. 
      Vì vậy lão đành lẫn đẫn chống gậy trở lại cái bót Ngã Tư Hồ…
“…Tên thông ngôn đưa Léc ngoặt vào chiếc cổng tre, nhìn thấy một ông già ngồi ngoài hiên với bộ dao khắc và tấm gỗ vàng ươm. Ông cụ với những ngón tay xương xẩu tinh tế, sử dụng bộ "ve" khắc thuộc lòng trên mặt gỗ. Léc nhìn vào trong nhà thấy bà lão chấm chổi lông phết vào tờ giấy gì đó óng ánh trắng vàng. Ở góc nhà, hai đứa trẻ thò lò mũi, một đứa quệt mầu lên khuôn gỗ; một đứa đặt giấy. Những người bên cạnh chấm bút vào các chậu mầu và tô lên rất nhanh. Chỉ một loáng Bức tranh Chợ Tết được in và đem ra sân phơi. Léc đưa bức tranh lên ngắm nghía. Hắn quệt ngón tay vào bức tranh thấy mầu vàng, mầu trắng lấm tấm họ chấm lên bức tranh, như họ trộn nó với nhựa thông, phết lên tranh thì phải. Rồi Léc bỏ xuống.
Vừa lúc có tên lính đi theo bước vào sân, Léc nháy mắt …”


       Đến đây chú em nói dón: Tranh dân gian đất Bắc với giấy dùng để in tranh là giấy dó mịn, làm bằng vỏ cây dó. Giấy được phết nhựa thông, bồi bột điệp óng ánh nghiền từ vỏ hến, vỏ sò để làm nền. Giấy nhũ được quét bằng hồ pha bột vàng hoặc bạc gọi là giấy điệp. Màu lấy từ cây vườn nội cỏ, màu đen từ than lá tre khô, màu xanh lam từ lá chàm, màu nâu từ qủa bứa, màu vàng bằng hoa hòe hay quả giành giành, màu đỏ từ vỏcây vang. Lão nhòm ly Bordeaux đỏ như cây vang ắt hẳn thiên hạ sự gọi là… rượu vang chăng? Chưa kịp rọ mồm hỏi, chú em nói vấy thêm ván tranh từ gỗ thị, gỗ mít cả trăm năm không mọt. Đến xeo giấy, quậy hồ đặc quá thì vênh như bánh đa quá lửa. Tới phơi tranh, gặp gặp tiết hanh nồm, tranh bị bị vó. Tết đến, chợ tranh mở ra khách khắp nơi về mua tranh, để “vờn” tranh, “ăn” tranh, tức xemmua tranh. Cả làng rậm rịch giã điệp, khói đốt than ẩn hiện là đà trên ngọn cây. 
       Chú vun chyện với tranh mộc bản chẳng thể bỏ qua làng tranh Kim Hoàng ở Hà Đông, tranh Hàng Trống ở Hà Nội cũng từ bản khắc gỗ như tranh Đông Hồ, nhưng in trên giấy bản


Tranh Hàng Trống khổ lớn làm cho đền, chùa như bức Ngũ hổ hiện lưu giữ ở chùa làng Kim Liên (Hồ Tây). Những bức tranh đặc thù là Đức Thánh Trần, Bà Chúa Mẫu, Đồng Tử, Tiên Dung hầu hết những bản khắc gỗ cổ nguyên bản nay đã thất truyền. Tranh Hàng Trống nay lan ra đến Hàng Mã nhờ trống tế trống hội, cờ phưỡn võng lọng, quần áo chầu của ông đồng bà bóng, mão với hia. 


