ĐIỀU BÍ ẨN TRONG
BÀI CHỨC CẨM HỒI VĂN
CỦA TÔ HUỆ
CÁCH ĐÂY HƠN 2000 NĂM
HỒ
ĐẮC DUY
Đất Thần Châu, đời Tấn có nàng Tô Huệ tự Nhược Lan có chồng là Đậu Thao đi thú ở Lưu Sa nơi gian lao hiểm trở. Lâu ngày nhớ chồng, nàng làm một bài trường thi dài 280 chữ, dùng chỉ ngũ sắc thêu bài thơ lên một bức gấm, bài thơ không thêu từ trên xuống dưới, từ phải sang trái như lối thông thường mà bố trí thành 32 ô vuông, đặt tréo.
Đem dâng vua, vua không đọc được. Quần thần và các bậc thức giả thời bấy giờ cũng không đọc được bức gấm thêu chữ này, không hiểu ý nghĩa của nó ra sao nên phải triệu tác giả đến đọc cho vua nghe. Vua nghe thơ hay, thấy lạ, cảm tấm lòng của nàng chinh phụ thương chồng, lại phục tài nữ công của nàng nên tha cho Đậu Thao trở về.
Dưới đây là phần phiên âm và các bức ảnh mà chúng tôi có được, bài này tôi viết cách đây hơn 10 năm được lưu hành trên internet và đươc nhiều website chép lại nay soạn lại gởi cho các độc giả đọc chơi
CHỨC CẨM HỒI VĂN
Quân thừa Hoàng chiếu yên biên thứ
Tống quân viễn biệt hà kiều lộ
Hàm bi, yểm lệ, tặng quân ngôn
Mạc vong ân tình tiện trường khứ
Hà kỳ nhất khử âm tín đoạn
Ức thiếp bình vi xuân bất noãn
Quỳnh dao giai hạ bích đài không
San hô trướng lý hồng trần mãn
Thử thời dao biệt mỗi kinh hồn
Tương tâm hà thác cánh phùng quân.
Nhất tâm nguyện tác thương hải nguyệt
Nhất tâm nguyện tác lãnh đầu vân
Lãnh vân tuế tuế phùng phu diện
Hải nguyệt niên niên chiếu đắc biên
Phi lai phi khứ đáo quân bàng
Thiên lý vạn lý dao tương kiến
Thiều thiều lộ viễn, quan san cách
Hận quân tái ngoại trường vi khách
Thử thời tương biệt lô diệp hoàng
Thuỳ tín kỷ kinh mai hoa bạch
Bách hoa tán loạn phùng xuân tảo.
Xuân ý thôi nhân hướng thuỳ đạo
Thuỳ dương tảo địa vị quân phan
Lạc hoa mãn địa vô nhân tảo
Đình tiên xuân thảo chinh phân phương
Bảo đắc Tần-trang hướng hoạ đường
Vị quân đàn đắc Giang Nam khúc
Phụ ký tình thâm đáo Sóc phương
Sóc phương thiều đệ sơn hạ việt
Vạn lý âm thư Trường đoạn tuyệt
Ngân trang chẩm thượng lệ triêm y
Kim lũ la thường hoa giai liệt
Tam xuân hồng nhạn độ giang thanh
Thử thị ly nhân đoạn trường tình
Tranh huyền vị đoạn, trường tiên đoạn
Oán kết tiên thành, khúc vị thành
Quân kim ức thiếp trọng như san
Thiếp diệc tư quân bất tạm nhàn
Chức tương nhất bản hiến Thiên Tử
Nguyện phóng nhi phu cập tảo hoàn.
Bài này đã được một số danh nho dịch sang tiếng Việt, bản dịch gần sát với nguyên bản và bay bướm cũng với số lượng là 280 chữ đáng kể là của Hoàng Quang, một danh nho đời Lê thế kỷ 18, tiến sĩ Ngô Thế Vinh đời Tự Đức thế kỷ 19
Bài thơ thất ngôn cổ phong này gồm tất cả 280 chữ. Đoạn cuối bài thơ là nét chữ lớn, nằm trong 32 ô vuông, mỗi ô một chữ, riêng ô chính giữa có hai chữ: Thiên tử. Tại sao lại có chữ lớn và chữ nhỏ? Có lẽ Tô Huệ muốn gây sự chú ý của Đức Vua vì mấy câu chữ lớn chính là cốt lõi của bài thơ nói lên cái ý tha thiết xin cho chồng về.
Bài thơ đã được chính Tô Huệ là tác giả đọc ra được ghi lại nhưng hướng dẫn để đọc được bài thơ như vậy thì nhiều người nói rất mơ hồ như là đọc từ bên trái, ngang ngoài biên, đọc xuống hàng biên bên phải lại đọc ngược lên, theo lối chữ chi...
Quả thật là rối rắm và khó khăn là không biết rõ, không biết bắt đầu từ đâu và kết thúc chỗ nào cho nên không ai đọc được ngoài chính tác giả nhưng khi khám phá ra được cách đọc và bắt đầu từ đâu của bức chữ trên gấm mới biết được đó là một bài thơ rất độc đáo.
Đọc được bài thơ thì mới chỉ cảm nhận được cái hay, cái chất thơ, cái nỗi lòng của Tô Huệ đối với chồng, nỗi lòng của một thiếu phụ mòn mõi đợi chồng, bức thông điệp tình yêu và nỗi nhớ nhung mà Tô Huệ gởi cho chồng đang ở ngoài biên cương
Trước hết là bản dịch nghĩa của một người bạn vong niên là nhà thơ Tô Kiều Ngân chép ra để các bạn dễ tham khảo
Chàng vâng chiếu vua đi đồn trú nơi biên cương
Tiễn chàng qua cầu, đường xa thăm thẳm
Ngậm sầu, ngăn lệ trao chàng mấy lời
Đừng quên tình này dù xa cách
Một ra đi tin tức đành vắng bặt
Phòng không của thiếp xuân về chẳng ấm
Dưới thềm hoa rêu đã phủ xanh
San hô màn trướng đầy buị bám
Buổi ấy chia tay lòng khiếp hãi nhường bao
Lo làm sao cho gặp lại được chàng
Xin được làm ánh trăng nơi biển xanh
Xin được làm mây lạnh trên đầu núi
Mây lạnh năm năm còn thấy được mặt chàng
Trăng biển năm năm còn soi dấu biên cương (nơi chàng ở)
Bay đi bay lại còn đến được gần chàng
Thăm thẳm đường xa, núi non cách trở
Giận chàng còn mãi làm người khách nơi biên tái
Buổi ấy xa nhau lá hoa lau úa vàng
Ai tin bây giờ hoa mai đã trắng xóa
Hoa nghiêng ngã gặp mùa xuân sớm
Nỗi niềm xuân xui khó nói ra
Thùy dương rụng lá cũng vì chàng
Hoa rơi đầy đất ai người quét
Trước sân cỏ xuân tỏa mùi thơm
Ôm đàn Tần Tranh ra phòng họa
Vì chàng đàn trọn khúc Giang Nam
Gửi gắm tình này về phương Bắc
Phương Bắc sông núi xa xôi thăm thẳm
Vạn dặm tin chàng dứt hẳn rồi
Vật trang sức trên gối, nước mắt em thấm áo
Áo thêu vàng, lụa vẽ hoa cũng từng chịu ủ ê
Ba xuân hồng nhạn kêu qua sông
Cũng giống nỗi đau đứt ruột của một người xa cách
Đàn chưa dứt mà lòng dứt trước
Oán kết rồi, đàn vẫn chưa rồi
Chàng nhớ em tình nặng như núi non
Em cũng nhớ chàng chẳng lúc nào khuây khỏa
Dệt bức gấm này cúi dâng Thiên tử
Xin cho chồng con được sớm trở về
Đây là bản dịch thơ của tiến sĩ Ngô Thế Vinh
Chàng vâng chiếu ra ngoài biên thứ
Thiếp đưa chàng kiều lộ xa xa
Mấy lời tặng những châu sa
Tình ân ái ấy biết là nhớ không
Sao một phút tin hồng văng vẳng
Chốn chinh vi xuân chẳng ấm nồng
Dưới thềm lỗ chỗ rêu phong
Trong màn ngang dọc bụi hồng sương che
Khi tống biệt hồn kia kinh hãi
Biết làm sao cho gặp lại cùng
Ước gì như nguyệt bể đông
Ước gì như thể mây hồng đầu non
Mây non nọ may còn một thấy
Trăng bể kia soi dậy một phương
Những mong lại được gặp chàng
Dẫu nghìn muôn dặm rõ đường tương thân
Đường thăm thẳm mấy lâu xa cách
Giận chàng còn làm khách ải quan
Ngày đi lư diệp mới vàng
Bây giờ đã mấy mai tàn trắng bông
Mai tán loạn gặp cùng xuân mới
Nỗi xuân riêng khôn nói cho ra
Vì chàng nên lá dương tà
Hoa rơi man mác ai là tảo nhân
Trước sân những cỏ xuân thơm nức
Ôm đàn tranh ra trước hoạ đường
Khúc Giang Nam gẩy vì chàng
Đem tình cho đến sóc phương cõi ngoài
Ngoài phương sóc xa xôi thăm thẳm
Bức âm thư nghìn dặm thấy đâu
Pha phôi áo lệ gối sầu
Dưới thềm hoa lá cùng mầu nở ra
Qua sông ấy tiếng gà xao xác
Nỗi ly nhân trường đoạn khác đâu
Đàn chưa rối ruột đã sầu
Cho nên một khúc cung sau chưa tròn
Chàng nhớ thiếp như non tình nặng
Thiếp nhớ chàng cũng chẳng tạm khuây
Hồi văn một bức thư này
Nhi phu xin sớm kíp ngày khởi qui
Ngô Thế Vinh
Bài của Hoàng Quang thời nhà Lê.
Chàng vâng chiếu ra yên cõi ngoại
Thiếp đưa chàng tới lối cầu sông.
Ngậm sầu gạt lệ nhắn lòng,
Chớ tham chốn khác mà vong tình này.
Trông tin tức tới nay thăm thẳm,
Để buồng hương chẳng ấm hơi xuân.
Từ ngày đôi ngả cách phân,
Màn dần bụi bám, thềm trần rêu phong.
Tưởng ly biệt nỗi lòng kinh sợ,
Thiếp với chàng bao thuở gặp nhau.
Nguyện làm trăng giữa biển sâu,
Nguyện làm mây phủ trên đầu non cao.
Trăng giữa biển năm nào cũng thấy,
Mây đầu non đường mấy cũng thông.
Bay qua bay lại bên chồng,
Dầu ngàn muôn dặm xa trông như gần.
Quan sơn ấy mấy lần trở cách,
Hiềm nỗi chàng làm khách rất lâu.
Chàng đi mới ố bông lau,
Mà nay mấy độ trắng màu hoa mai.
Trăm hoa thức xuân tươi hớn hở,
Xuân giục người than thở với ai.
Dương kia đủ những tơ dài,
Hoa kia rã cánh không người quét cho.
Sân xuân sớm thơm tho trăm thức,
Chốn hoạ đường lựa bậc đàn tranh.
Giang
Mượn đầu năm mong gởi tình Sóc phương.
Sóc phương ấy đôi đường diệu vợi,
Âm thư này nhắn gởi khôn thông.
Gối riêng nước mắt tuôn dòng,
Xiêm thêu áo vẽ lâu cùng mục tan.
Ba xuân tới tiếng nhàn gắng gởi,
Xuân giục người bối rối như tơ.
Năm dây còn đó sờ sờ,
Buồn đà đứt ruột khảy chưa rồi đàn.
Chàng thương thiếp tình hơn núi nặng,
Thiếp nhớ chàng tình chẳng kém thua.
Dệt đem bức gấm dâng vua,
Xét lòng dạ thiếp tha cho chồng về.
Hoàng Quang
Khi nghiên cứu cấu trúc của bài Chức Cẩm Hồi Văn mới thấy hết cái cách chơi của người xưa quả thực là tuyệt diệu, một lối chơi thật tao nhã có một không hai mà đã trên 2000 năm nay cũng chưa có kẻ hậu sinh nào giải mã được cái bí quyết, cái bí mật cũng như bức thông diệp này gởi đến cho vua mà khi nhà vua cầm bức gấm lên thì chỉ thấy trước mắt mình chỉ có một chữ THIÊN TỬ nằm ở trung tâm vũ trụ. Tất cả các chữ còn lại đều đọc được hết, nhưng toàn thể 280 chữ ấy nói cái gì thì Hoàng đế và cả quần thần học sĩ uyên bác cũng chỉ nhìn nó như một lời thách đố sức mạnh, vũ lực, gươm giáo, quân sỉ và tiền bạc, chức tước đã phải ngậm ngùi trước một câu đố hiễm hóc của một người đàn bà thông minh là Tô Huệ này.
Một bản thông điệp có trong tay, mà không ai giãi mã được, trong kết cấu của bài Chức Cẩm Hồi Văn có ẩn chứa một điều bí mật ở những con chữ to nằm trong 32 ô. Nếu là Dụng Hồi văn thể kiêm liên hoàn, với 280 chữ thành 40 câu thơ , mỗi câu 7 chữ thì có thể đọc lên đến 1600 bài thơ và nếu là bình trắc lục vận độc thành thất ngôn, ngũ ngôn hay theo các con chữ 280 mà xếp thì có thể lên đến cả chục triệu bài thơ, một chương trình cho máy vi tính có thể xử lý để in ra mấy chục triệu bài Chức Cẩm Hồi Văn đó.
Trong lịch sử chơi chữ của văn học Việt
Đây bài dịch thơ này cũng là một cách chơi, một cách chơi phải được tôn trọng: các chữ và nghĩa gần giống, sát nghĩa nhất và bằng chử Nôm trong 33 con chữ lớn, đặt biệt là chữ VUA (Thiên tử ) nằm ở vị trí số 273 chữ VỀ (Hoàn) nằm ở vi trí 280, xin chép ra để các bạn cùng chơi cho vui trong lúc trà dư tửu hậu.
Bản dịch thơ của Ma Tiến Sĩ 1991
Chàng lãnh chiếu dẹp yên ngoài cõi
Tiễn đưa người tới lối cầu sông
Ngậm buồn ngăn lệ nhủ cùng
Dù xa cách mấy cũng đừng quên nhau
Từ dạo ấy tin đâu vắng vẻ
Để phòng the lạnh lẽo đêm xuân
Trước thềm rêu phủ xanh dần
Trong màn bụi bám mấy lần nào hay
Buổi chia tay lòng đầy kinh hãi
Biết làm sao gặp lại chàng ơi
Xin làm biển nọ trăng soi
Xin làm mây lạnh trên đoài non xa
Mây lạnh đó năm qua còn thấy
Biển năm năm trăng trẩy biên cương
Tới lui trăng vẫn bên chàng
Nghìn trùng vạn dặm có nhường thấy chăng
Đường thăm thẳm quan sơn cách trở
Hận vì chàng sao ở quá lâu
Ngày đi vàng cánh hoa lau
Mà chừ trắng xóa cả màu bạch mai
Hoa nghiêng ngã gặp ngày xuân sớm
Nỗi niềm xuân biết ngõ cùng ai
Thùy dương lá rụng chàng ơi
Hoa rơi ngập đất ai người quét đây
Trước sân đầy cỏ xuân thơm ngát
Chốn họa đường ôm chiếc Tần Tranh
Giang Nam dạo khúc vì chàng
Gởi tình em đến Bắc Phương cõi ngoài
Nơi phương Bắc xa xôi vời vợi
Vạn dặm đường tin tới hay không
Gối khăn lệ đẫm từng dòng
Áo vàng lụa vẽ hoa cùng rưng rưng
Ba xuân đến qua sông tiếng nhạn
Khác chi người xa bạn người ơi
Ruột đứt đàn vẫn còn hoài
Đàn chưa trọn khúc đau nay đã thành
Chàng nhớ thiếp nặng tình như núi
Thiếp nhớ chàng khôn nỗi nào khuây
Cúi dâng một bức gấm này
Vua tha chàng sớm được quay trở về
Hồ đắc Duy
Xin vẽ tặng các bạn một sơ đồ hướng dẫn cách đọc bài hồi văn này. Cũng xin đăng nguyên văn bằng chữ Hán để tiện việc đối chiếu. Bản chữ Hán này chúng tôi cho in theo bản tìm được ở nhà của nhà thơ Việt Trang tại Đà Lạt cách đây hơn 10 năm.
Chàng lãnh chiếu dẹp yên ngoài cõi
Tiễn đưa người tới lối cầu sông
Ngậm buồn ngăn lệ nhủ cùng
Dù xa cách mấy cũng đừng quên nhau
Từ dạo ấy tin đâu vắng vẻ
Để phòng the lạnh lẽo đêm xuân
Trước thềm rêu phủ xanh dần
Trong màn bụi bám mấy lần nào hay
Buổi chia tay lòng đầy kinh hãi
Biết làm sao gặp lại chàng ơi
Xin làm biển nọ trăng soi
Xin làm mây lạnh trên đoài non xa
Mây lạnh đó năm qua còn thấy
Biển năm năm trăng trẩy biên cương
Tới lui trăng vẫn bên chàng
Nghìn trùng vạn dặm có nhường thấy chăng
Đường thăm thẳm quan sơn cách trở
Hận vì chàng sao ở quá lâu
Ngày đi vàng cánh hoa lau
Mà chừ trắng xóa cả màu bạch mai
Hoa nghiêng ngã gặp ngày xuân sớm
Nỗi niềm xuân biết ngõ cùng ai
Thùy dương lá rụng chàng ơi
Hoa rơi ngập đất ai người quét đây
Trước sân đầy cỏ xuân thơm ngát
Chốn họa đường ôm chiếc Tần Tranh
Giang Nam dạo khúc vì chàng
Gởi tình em đến Bắc Phương cõi ngoài
Nơi phương Bắc xa xôi vời vợi
Vạn dặm đường tin tới hay không
Gối khăn lệ đẫm từng dòng
Áo vàng lụa vẽ hoa cùng rưng rưng
Ba xuân đến qua sông tiếng nhạn
Khác chi người xa bạn người ơi
Ruột đứt đàn vẫn còn hoài
Đàn chưa trọn khúc đau nay đã thành
Chàng nhớ thiếp nặng tình như núi
Thiếp nhớ chàng khôn nỗi nào khuây
Cúi dâng một bức gấm này
Vua tha chàng sớm được quay trở về
Hồ đắc Duy
Xin vẽ tặng các bạn một sơ đồ hướng dẫn cách đọc bài hồi văn này. Cũng xin đăng nguyên văn bằng chữ Hán để tiện việc đối chiếu. Bản chữ Hán này chúng tôi cho in theo bản tìm được ở nhà của nhà thơ Việt Trang tại Đà Lạt cách đây hơn 10 năm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét