Thứ Ba, 30 tháng 4, 2024

Mưa Tháng Tư - Triệu Dương NLT

         

                                      

        Mưa Tháng Tư

           (nhớ ngày 30/4/1975)

                     

Tôi nhớ Sài-gòn cuối tháng Tư,

Mưa như trút nước, trời âm u.

Giang sơn nghiêng ngửa, lòng đau xót,

Nghĩ đến tương lai: quá mịt mù…

   

    Tôi lê những bước chân quờ quạng,

    Phố xá như không có một người,

    Tôi chưa nhìn thấy vừng trăng sáng,

   Một lũ yêu tinh đã đến rồi !


Người dân chạy loạn không nhà ở,

Từ Huế, miền Trung, Đà Lạt về.

Bao nhiêu em bé, người già yếu,

Dắt díu nhau đi, cảnh não nề.

     

      Sấm sét rền vang dưới bóng đèn,

     Tình cờ tôi gặp một người quen

     Co ro trong áo mưa tầm tả,

      Một mảnh khăn tang nỗi muộn phiền.


Người từ Quảng Trị mới vô đây,

Nhà cửa không còn, sống lất lây.

Chồng chết giữa đường vì pháo kích,

Con chưa đầy tháng bồng trên tay…

    

     Buổi lễ bàn giao… qua phát thanh,

     Loan tin Đại Tướng Dương Văn Minh

     Lên làm Tổng Thống thay ông Thiệu,

     Để cụ Trần Hương lại một mình.


Người vô trách nhiệm đã ra đi,

Mặc kệ giang sơn lúc loạn ly!...

Binh bại rút lui như tháo chạy,

Dân lành sống chết chẳng cần chi!


    Cơn mưa tầm tã ngập Sài-gòn,

    Ngao ngán trong lòng chuyện nước non!

    Nghe kể nỗi niềm giờ tuyệt vọng,

    Bên thềm, thiếu phụ vẫn ôm con!

           Triệu Dương NLT







NHỚ MẸ HIỀN - Thơ Thiên Lý và Thơ Họa

          

    NHỚ MẸ HIỀN

Thế sự gian trần, chất nỗi riêng

Năm canh trăn trở, giấc nào yên

Qunh năm bận bịu, không than trách

Phút chốc rộn ràng, chẳng lãng quên

Vong quốc lòng đau hồn khắc khoải

Khuất me ruột xót, dạ cô phiền

Ngày mai con sẽ về quê cũ

Cùng hát bài ca "NHỚ MẸ HIỀN"

THIÊN LÝ


Thơ Họa:

NHỚ MẸ THƯƠNG CHA

Sóng đời ai chẳng nặng niềm riêng

000Trằn trọc canh trường, giấc chẳng yên

Thương mẹ tảo tần, tâm mãi khắc

Nhớ cha vất vả, phút nào quên

Xa me, lòng quặn niềm đau xót

Mất nóc, hồn nghe núi muộn phiền

Đêm thẳm ngàn sao treo lấp lánh

Sáng sao sánh đức mẫu thân hiền…

CAO BỒI GIÀ

  20-4-2024

 

DÁNG THƠ MẸ HIỀN 

Vạn trùng Thiên Lý vẫn tư riêng

Mẹ hỡi, tâm hồn chửa thấy yên

Bóng đợi hình ôm sầu mãi nhớ

Sương buồn tóc phủ trắng sao quên

Ngày đi, khăn vẫy thay thương xót

Giờ vắng lời ru thấm muộn phiền

Có phải "Mother 's Day" lãng đãng

Xa rồi "thân mẫu" dáng thơ hiền ...

     Hawthorne  20 - 4 - 2024

CAO MỴ NHÂN

 

THƯƠNG ĐẤNG SINH THÀNH

Lâu rồi ấp ủ một niềm riêng!

Nặng trĩu ưu sầu dạ khó yên!

Quảy gánh đường xa nào thấy ngại

Ra đồng sáng sớm chửa hề quên

Rầy con mẹ xót đâu hờn dỗi

Giận trẻ cha khuyên hết lụy phiền

Dưỡng dục sinh thành như biển lớn

Song Thân thường dạy giữ tâm hiền!

 Như Thu

04/20/2024

 

      NHỚ MẸ

Đêm dài lặng lẽ nỗi sầu riêng

Thức suốt tàn canh với muộn phiền

Giỗ kị lại về tâm rắm rối

Mother’s Day đến dạ không yên

Mẹ cò dầu dãi phong sương phủ

Thân hạc hao mòn năm tháng quên

Lãng đãng hương hồn nương khói tỏa

Cúi xin chứng giám phận con hiền

   Hưng Quốc

Texas 4-20-2024

 

   NHỚ SONG THÂN

Đêm dài trằn trọc nỗi niềm riêng

Ký ức ùa về, dạ chẳng yên

Một thuở thanh bình luôn mãi nhớ

Những ngày hạnh phúc dễ nào quên

Ngỡ hoài xum họp tràn thân ái

Bỗng thoắt chia ly ngập não phiền

Giờ cả song thân đều khuất núi

Khắc sâu bóng dáng mẹ cha hiền.

  Sông Thu

( 21/04/2024 )

 

   NHỚ MẸ HIỀN

Nhớ Mẹ hiền xưa buồn tủi riêng,

Vượt biên bỏ xứ lòng không yên.

Mẹ ngồi tựa cửa trông tin trẻ,

Bặt tiếng tăm hơi khổ khó quên...

Nỗi đoạn trường, niềm đau thắt dạ,

Sầu buồn con dại, lắm ưu phiền.

Được tin con trẻ bình an khỏe,

Chưa kịp về thăm mất mẹ hiền.

Mỹ Nga

  21/04/2024 AL, 13/03/Giáp Thìn

 

      NỖI NHỚ

       (Họa hoán vận)

Quê người, nỗi nhớ giữ làm riêng

Cố quận chia lìa, dạ khó yên

Bóng mẹ nhòa sương, vai gánh khổ

Hồn cha quyện khói, mắt chong phiền

Làng xưa gợi xót hoài không lãng

Cảnh cũ vương sầu mãi chẳng quên

Đất khách, lời ru vào huyết quản

Tình thâm mẫu tử dưỡng ngoan hiền.

Lý Đức Quỳnh

   22/4/2024

 

CHA TRỜI MẸ BIỂN

Đời ai cũng có nỗi buồn riêng

Lắng đọng trong tim giả bộ yên

Nghĩa Mẹ sinh thành lòng mãi nhớ

Ơn Cha dưỡng dục dạ sao quên

Lâu ngày chẳng đến ba thương gọi

Lắm bữa không sang Mẫu thảm phiền

Nước mắt chảy xuôi nào chảy ngược

Sớm thăm,tối viếng đạo con hiền.

      LAN

(22/04/2024)

 

MẸ LÀ THẦN TIÊN

Quê nhà chất chứa nỗi sầu riêng,

Nhớ mẹ dâng trào dạ khó yên.

Nhớ dáng trầm luân luôn cố gắng,

Nhớ hình heo hóc dễ nào quên.

Nhớ khi chăm sóc con vui vẻ,

Nhớ lúc nhà lo chẳng lụy phiền.

Xa xứ lâu rồi con mãi nhớ,

Nhớ lưu tim bóng mẫu thân hiền.

                       *

Với con… MẸ đúng đấng THẦN TIÊN!

HỒ NGUYỄN

  (22-4-2024)

 

   GIẤC MỘNG HIỀN

Nửa thế kỷ rồi vẫn giấu riêng

Tháng ngày dằn dặt chẳng hề yên

Xứ người hướng mắt niềm đau giữ

Đất khách gập người cố gắng quên

Mai sớm rời nhà đang gửi sống

Chiều hôm về gác ủ uu phiền

Thời gian từng cọng quàng lên tóc

Để nhớ thương đong giấc mộng hiền.

2024-04-22

   Võ Ngô

 

    MẸ KÍNH YÊU

Trần ai hổn độn, nỗi niềm riêng

Cuộc sống xô bồ cũng chẳng yên

Công việc, xa nhà nên vẫn nhớ

Mẹ già tựa cửa, lẽ nào quên

Năm canh thao thức lòng xao xuyến

Sáu khắc lao đao dạ cảm phiền

Con sẽ về quê thăm nội, ngoại

Hàn huyên tâm sự mẫu thân hiền…

    MAI XUÂN THANH

  Bay Area, April 21, 2024

 

        NHỚ MẸ

Quê người trĩu dạ nỗi niềm riêng

Nhớ mẹ đêm trường khó ngủ yên

Sức thử gian nan buồn mãi khắc

Thân đày vất vả khóc nào quên

Xương oằn đội nắng ôm lòng chịu

Ruột cuộn dầm mưa nén não phiền

Mẫu tử tình thương con biển rộng

Lời êm dạy dỗ “sống ngoan hiền”

      Minh Thúy Thành Nội

Tháng 4/22/2924

 

   MẸ ƠI THỨ LỖI

Cưới xong mấy bữa đòi ra riêng

Khiến mẹ cõi lòng như bất yên

Xưa chẳng quan tâm rồi nhớ mãi

Hiện thời để ý sẽ không quên

Mẹ từng dãi nắng nào ca thán

Má cũng dầm mưa há oán phiền

Trót dại, bu ơi xin thứ lỗi,

Cho con sống lại thuở ngoan hiền.

Thái Huy

 4/22/24

 

     MẸ ƠI

Mẫu từ mắt lệ trẻ ra riêng…

Cưới vợ con trai, giấc ngủ yên

Đôi lứa đường đời bề bộn lãng

Gia đình nhỏ ấy rộn ràng quên

Lưu vong tới Mỹ lòng thông cảm

Lỡ bước xa quê dạ cảm phiền

Về lại cố hương nơi cắt rún

Tới miền đất lạnh Mẫu thân hiền

MAI XUÂN THANH 

Bay Area April 24, 25

 

       NHỚ MẸ

Bên lòng canh cánh nỗi niềm riêng

Cách trở bên trời, mẹ có yên?

Một thuở bên cha lòng mãi nhớ,

Cái thời cạnh mẹ vẫn chưa quên

Nụ cười nhân hậu vơi sầu não,

Ánh mắt yêu thương xoá muộn phiền

Gởi áng mây hằng về bến cũ,

Ngàn muôn tạ tội mẫu thân hiền.

Thanh Hoà

25/04/2024

 

   NỖI SẦU RIÊNG

Sống đời lo lắng nỗi sầu riêng

Hiếu nghĩa giàu sang ngủ khó yên

Nhớ mẹ cuối đời câu mẫu tử

Thương cha phút chót dặn nào quên

Đoạn trường ly biệt lòng đau nhói

Hình ảnh song thân dạ chớ phiền

Đất khách hẩm hiu tâm khấn nguyện

Cho con nghe lại mộng ru hiền …

 Yên Hà

25/4/2024






Thứ Hai, 29 tháng 4, 2024

TIẾT 9 – TÂM TỨ ĐOAN / Tác giả: ITÔ JINSAI / Người dịch: Nguyễn Sơn Hùng

                       TIẾT 9 – TÂM TỨ ĐOAN

                                 Tác giả: ITÔ JINSAI (*)
                          Người dịch: Nguyễn Sơn Hùng

Lời thưa trước

Itô Jinsai khuyên nên tìm hiểu nội dung sách Mạnh Tử trước vì sách này là sách giải thích sách Luận Ngữ. Theo người dịch, về mặt đạo đức làm người thì một trong những điểm quan trọng nổi bật của học thuyết Mạnh tử là ông chủ trương “bản tính con người vốn thiện lương từ lúc chào đời”. Do đó, người dịch chọn tiết “Tâm tứ đoan” để mở đầu loạt bài giới thiệu chi tiết nội dung của sách “Ngữ Mạnh Tự Nghĩa” của Itô Jinsai (Y Đằng Nhân Trai). Trong tác phẩm tác giả ghi tên là Itô Itei (Y Đằng Duy Trinh), tên hiệu lúc sáng tác nhưng ở đây ghi tên hiệu sau cùng của ông để quý độc giả dễ tìm hiểu tra cứu thêm.

Điều 1

Theo sách chú thích và giải nghĩa của ngày xưa (cổ chú) (1) cho những kinh sách cổ điển thì “đoan” là “bản本”, có nghĩa “nguồn gốc”. “Tâm tứ đoan” là nguồn gốc xuất phát ra nhân nghĩa lễ trí. Từ điển chữ Hán giải thích “đoan” là “bắt đầu” (thủy 始) hoặc là “mối (manh)” (tự 緒). Cả 3 đều cùng một ý.

Tuy nhiên Khảo Đình (tức Chu Hy) đặc biệt dùng từ “đoan” với nghĩa “đầu mối (đoan tự 端 緒)”, nói rằng ““đoan” giống như vật có ở bên trong và mối (tự 緒) của vật lộ ra bên ngoài”. Trong khi đó các thí dụ giải thích nghĩa của chữ “đoan” mặc dù có nhiều nghĩa nhưng đều quy về một ý như đã trình bày ở trên. Chữ “tự緒” phải xem đồng nghĩa với chữ “bản thủy本 始” nghĩa “nguồn gốc ban đầu”.

Tôi nghĩ rằng cái kén của con tằm có “đầu mối” (đoan tự) , và nếu kéo cứ kéo ra mãi không ngừng thì sẽ thành lụa dày (tăng繒) hoặc lụa tơ trần (bạch 帛) dài khoảng 2 trượng (khoảng 6 m). Nghĩa là từ “đoan tự” hàm chứa ý “kéo và làm cho dài ra”. Nói như Khảo Đình thì trái ngược với nghĩa “nguồn gốc ban đầu” (bản thủy), không phải như nghĩa của các thí dụ giải thích nghĩa của chữ.

Tôi nghĩ rằng ý muốn nói của Mạnh tử là con người có tâm tứ đoan giống như thân thể có 2 tay 2 chân (tứ chi) (Bài 6 chương 3 Công Tôn Sửu, sách Mạnh Tử). Con người ai cũng có tâm tứ đoan đàng hoàng, không cần phải tìm kiếm hoặc vay mượn từ bên ngoài. Nếu như biết khuếch sung (làm cho đầy đủ và làm to lớn thêm) tâm tứ đoan này thì giống như lửa cháy lan rộng, nước suối chảy lan rộng, cuối cùng có được đức của nhân nghĩa lễ trí. Do đó mới lấy tâm tứ đoan làm nguồn gốc ban đầu của nhân nghĩa lễ trí. Đây là chủ ý căn bản của Mạnh tử, và các Nho gia đời Hán lấy nội dung này truyền đạt cho nhau.

Tưởng cũng nên nói thêm các điều sau. Sách Trung Dung nói “Đạo của người quân tử bắt đầu (đoan) từ (việc xử sự tốt trong) quan hệ vợ chồng” (2). Tả Thị Truyện (tức sách Xuân Thu) nói: “Làm lịch (lịch xem ngày tháng năm) cần phải bắt đầu đúng từ khởi điểm (đoan) rồi cứ vậy mà tiếp tục” (3). Người xưa dùng “đoan” trong các từ ngữ như “hấn đoan” (4), “họa đoan” (5), “khai đoan” (6), “phát đoan” (7) đều với nghĩa “nguồn gốc ban đầu” (bản thủy) (8). Trong trường hợp để hiểu nghĩa của tâm tứ đoan càng không thể không tuân theo nội dung chú thích giải nghĩa của ngày xưa.

Phần phụ thêm

“Đạo quân tử bắt đầu từ quan hệ vợ chồng” (chương 12 Trung Dung)

Tìm thấy trên Internet tiếng Nhật có nội dung dịch ra tiếng Nhật hiện đại dễ hiểu nên dịch lại ở đây để giới thiệu độc giả biết thêm về sách Trung Dung.

Đạo của người quân tử có phạm vi rất to lớn ai cũng có thể áp dụng nhưng nội dung hàm chứa mức khó khăn vi diệu. Ngay cả vợ chồng ngu muội cũng có thể biết giữ đạo là gì. Tuy nhiên nói đến đỉnh cao tận cùng của đạo thì ngay cả thánh nhân cũng có điều chưa biết được.

Ngay cả vợ chồng không học cũng có thể thực hành một phần của đạo. Tuy nhiên đối với đỉnh cao tận cùng của đạo thì ngay cả thánh nhân cũng không thể thực hành đầy đủ trọn vẹn. Đối với nhiều việc làm của trời đất rộng lớn (hiện tượng tự nhiên), con người cũng có những điều căm ghét như đối với thời tiết quá lạnh quá nóng so với bình thường, mất mùa nặng nề, bão tố, động đất, sóng thần to lớn đến mức kinh thiên động địa….

Do đó nếu nói sự to lớn của đạo quân tử thì trong thiên hạ không có gì để có thể đặt lên hoặc chứa đựng được; còn nói đến mức độ nhỏ của đạo thì trong thiên hạ không có gì nhỏ hơn. Thiên Đại Nhã Hạn Lộc trong kinh Thi viết: “Diên phi ngư dược”, nghĩa là “Diều hâu bay trên trời cao, cá tung tăng dưới hố nước sâu”. Trình độ cao thấp của đạo quân tử biểu hiện trong hoạt động của diều hâu và cá. Mặc dù nói là đạo của người quân tử nhưng điểm xuất phát của đạo là bắt đầu từ vợ chồng không học. Còn nếu như truy cứu đến đỉnh cao tận cùng của đạo thì đạo biểu hiện ở trong mọi sự việc, mọi hiện tượng của trời đất”.

“Trên là chương 12, lời của Tử Tư làm rõ ý của câu “Đạo không thể tách rời” trong chương đầu của Trung Dung. Trong 8 chương tiếp theo là do Chu Hy trích dẫn các lời của Khổng tử để làm rõ hơn”.

Ghi chú

– Nội dung trong ( ) với khổ chữ nhỏ là của người dịch thêm vào cho dễ hiểu hoặc ghi lại từ Hán Việt của nguyên văn.

(1) Theo Nhật Bản Quốc Ngữ Đại Từ Điển, ở Trung Quốc các chú thích giải nghĩa kinh sách từ đời Hán đến đời Đường gọi là “cổ chú”, các chú giải từ đời Tống trở về sau gọi là “tân chú”. Ở Nhật Bản, mốc thời gian để phân biệt là thời kỳ thành lập “quốc học” (1688~1704). Bốn nhà quốc học tiêu biểu của Nhật Bản: Kada no Azumamaro (1669~1736), Kamono Mabuchi (1697~1769), Motoori Norinaga (1730~1801), Hirata Atsutane (1776~1843).

(2) Nguyên văn chữ Hán: 君 子 之 道, 造 端 乎 婦 trong chương 12 của Trung Dung.

 (3) Trong phần “Văn Công Nguyên Niên” của sách Xuân Thu Tả Thị Truyện. Nguyên văn chữ Hán: 履 端 於 始.

(4) Hấn đoan 釁 端: nguồn gốc ban đầu của hiềm khích, bất hòa. (Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh, dưới đây viết tắt ĐDA: Nguyên nhân việc tranh chấp, hiềm khích.)

(5) Họa đoan: bắt đầu, triệu chứng của tai họa. (Không có trong ĐDA)

(6) Khai đoan: khởi điểm, bắt đầu.(ĐDA: mở mối đầu (commencement))

(7) Phát đoan: bắt đầu của sự việc.(ĐDA: mở mối (commmencer))

(8) Trong ĐDA, bản thủy: lúc ban đầu; bản nguyên: gốc nguồn = căn bản.

Tham khảo thêm

(1) Trong Mạnh Tử Quốc Văn Giải Thích, Đông Hồ Nguyễn Hữu Tiến dịch “đoan” là “căn”. Trong Tứ Thư Bình Giải, Lý Mạnh Tuấn dịch là “đầu mối”.

(2) Theo Nhật Bản Quốc Ngữ Đại Từ Điển (phiên bản Tinh tuyển bản: Bản thủy là bắt đầu của ban đầu; bản nguyên. Đoan tự là manh mối của sự vật.

Theo Tự Thông (phổ cập bản) của Heibonsha do Shirokawa Shizuka biên soạn: Bản thủy là bắt đầu của sự việc. Đoan tự là bắt đầu, manh mối.

Nhận xét

(1) Người dịch chưa hiểu rõ lý do Jinsai không đồng ý nội dung giải thích của Chu Hy đến mức mạnh như vậy? Không biết các lý do sau có giải thích được không: (1) Theo cách giải thích của Chu Hy, có thể gây hiểu lầm là phải có người bên ngoài “kéo dài” tâm tứ đoan ra mới có được nhân nghĩa. Tuy nhiên, không phải vậy mà phải tự mình tu dưỡng mới được, do đó Jinsai không đồng ý? (2) Lập ra nghĩa mới khác với cách hiểu của số đông lúc đương thời sẽ sinh ra hiểu sai, và dễ làm người khác bắt chước theo gây ra rối loạn cho việc học tập của người đời.

(2) Tiếng Hán thật rắc rối khó hiểu chính xác! Do đó hãy thử suy nghĩ xem xét nghĩa của chữ “đoan” từ ý muốn nói của Mạnh tử. Ý Mạnh tử muốn nói là nhân nghĩa lễ trí (sau đây viết ngắn là nhân nghĩa) bắt nguồn từ tâm tứ đoan. Do đó, “đoan” ở đây để nơi chốn chứ không phải thời gian vì nhân nghĩa không phải chỉ xuất phát từ tâm tứ đoan ở thời điểm ban đầu nào đó thôi mà luôn luôn xuất từ đây. Do đó hiểu “đoan” là “nguồn”, là “cội” (gốc) là đúng nhất, không phải là “manh mối”. Có “nguồn”, “gốc” sẵn thì chỉ cần giữ gìn cho không bị che lấp, và nuôi dưỡng thì “đoan” sẽ sinh trưởng ra và phát triển. Do lý do này mà Mạnh tử nói nên “tồn tâm, dưỡng tính” (Bài 1 chương 13 Tận Tâm thượng) . Gìn giữ tâm có nghĩa là gìn giữ “nguồn” của nhân nghĩa, bồi dưỡng tính có nghĩa là nuôi dưỡng “nguồn” nhân nghĩa. Tóm lại, hiểu “đoan” là “nguồn” thì thích hợp với điều Mạnh tử muốn nói. Tuy nhiên, nếu dịch “đoan” là “nguồn” hoặc “gốc” thì “tâm tứ đoan” phải dịch “tâm có/của 4 nguồn” hoặc “tâm có/của 4 gốc” trở nên rất khó hiểu và khó nghe!

Viết đến đây người dịch không biết phải giải quyết thế nào cho ổn nên xem xét lại nguyên văn của sách Mạnh Tử thì thấy ông chỉ dùng từ “tứ đoan” 3 lần trong bài 6 của chương 3 Công Tôn Sửu với cách nói “con người có tứ đoan” chứ không có từ “tâm của tư đoan”, từ này do Jinsai dùng để đặt tựa cho hạng mục này. Với từ “đoan” Mạnh tử dùng như sau: “Tâm của trắc ẩn (thương xót) là “đoan” của nhân (tình thương). Tâm của hổ thẹn (tu ố) là “đoan” của nghĩa….”.  Có nghĩa là “đoan” trong sách Mạnh Tử để nói “đoan” của nhân nghĩa chứ không phải của tâm. Do đó nếu dịch câu trên như “Lòng thương xót là nguồn phát sinh của nhân. Lòng hổ thẹn là nguồn phát sinh của nghĩa…” thì đúng ý của Mạnh tử muốn nói lại dễ hiểu. Đối với từ “tâm tứ đoan” hoặc không dùng cách nói này hoặc dịch là “tâm có/của 4 nguồn phát sinh nhân nghĩa lễ trí”. 

Người dịch lại nhớ Jinsai thường dùng từ “dị đoan” để chỉ các tư tưởng, học thuyết không phải của thánh nhân, không phải của Khổng Mạnh, hoặc để chỉ tà thuyết. Từ điển tiếng Nhật giải thích “dị đoan” là không thuộc “chính thống” hoặc để chỉ các tôn giáo hoặc học thuyết được một số ít người tin với tính cách ngoại lệ so với những tôn giáo hoặc học thuyết được nhiều người công nhận là chính thống vào thời đại dó. Đào Duy Anh giải thích “dị đoan” là 1) Những điều tín ngưỡng lạ lùng, 2) Dị giáo (superstition, hétérodoxe, hérésie). (Ông giải thích “dị giáo” là tôn giáo không phải thứ mình tin tưởng). Xem ra, từ điển tiếng Nhật giải thích rõ ràng và khách quan nhất. Trong trường hợp từ “dị đoan”, hiểu “đoan” là “nguồn hoặc gốc phát sinh” vẫn hợp nghĩa, và “dị” nghĩa là “khác với chính thống”.

Đối với chữ “thủy 始” thường cho chúng ta hình ảnh “bắt đầu” (của thời gian) hơn là hình ảnh của nơi xuất phát (không gian). Nếu dùng từ “nhân” có nghĩa là “hạt giống” thì có thể sinh ra hiểu nhầm vì “giống” thì có tốt có xấu, ở đây Mạnh tử muốn nói là “nguồn phát sinh “tính thiện” của con người” và tất cả mọi người đều có như nhau. 

Sau khi viết nhận xét (2) này xong, người dịch cảm thấy hiểu hơn lý do mà Jinsai không đồng ý cách giải thích từ “đoan” của Chu Hy: không phải là những lý do viết ở nhận xét (1). Khi dịch Điều 2 của tiết này và đọc Tiết 5 Đức người dịch hiểu ra rằng: hiểu sai nghĩa của chữ hoặc của từ ngữ thì sinh ra hiểu sai cả ý rồi đưa đến việc áp dụng sai và triển khai sai. Khi triển khai sai thì không những hại bản thân mà hại cả người khác. Phải chăng đây là lý do phê bình nghiêm khắc của Jinsai?

Thật ra Jinsai đã viết ý trên trong “Lời tựa” của sách nhưng người dịch vô ý không đọc trước, đến sáng ngày 2/2/2024 khi sắp hoàn thành bản dịch tiết này mới đọc tới!

Điều 2

Trong Mạnh Tử Tập Chú (sách chú thích và giảng nghĩa nội dung sách Mạnh Tử của Chu Hy) viết “Tứ đoan (4 nguồn phát sinh nhân nghĩa lễ trí, nói theo Chu Hy là 4 “manh mối” của nhân nghĩa lễ trí) có trong con người (chúng ta) và tùy theo nơi hoặc trường hợp mà (chúng ta) phát hiện ra chúng. Nếu ai biết làm chúng sung mãn đến mức lượng có sẵn từ đầu của chúng (bản nhiên chi lượng) thì chúng mỗi ngày mỗi mới (1) đến mức độ chính bản thân mình cũng không có thể dừng lại được”. Ý muốn nói của “phát hiện ra” trong lời nói trên là “Nếu thấy được điều đúng nên thương xót thì (chúng ta) thương xót, nếu thấy đúng điều phải hổ thẹn thì hổ thẹn, nếu thấy điều đúng phải khiêm nhường (khiêm tốn và nhường nhịn) thì khiêm nhường, nếu thấy điều đúng phải phân biệt đúng sai thì phân biệt đúng sai”.

Nếu như Chu Hy giải thích, thì rõ ràng là, nếu không thấy được những điều đúng phải thương xót, đúng phải hổ thẹn, đúng phải khiêm nhường, đúng phải phân biệt đúng sai thì lòng thương xót, lòng hổ thẹn, lòng khiêm nhường và lòng phân biệt đúng sai không có dịp (cơ hội) phát sinh ra. Tuy nhiên, số cơ hội (chúng ta) gặp được việc đúng phải thương xót trong một ngày không phải nhiều. Đôi lúc suốt trong 10 ngày trôi qua, cũng có thể không gặp được trường hợp nào đáng thương xót. Đối với trường hợp của việc hổ thẹn, khiêm nhường và phân biệt phải trái cũng tương tự. Như vậy, số ngày (chúng ta) dùng sức để phát hiện tứ đoan thường ít ỏi mà số ngày không làm gì lại nhiều hơn. Như thế, dù (chúng ta) có muốn dùng sức khuếch sung tứ đoan để đi nữa thì phải làm bằng cách nào để thực hiện được đây? Ngoài ra, ngay cả trường hợp (chúng ta) chỉ muốn khuếch sung lòng thương xót (tâm trắc ẩn), (chúng ta) cũng còn lo sợ mình không đủ khả năng nói chi đến việc khuếch sung “từng thứ một của tất cả 4 thứ đoan” (Jinsai ý thức chủ trương của Lục Tượng Sơn nên nói điều này). Do đó, nỗi lo sợ khi gặp người khác, (chúng ta) phải nhìn trước xem sau, không còn thời giờ ứng tiếp thật là khó tránh được phiền não khó đam nỗi.

Trong khi đó, nội dung mà Mạnh tử truyền đạt thật sự không phải khổ cực như vậy mới thực hiện được. Nội dung đó là tứ đoan có sẵn trong con người chúng ta giống như chúng ta sinh ra có sẵn 2 tay và 2 chân; không nghe người khác dạy cũng hiểu, không nghĩ tới chúng cũng tự nhiên đến (Bài 6 chương 11 Cáo Tử thượng), tại sao lại cần phải chờ phát hiện ra chúng! Tại sao lại cần phải tập trung tinh thần chú ý nhận thức mới phát hiện ra được chúng! Đúng là thật sự không lĩnh hội được ý của Mạnh tử một chút nào cả!

Tượng Sơn (2) nói: “Các người luận về học thuyết gần đây (3) cần phải bổ sung từng thứ một của tất cả 4 thứ đoan khi khuếch sung chúng”.

Tại sao lại phải có cái lý luận như vậy? Chẳng phải lúc đương thời Mạnh tử đã từng làm sáng tỏ rằng con người lúc chào đời đã có sẵn tứ đoan, và đó là đặc tính tốt lành (tính thiện) của con người; do đó (chúng ta) không nên tự cho mình không có khả năng làm điều thiện, điều tốt mà tự hủy hoại bản thân mình (Bài 6 chương 3 Công Tôn Sửu), đó sao?

Một khi tứ đoan có ở trong tâm tức là cái lý (có thể hiểu là quy luật, việc tất nhiên) của tứ đoan tự nó sẽ rõ ràng, nghĩa là đối với điều thật sự đáng thương xót thì con người tự nhiên sẽ thương xót; đối với điều thật sự đáng xấu hổ thì tự nhiên xấu hổ, đối với điều thật sự đáng khiêm nhường thì tự nhiên sẽ khiêm nhường, nếu điều thật sự phải phân biệt đúng sai xảy ra trước mặt thì con người tự nhiên sẽ phân biệt đúng sai. Lời này thật quá rõ ràng. (Thế mà Tượng Sơn nói như trên,) Chẳng khác gì không hiểu được ý của Mạnh tử!

Mạnh tử nói “Con người ai cũng có lòng thương xót (trắc ẩn), khi thấy người khác bị tai hại thì không nỡ (bất nhẫn) bỏ qua, việc khuếch sung (nguyên văn chữ Hán là “đạt”) lòng thương xót này chính là nhân (của nhân nghĩa lễ trí). Con người ai cũng có lòng hổ thẹn (tu ố) không muốn làm việc bất nghĩa, bất chính, việc khuếch sung (nguyên văn chữ Hán là “đạt”) lòng không muốn làm việc hổ thẹn này chính là nghĩa” (4) (Bài 31 chương 14 Tận Tâm hạ). Các từ “không nỡ (bất nhẫn)”, “không làm (bất vi)” này là “lòng thương xót (trắc ẩn)”, “lòng hổ thẹn (tu ố)”, theo thứ tự. Từ “đạt” trong nguyên văn ý nói “khuếch sung”. Tôi cho rằng lòng thương xót, lòng không muốn làm việc hổ thẹn không có chỗ nào mà không tiếp nhận (nghĩa là chắn chắn được tiếp nhận ở mọi nơi). Chẳng phải ý tưởng muốn truyền đạt của Mạnh tử thật là rõ ràng, thích đáng, và hiệu quả (của ý tưởng này) thật là giản dị và gần gũi (thân thiết) sao?

Tôi nghĩ rằng mặc dù 2 tiên sinh Chu và Lục đều rất tôn kính và tin tưởng Mạnh tử nhưng Hối Am (tức Chu tử) thì chuyên lấy “trì kính” (phương pháp tu dưỡng bằng tập trung ý thức) làm chủ yếu, còn Tượng Sơn thì trước hết lấy việc thành lập “cái to lớn ấy” (5) (ý nói lý luận, lý thuyết của tính thiện v.v…) làm chủ yếu nhưng đối với nghiên cứu phương pháp khuếch sung (ý nói phương pháp thực dụng) thì thật sự chưa hề bỏ công sức lần nào. Té ra thất bại (của ông) to lớn như thế này!

(*) Nguồn: Itô Jinsai (1683): Ngữ Mạnh Tự Nghĩa (語 孟 字 義)

Ghi chú

(1) “Mỗi ngày mỗi mới”: Trích từ sách Đại Học, câu châm ngôn mà vua Thang cho khắc ở bồn tắm của ông để cảnh giác bản thân.

(2) Trích từ Ngôn Lục thượng của Tượng Sơn Tiên Sinh Toàn Tập quyển 34 nhưng Jinsai viết lại cho dễ hiểu. Lục Tượng Sơn (1139~ 1193), tên Cửu Uyên, đậu Tiến sĩ ra làm quan nhưng lúc 49 tuổi mở trường dạy học. Ông cùng thời với Chu Hy.

(3) Ý nói các người trong học phái của Chu tử.

(4) Nếu dịch sát nguyên văn câu này rất khó hiểu nên ở đây dùng nội dung dịch tiếng Nhật hiện đại của Tanaka Netarô, dễ hiểu và đúng ý.

(5) Dùng từ “Kỳ đại giả” trong Bài 14 chương 11 Cáo Tử thượng: “Dưỡng kỳ tiểu giả, vi tiểu nhân; dưỡng kỳ đại giả, vi đại nhân” (Nuôi dưỡng điều (cái) nhỏ (việc không quan trọng) thì làm tiểu nhân; nuôi dưỡng điều (cái) lớn (việc quan trọng) thì làm đại nhân).

Nhận xét

(1) Để thực hiện nhân nghĩa lễ trí, theo Chu Hy thì quá khó, theo Jinsai thì quá dễ! Tuy nhiên cách viết của Jinsai “Một khi tứ đoan… đúng sai. Lời này thật quá rõ ràng” có thể gây hiểu lầm lớn hoặc có thể do người dịch chưa nắm được ý của ông? Theo ý của đoạn văn này thì để thực hiện nhân nghĩa thì cứ giao phó cho bản tính tự nhiên của mình. Nếu như vậy tại sao Mạnh tử lại nói cần phải “khuếch sung”? Không biết trong tiết khác hoặc trong tác phẩm khác, ông có đề cập cụ thể làm thế nào để khuếch sung không? Nếu không thì ông chẳng khác với Tượng Sơn, vì phê bình người khác mà không đưa cách giải quyết.

Theo người dịch nghĩ rằng trước khi khuếch sung, ít nhất cần phải gìn giữ tâm để “nguồn phát sinh tứ đoan” không bị che lấp. Một phương pháp thực hiện điều này là tập luyện được “sunao na kokoro” (người dịch dịch là tâm tự nhiên) của Matsushita Kônosuke. Một phương pháp dễ dàng hơn mà người dịch mới nghĩ ra là “không bỏ quên lòng biết ơn”. Hãy luôn luôn ghi nhớ rằng “con người không thể tồn tại nếu không có sự giúp đỡ hoặc làm việc của người khác”. Người dịch tin rằng nhờ lòng biết ơn chúng ta có thể không để cho tự ái cá nhân, lợi ích cá nhân và nhiều thứ khác che lấp lên nguồn phát sinh tính thiện của con người, là tứ đoan. Ngoài ra, việc học, việc đọc sách cũng ích lợi, giúp chúng ta biết những trường hợp chưa từng gặp qua để suy nghĩ, xem xét trước để khi gặp phải có thể ứng xử đúng đắn.

Nếu chỉ giao phó cho bản tính tự nhiên mà không cố gắng tập luyện gì cả trong cuộc sống ngày thì tứ đoan chỉ phát sinh ở những trường hợp sự kiện bên ngoài có tác dụng rất mãnh liệt như “cắn rứt lương tâm” làm cho các cặn bã che lấp nguồn phát sinh tính thiện bay mất đi để cho tứ đoan phát sinh trở lại.

Tài liệu tham khảo

(1) Yoshikawa Kôjirô & Shimizu Shigeru (1971): Nhật Bản tư tưởng đại hệ 33- Itô Jinsai và Itô Tôgai (tiếng Nhật), nhà xuất bản Iwanamishoten.

(2) Tanaka Netarô (2021): Mạnh Tử (sách điện tử, tiếng Nhật), nhà xuất bản Seibundo Shinkosha.

Nguyễn Sơn Hùng
Bắt đầu ngày 29/1/2024
Viết xong ngày 3/2/2024

Trở về trang chủ

Xem thêm cùng tác giả: Những bài viết và dịch của Nguyễn Sơn Hùng









Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2024

KÝ ỨC - Thơ Phượng Hồng và Thơ Họa


                            

       KÝ ỨC

Ký ức bùng lên đẹp giấc mơ

Xua đi đêm trắng ngỡ phai mờ

Chùm phim óng ả hồng nhung lụa

Vàng gấm tơ, lòng dạ ngẩn ngơ

Rót xuống trần gian xuyên ngõ ngách

Tỏa lan cõi tạm khắp sông hồ

Nao nao khoảnh khắc thân thương ấy

Gợi nhớ ngày xưa thuở dại khờ !

PHƯỢNG HỒNG


Thơ Họa:

      KÝ ỨC

Cạn tuổi xuân thì, xóm nhỏ mơ

Buồn trông đỉnh núi phủ sương mờ

Thời gian tựa gió lùa qua vội

Bến mộng như thuyền đợi ngóng ngơ

Bảng lảng tầng không vờn ngợp khói

Bâng khuâng tiếng sóng vỗ quanh hồ

Vàng phai lá rụng bờ hoang tưởng

Ký ức về gom mãi khạo khờ…

Lý Đức Quỳnh

   20/4/2024


  KỶ NIỆM HIỆN VỀ

1- Kỷ niệm hiện về trong giấc mơ,

Đời như bừng sáng hết lu mờ.

Khung trời rực rở màu tươi mịn,

Cảnh trí tỏa bồng sắc bóng ngơ.

Mộng mị bổng vương xuyên khắp chốn,

Thân thương chực đến trãi sông hồ.

Bốn bề nhân nghĩa gom quy tụ,

Xực tỉnh không vơi nhớ tuổi khờ.

                       *

Đôi dòng mượn tạm kết vần thơ.

 

2- Em về bên ấy dệt niềm mơ,

Để lại ai đây kiếp sống mờ.

Đám cưới mịn màng đeo áo lụa,

Hôn nhân bỏ kẻ sống ngu ngơ.

Pháo vui câu chúc vang làng xóm,

Mắt lệ sầu riêng ngập bể hồ.

Cười khóc có đâu phân biệt nhớ,

Phòng không dành lại kẻ ngu khờ.

                           *

Cuộc tình xé nát khó thành thơ!

HỒ NGUYỄN

 (20-4-2024)

 

    VƯƠNG VẤN

Âm thầm vương vấn nỗi hoài mơ!

Hình bóng làng tôi chửa nhạt mờ!

Lảnh lót câu hò ru dạ ngẩn

Yên bình nắng trải gợi hồn ngơ

Chờ mong có dịp qua rừng núi

Ngóng đợi về quê ghé biển hồ

Bến cũ, cây đa mình hẹn nhé!

Cười ên tủm tỉm giống như khờ!

  Như Thu

04/20/2024

 

MỘT THỜI VANG BÓNG

Đêm về ký ức mộng nằm mơ

Nhớ lại, vàng son khói tỏa mờ

Thoăn thoắt mình dây em nhảy nhót

Tung tăng chân sáo trẻ ngu ngơ

Cành vương nắng lụa xuyên vòm lá

Liễu rũ mành tơ chiếu mặt hồ

Ôn cố tri tân mà luyến tiếc

Một thời vang bóng tuổi ngây khờ…!

   MAI XUÂN THANH

 Bay Area April 19, 2024

 

      GỢI SỐC

Đêm khuya thức giấc bởi nằm mơ

Đã mấy mươi năm không thấy mờ

Năm ấy tháng Tư lộ diện rõ

Bảy lăm thay dép mặt làm ngơ

Diễn oai khăn đỏ bạn cùng khoá

La hét lung tung ở thành hồ

Khó hiểu sự đời đen đổi trắng

Cùng nhau học nữa tránh mê khờ …

  Yên Hà

20/4/2024

 

    MƠ ÔI!

(Nương vận họa vui)


Ôi chao mọi sự tưởng như mơ!

Ôi cả nhân sinh đã hóa mờ

Ôi chết đầy kia nào ngó tới

Ôi tan khắp đó vẫn làm ngơ

Ôi bom độc ác còn hơn khỉ

Ôi dạ lưu manh chẳng khác hồ

Ôi thế thời ôi, ôi thế thế…

Ôi đừng đụng đến kẻo cho khờ.

Thái Huy

 4/20/24

 

     LỠ BẾN

Phượng hè hé nở rộn hoài mơ,

Phảng phất tình xưa chẳng xoá mờ.

Phong kín tâm tư nhiều nhớ tưởng,

Phôi phai hồn mộng lắm sầu ngơ !

Phong thư tuổi nhỏ lòng ngây dại,

Phòng lớp trường xưa ý khạo khờ !

Phóng khoáng tình yêu trao thuở đó…

Phải đành lỡ bến chuốc giang hồ !

Liêu Xuyên

 

QUÊ CŨ NGÀY XƯA

Xa quê, bỏ lại một trời mơ

Hình ảnh thân thương chẳng xóa mờ

Bến nước đông vui người đến chợ

Con đường thơ mộng kẻ sang hồ

Những mùa phượng vĩ tràn lưu luyến

Từng buổi hẹn hò rộn ngác ngơ

Lúng túng nụ hôn đầu vụng dại

Dưới vầng trăng bạc thuở ngây khờ.

   Sông Thu

( 21/04/2024 )


      KÝ ỨC

Và đây tất cả ý luôn mơ

Mặc định tình kia chẳng nhạt mờ

Xưa đã bao thu-làm ngất lịm

Hiện còn mấy nắng-khiến lơ ngơ?

Nói ra lạỉ nhớ-khi dong phố

Bàn đến càng thương-lúc dạo hồ


Thoải mái du tình trong giấc mộng

Mình ơi, yêu đấy chứ không khờ!

Thái Huy

 4/21/24

 

TUỔI THƠ NGÀY HẠ

          (Họa 4 vần)

Khi màu nắng ửng đẹp trời mơ

Tạo hoá hồn nhiên dưỡng ảo mờ

Những đoá hoa vàng thi rộ nở

Bao tình ái rạng cảm hoài ngơ

Trần gian một cõi xao mùa bức

Ngách ngõ ngàn nơi ủ mộng khờ

Khoảnh khắc dìm sâu đòi vẹn vẽ

Nao lòng nhắc lại thuở còn thơ.

Mai Thắng

  240422

 

    QUÊ NGOẠI 

Tuổi già nhiều lúc mặt lơ ngơ

Quê ngoại ngày xưa tỏ-nhạt-mờ.

Trong xóm lưa thưa hàng quán chợ

Trên sông chen chúc ghe thương hồ.

Tiếng rao lanh lảnh con đường vắng

Em bé ngây ngô ánh mắt khờ.

Tất cả còn hằn trong ký ức

Cho tôi sống lại một trời mơ!

 Mailoc

4-21-24

 

ÔN LẠI CHUYỆN XƯA

Tuổi ngọc vàng son những ước mơ

Thanh niên hoài bảo tối trăng mờ

Tao phùng bằng hữu lòng thông cảm

Gặp lại cố nhân dạ nỡ ngơ

Chạnh nghĩ thuyền ra khơi biển cả

Buồn suy bến đỗ chốn giang hồ

Trăm năm lối cũ bao chờ đợi

Cõi tạm đường xưa mấy dại khờ…!

    MAI XUÂN THANH

  Bay Area April 21, 2024

 

   TUỔI DẠI KHỜ

Mười sáu nên trăng lắm mộng mơ

Thương thầm, nhớ trộm, ái mù mờ

Trưa hè tròn bóng, chàng ngồi ngóng

Xế hạ trọn chiều, thiếp đứng ngơ

Bé bảo chờ nhau bên suối Nguyệt

Anh thưa gặp Ngọ cạnh Rùa hồ

Ngây thơ nào biết yêu là khổ

Trinh trắng trao ai tuổi ngố khờ.

     LAN

(2204/2024)

        
       NGÓ LẠI 
Cuộc đời chồng chất những cơn mơ
Nó khiến không gian cũng tỏ mờ
Để kỷ niệm xưa luôn sống động
Nhưng tình trường đó quá ngu ngơ
Nắng mưa chạnh nhớ thề non nước
Sương gió hoài mong mộng hải hồ
Thoắt nửa trăm năm xô dĩ vãng 
Giờ thì ngó lại thấy như khờ ...
   Rancho Palos Verdes 21 - 4 - 2024

              CAO MỴ NHÂN 

 

 

KỶ NIÊM MỘT THỜI 
Khoảnh khắc say nồng trong giấc mơ...
Đến khi bừng tỉnh không gian mờ.
Ngoài trời còn tối đen như mực,
Bỗng giác lòng tôi tiếc ngẩn ngơ...
Giấc mộng tan rồi theo gió bảo...
Xác xơ cây cỏ cạnh bên Hồ.
Ngày xưa cuộc sống vàng son ấy.!...
Kỷ niệm một thời nay dại khờ...
Mỹ Nga, 22/04/2024. AL, 14/03/Giáp Thìn

 

   GIẤC MƠ XƯA

         (Họa 4 vần)

Kỷ niệm ru mềm ngỡ giấc mơ

Sao quên được những lối sương mờ

Bên em cúc điểm vàng xinh luyến

Cạnh dốc hoa chào tím đẹp ngơ

Dạ ấy tình gieo thề tiếng hẹn

Lòng đây sóng cuộn hứa câu chờ

Phong ba cuộc sống đời đôi ngả

Có lúc chiều buông mắt lạc khờ

      Minh Thúy Thành Nội

Tháng 4/22/2024

 

THOÁNG GIẤC MƠ QUA

Giật mình thức giấc biết vừa mơ

Hình ảnh ngày xưa tưởng đã mờ

Nắng nhạt công viên đùa tinh nghịch

Mây mù quán gió chuyện ngu ngơ

Giã từ bạn học đường hoạn lộ

Tạm biệt người thương tuổi khạo khờ

Xếp bút sa trường vang tiếng gọi

Đì đùng pháo nổ kiếp giang hồ

Hưng Quốc

       Texas 4-22-2024

 

    GIỮ TRONG TIM

Thuở bé thường hay thích mộng mơ

Lung linh hình ảnh hiện lờ  mờ

Vui buồn lẫn lộn thời son trẻ

Tha thiết vụng thầm trí ngất ngơ

Đùa giỡn quây quần bên mái lá

Chạy chơi tìm kiếm cạnh ven hồ

Biết bao kỷ niệm thời thơ ấu

Giữ lại trong tim tuổi khạo khờ !

THIÊN LÝ


                   KÝ ỨC TRONG TÔI

Tuổi già nhưng vẫn ủ niềm mơ

Nước Việt trong tôi chẳng xoá mờ

Hình ảnh núi đồi như vải lụa

Bóng hình đồng ruộng tựa sông hồ

Niềm vui quấn quýt khi lòng sướng

Nỗi khổ vương mang lúc dạ ngơ

Khắc khoải tâm tư hoài kỷ niệm

Nào nguôi thân phận thuở ngu khờ

Songquang

                                 20240427