      Cùng cô lý, cô liêu, chú em dắt díu lão về làng tranh Đông Hồ… 
      Qua cầu Chương Dương trên sông Hồng, dọc theo Quốc lộ 1 lên Bắc Ninh, khỏang mấy cây số gặp một ngã tư (Ngã Tư Hồ). Men theo sông Đuống, nhìn qua con đê sẽ thấy chùa Đình Bảng, chùa Bút Tháp. Khi nào qua cầu Hồ, đến nền đất cũ bên ven sông có tấm bia đá trên nền chùa cổ có hàng chữ “Đông Hồ tự bi”, khắc thời nhà Mạc (1527-1592), (xem tr 6).
       
Được thể lão vật vờ với chú em tranh Tết, tranh Gà đang dở dang …
“….Tình cờ Léc cầm bản mới in của ông già lên xem. Hắn thấy một con gà trống mầu sắc lạ lùng, tấm thân đường bệ, cái mào và chân hiên ngang; con gà như sắp gáy. Con gà Tonkin nào có khác con gà Gaulois.
 - Ông bán cho ta bản khắc bức tranh này, ta sẽ trả giá ông muốn. 
- Thưa quan đồn, cái này không bán. 
Bất chợt Léc nhìn thấy bản khắc gỗ khác in Tranh Gà bị bỏ đi vì đã cũ, nó dùng để cài then cửa chuồng gà. Léc đưa mắt cho tên thông ngôn. Tên lấy bỏ vào túi dết và đi thẳng ra cổng…”. 


       Nhớ lại vừa vào làng Hauts de Seine có con gà Gaulois đứng trên tháp chuông nhà thờ. Buồn tình lão đốt điếu Gaulois và nhả khói. Qua khói thuốc mờ nhân ảnh lão nhìn ra cổng nhà chú ấy, hẳn là làm hai, ba ly vang nên ngất ngư: Lão thấy chú em rể lụi đụi bước ra… từ cánh cổng gỗ của quá khứ, chú ấy đang trôi sông lạc chợ vào một ngày giáp Tết về thăm quê nhà: Thế là lão ngật ngừ rong ruổi theo chú em trong một ngày có gió heo may. Mặt trời lên nửa con sào, khói sương còn vẩn vơ trên mái rạ, ngọn cỏ, đất bãi. Dòng sông Đuống cứ lặng lẽ nổi trôi, chẩy mãi và nhìn khuất cuối con đê là đền Gióng.       
      Đường xưa lối cũ, thêm một lần, chú em đẩy đưa lão về với Lý, Trần, Lê, Nguyễn: Những bản in tranh Đông Hồ ngày nay, cho ta hình dung đến công việc in sách cách đây 9 thế kỷ vào đời Lý. Khởi đầu từ các sứ thần sang Trung Hoa xin kinh và cho người học nghề khắc bản gỗ. Năm 1018, Lý Thái Tổ sai hai quan là Nguyễn Đạo Thành và Phạm Hạc sang nhà Tống để thỉnh kinh Tam Tạng, thiền sư Tín Học cho khởi công khắc bản gỗ để in. Sau đó đến kinh Kim Cương, Pháp Hoa, Dược Sư, Viên Giác. Theo sách Thiền Uyển tập, tổ của nghề in mộc bản nước ta là Lương Nhữ Hộc, trú quán ở Liễu Chàng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. 


       Đến tao đọan này, lão ngay mặt như cán tàn vì chuyện Ts’ai Lun (Thái Luân) họan quan đời Hán, sách Bách Việt Hiền Chí – Lĩnh Nam Di Thư, do sử gia Âu Đại Nhận đời Minh viết: Ts’ai Lun gốc Quý Dương thuộc đất Bách Việt, năm 105 CN tìm ra giấy in được gọi là “Giấy tước hầu Thái”. Nhà nho Trần Lam Giang ta luận giải rằng Thái Luân là… người Việt, người đầu tiên… phát minh ra giấy nghe um thủm sao ấy. 
       Nhẽ này lão không vạy vọ với chú em nên đành căng tai nghe…
       Đồng thời sách vở để lại ghi: Thế kỷ thứ III, làng Yên Hòa có một thứ giấy gọi là “Mật hương chỉ”. Năm 1295, Trần Anh Tông sai Trần Khắc Dụng và Phạm Thảo sang nhà Nguyên xin kinh Đại Tạng. Thiền sư Pháp Loa, trụ trì chùa Qùynh Lâm bắt tay vào việc khắc bản in. Mỗi trang sách là một bản gỗ, phải khắc lên chữ trái để khi in ra giấy bản là chữ phải. Vì có những bộ kinh lớn, bản gỗ lên tới 600.000 tấm, thời gian hòan tất trên 20 năm. Với hàng trăm người khắc, hàng trăm người in, cho khỏang 1.400 chùa chiền ở thôn xóm, đại tự, quốc tự.


      Chú ta ngược dòng với thiền sư Pháp Loa, lão cũng ngược về với thằng Tây, thằng Tàu…
“…Tây nó bắt giam ông đã một tuần nay. Nhiều lúc ông mệt thiếp đi, hình vẽ trong Bức tranh Chợ Tết cứ chập chờn trước mặt. Làm sao mà ông không nhớ cho được khi ông gắn bó với nó. Kỷ niệm hồi nhỏ của ông những lần bị các cụ đánh sưng tay vì vô ý chệch một đường "ve". Các cụ dạy, trước khi bắt tay vào tranh, bao giờ ông cũng mặc áo dài, sửa lễ cầu ông tổ nghề tranh mộc bản (ông tổ Lương Nhữ Hộc). Có thế khắc mới đẹp. Ông nhớ lại chuyện cụ tổ mấy đời làng này từng bị giặc Tầu bắt đi khắc tranh cho chúng, các cụ cắn lưỡi tự tử chết chứ không chịu. Bây giờ đến lượt ông đây, ông không thể làm thẹn mặt tổ tiên…” 


       Khi không chú em lại rủ rê lão thả rong về phường Yên Thái làm giấy, phường Nghĩa Đô dệt lĩnh và phường Thụy Khê cất rượu. Ba phường Yên Thái, Nghĩa Đô, Thụy Khê gọi gồm là Kẻ Bưởi. Tuy nhiên nhắc đến Kẻ Bưởi hàm nghĩa phường làm giấy dính liền với chiều dầy của dòng lịch sử kéo dài cả mấy trăm năm. Mỗi mảnh đất hình như có dòng sinh mệnh riêng nó. Làng Yên Thái bây giờ, giấy bồi, giấy hội đang đi vào buổi hòang hôn. Chuyển qua làm nồi, làm đồng, vì vậy gần đây có câu “lệnh cồng chiêng Bưởi” là thế đấy, thưa bác. 
       
       Trưa ngả sang chiều, chú em đảo về những phiên chợ tranh của một thời xa xưa…      
       Mầu vàng rộm lên như cánh đồng lúa chín, mầu xanh ẩn sau lũy tre làng, mầu đỏ gấc như yếm thắm của áo tứ thân, mầu xám nhiễu như áo lam giang, trong lót nền hồ thủy, mầu đen như váy lĩnh giữa mùa quan họ. Qua những bức tranh có từng đường nét, từng góc cạnh cùng những bố cục, sáng tạo theo cảm tính này nọ. Qua bức Lợn Đàn, từng mảng mầu này phủ lên mảng kia với sắc độ tự nhiên, tươi rói trên nền hồ điệp, trong veo vàng óng.
        Ấy là chưa kể bức Trê Cóc bộc lộ được vẻ tươi vui cho việc trang hoàng nhà cửa. Cùng nét tranh khắc sâu, nét in phẳng lặng, lúc hớn hở như Chú bé ôm con vịt phú qúy. Khi thanh thản như cậu bé vắt vẻo ngồi trên lưng trâu thổi sáo. Có lúc ngờ nghệch với con lợn ỷ, mặt chành bành to bè. Với Chuột vinh quy, đánh dấu nền khoa cử xa xưa. (xem tr 6)


Bỗng dưng chú em một tấc tận giời: “Các cụ ta xưa cũng hóm lắm đấy, bác nhỉ”. Như bức Hái Dừa (do ông Nguyễn Đăng Chế người làng Đông Hồ vẽ cácg đây 102 năm): Chàng trai leo chót vót lên ngọn cây, dưới là cô gái quê mặc yếm, vén váy đứng đợi hứng dừa. Chú em bợm bãi: “Nhào, bác ngẫm nguội mà xem nếu trái dừa rơi tõm xuống váy thì… thì sao nhẩy, bác nhể”. Được thể chú ấy bốc nhằng: Vì vậy các cụ ta xưa mới có câu con gái chơi với con giai, ngày sau cái vú bằng hai quả dừa.


Tiếp đến chú em lại nháo nhác đến bức Đánh Ghen, hai bà một cô, dí dỏm một nỗi trong đó có một bà đánh hôi cầm kéo… Rồi chú ấy xớn xác hỏi lão: “Chứ theo bác nhỡ bà đánh hôi không lấy kéo sởn tóc mà cắt toẹt cái… váy thi sao đây, hở bác. Bác cứ ngẫm mà xem”. Hở với hang rõ nhiễu sự này, quả tình lão cũng chịu chết nghĩ không ra những cái oái oăm của các cụ gửi gấm trong những bức tranh tình tự dân gian.


Ấy thế mà chưa hết chuyện “cái vú bằng hai quả dừa”… 
Chú em chỉ cho lão bức tranh Đánh Đu phỏng theo thơ dân gian bà chúa thơ Nôm họ Hồ thì phải? Trái phải đâu chưa biết, hãy dòm bên phải bức tranh, cấu vào mắt lão có đàn anh từ đằng sau luồn hai tay vào cái yếm thiếu thước tấc… bóp vú đàn chị Quan họ Bắc Ninh. 


        Thôi thì lão đành bày vẽ chữ nghĩa với chú ấy: Lễ hội là giao hòa, giữa trời và đất, giữa cỏ cây và muôn loài, giữa người và người, giữa nam và nữ. Ông bà mình vẫn thường nói ngày xưa trai gái đi xem lễ hội, tuồng chèo là để… chim chuột nhau, sờ soạng nhau ấy thôi. Chuyện tình tự dân gian với đất lề quê thói của các cụ ăn sâu vào tâm khảm, bàng bạc như tiếng sáo diều, câu ca dao tình tự mộc mạc từ ngàn xưa. 


        Đất khách quê người với bóng ngả đường chiều, chú em lãng đãng thả hồn về năm ngóai, như mới đâu đây. Lang thang ở con đê Cổ Ngư, qua một dải đất hẹp, rồi lạc về vùng Bưởi lúc nào không hay. Lững thững trên con đường lát gạch Bát Tràng rộng khoảng năm thước ta, để mỗi năm rước hội, kéo ngựa gỗ đi được. Qua chuyện kể: Chú em đứng lại thẫn thơ ngắm nét hoa văn trên cổng làng, nghỉ chân dưới bóng cây đa già, đằng sau là căn nhà cổ xưa u tịch còn sót lại, như vấn vương u uẩn, nghe vang vọng của nhịp chày Yên Thái, lẫn trong hươg trời sắc nước của Tây Hồ. Lão hòa nhập vào chú em khọm của lão cảm nhận được cái hồn của trời đất và hồn người, trong lão như bừng dậy âm vọng rậm rịch, rộn rã của một ngày xeo giấy, khắc ván, in tranh, phơi tranh. Cùng những nỗi niềm tiếc nhớ về một làng nghề giấy đang chìm dần vào quá khứ với mịt mùng khói sóng ngàn sương, nhịp chày Yên Thái, mặt gươm Tây Hồ mà một thời làm giấy sắc vua, kinh kệ, giấy lụa để in.


       Bỗng dưng không đâu lão bắt gặp chú em lặng lờ đứng ngắm cái cổng làng ắt là hết chuyện nên lão cũng chấm hết truyện viết Tranh Tết của ai đấy cho xong chuyện: ”Năm sau, Léc nhận được thư của bạn là họa sĩ từ Pháp gửi: "Léc. Moa nhận được Bức tranh Chợ TếtBản khắc gỗ Con Gà. Cả hai đều là tác phẩm vô giá”.
       Vừa lúc chú em móc điếu Gaulois và mồi lửa, trong khi chờ đợi lão buôn chuyện mắc chứng gì Bức tranh Chợ Tết dưới chân cầu thang có cái lỗ cháy đen thui lủi. Chú em nhả đụn khói: “Nhào, một ngày lang thang bên sông Seine, bắt gặp bức tranh ấy ở quán sách cũ. Thế là em thửa về”. Chú em đùn khói tiếp: “Mang về rồi, nom thấy thằng Tây nào đó ký tên ở góc bức tranh. Bực mình, em dí một điếu thuốc vào tên nó”. Thằng Tây nào đó, lão đồ là tên họa sĩ bạn thằng Léc. Có đầu có đũa như chuyện Tranh Tết ở trên: ”Ở ngòai sân thằng Léc cầm Bức tranh Chợ Tết vừà in, xem xong bỏ xuống. Vừa lúc có tên lính đi theo bước vào sân, Léc nháy mắt“, thế là bức tranh biến mất. Còn bản khắc gỗ để in Tranh Gà, chạy trời không khỏi nắng từ chuyện: “Bất chợt Léc nhìn thấy bản khắc gỗ khác in Tranh Gà bị bỏ đi vì đã cũ, nó dùng để cài then cửa chuồng gà. Léc đưa mắt cho tên thông ngôn... bỏ vào túi dết và đi thẳng ra cổng”. 
       Lão lễnh đễnh vậy vì lão vồ được nhiễu sự tấm mộc bản này hiện đang tàng trữ ở bảo tàng Mỹ Thuật Paris. Người làng Đông Hồ tìm cách đòi lại mấy năm nay vẫn chưa được (1). Ấy là chưa kể, nhiều và rất nhiều bản khắc gỗ tranh Đông Hồ (2) người Nhật mang về nước được họ bảo tồn kỹ lưỡng, nhưng trong đó không có bức mộc bản Tranh Gà
       Lão đang ngồi nhà chú ta ngay tại làng Hauts de Seine với nhân sinh quý thích chí qua những khúc mắc mà lão ghép nối hay hớm thế đấy để viết thành truyện Bức tranh Chợ Tết này đây. Thế là lão ngửa cổ nốc cạn ly rượu đỏ. Ngồi đụt ra, lão không biết làm gi hơn là… Là làm hết chai Bordeaux màu lá vang, lão say say đứ đừ như cóc cụ ngậm thuốc lào. 


        Chiều về, lão lờ đờ ngả người ra ghế, ve ve mắt nhìn lên tàng cây…
        Nắng quái chiều hôm len lỏi qua rặng lá xanh thao thiết, lão chập chờn với giấy dó, giấy điệp. Dường như có cơn gió lùa lao xao qua cụm lá, nghe loáng thoáng như âm vọng rậm rịch của những ngày xeo giấy, in tranh. Lão chơi vơi trong một ngày heo may chớm lạnh, khói bếp vẩn vơ len lỏi chui qua mái rạ, cùng ngọn cỏ gió đùa, dòng sông Đuống lặng lẽ nổi trôi, chẩy mãi. Qua con đê, ẩn hiện không khí sầm uất vào cữ tháng Chạp, chợ tranh được mở tại đình làng để khách các thuyền xứ Đông, xứ Đòai ghé để “vờn” tranh, “ăn” tranh. 
       Lão chống cây gậy trúc khua cua ngược dòng thời gian về tuổi ấu thời ở Hà Nội đi sắm Tết với ông cụ bà cụ. Ấy thế mà lão gặp cụ Hòang Cầm mà lão không hay với đì đẹt ngòai sân tràng pháo chuột, om sòm trên vách bức tranh gà (3). Lão thẫn thờ quanh con trên đường làng Bắc Ninh, nay lão lại gặp cụ Hòang Cầm eo óc với cuối xóm buồn teo một tiếng gà.


       Lão trở vê tuổi thơ của lão với O chuột: “Anh chuột chù có cái mõm dài nghêu, cứ vác cái mõm đã đủ mệt. Chú chuột nhắt nhỏ nhắn, leo vun vút, chạy nhoăn nhoắt”. Nhà văn Tô Hòai vẽ chuyện tiếp: “Ông mèo rất khác. Ông lờ đờ và nghiêm nghị tựa một thầy giáo nhà dòng, trên mình có khoác bộ áo thâm. Lúc nào hắn cũng ra vẻ nghĩ ngợi như sắp mưa”. Lão mơ mơ nghe có tiếng cóc nhái gọi mưa “ì ộp…ì ộp…” như ai đấy gọi đò sang sông về một bến nước…
       Lão chìm vào giấc hòe thấy Chuột vinh quy, Thầy đồ cóc


    

        Chui vào đầu lão bức Chuột Vinh Quy, trước khi đi thi chuột phải điếu đóm ông mèo ít cá, tôm. Tích này sách xưa ghi: “Vua Lê Trung Hưng (1533-1789) vì thiếu tiền, ra lệ đóng ba quan tiền Minh Kinh để nộp quyển đi thi, nên có nạn quan trường thông đồng mua bán”
       Với bức Thầy Đồ Cóc, lão lọ mọ sao cóc lại là ông đồ, không là ông mèo hay chú chuột, ắt hẳn… mèo bắt chuột giã gạo bằng thích, bởi: “Bia đá trên nền chùa cổ làng Đông Hồ có hàng chữ Đông Hồ tự bi, khắc thời nhà Mạc (1527-1592), trạm hai con chuột đang giã gạo”. Mà ông đồ cóc nát chữ như trấu trát chỉ dậy ễnh ương, cóc nhái. Võng anh đi trước võng nàng đi sau chỉ thấy… chuột. Chẳng thấy cóc đâu. Bỗng chui vào tai lão mấy chú chuột cắn nhau chí chóe trong cót thóc, lão trộm nghĩ làng Đông Hồ của chú em chả báu gì sất vì nhiều… chuột.


       Chợt có cơn gió thoảng, lão ho khùng khục như người hen. Chiều tối ập đến, trong nhà đã đỏ đèn. Ngoài sân, đằng góc vườn đâu đó có tiếng cóc cụ ho…


                             Thạch trúc gia trang 
                               Nhâm Thìn 2012   
                           Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
                              (chỉnh sửa 2017, 2020) 


(1) Các cụ trong làng kể lại: Hồi Pháp thuộc, người ở viện Bác Cổ thỉnh thoảng lại đánh xe ô tô về mua tranh, mua cả bản khắc
tranh nữa. Nhà cụ Lữ có bản khắc tranh gà rất quý đưa đi đóng 
cửa chuồng gà, người Pháp phát hiện ra hỏi mua cụ bán liền. Nghĩ mà tiếc đứt ruột!    
                                                         


  


(2) Những bản khắc gỗ hiện lưu trữ tại Nhật


(3) Bởi có bạn đọc cho rằng hai câu thơ trên của cụ Vũ Hòang Chương. Vì vậy người sưu tầm rị mọ trong bài Vịnh tranh gà lơn của cụ Vũ như dưới đây:               
Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành
Gà lợn om sòm rối bức tranh
Rằng vách có tai, thơ có hoạ
Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh
Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
Lòng lợn âm dương một tấc thành
Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn                                                                                           

                                                                                                       

       

Không có nhận xét nào: