Thứ Tư, 30 tháng 11, 2016

* Khi Ông Tam Nguyên Chơi Tiếng Pháp - Thái Trọng Lai


Khi
 Ông Tam Nguyên
chơi  tiếng Pháp
  
T
RONG BÀI THƠ CHỮ HÁN Di Chúc Văn, ông Tam Nguyên bắt đầu bằng câu:
Ngã niên cặp bát bát
(Tuổi ta vào hàng bát bát), nhưng kỳ thực Nguyễn Khuyến chỉ thọ đến 75 tuổi (1835 - 1910). Rõ ràng là thế nhưng cả hội Đồng Môn (đám môn sinh của cụ) lại chấp thuận cho Trần Tán Bình dịch thành câu: “Kém hai tuổi xuân đầy chín chục”. Có lẽ hội Đồng Môn nghĩ rằng ông Tam Nguyên có ý đồ chọn cho mình một mức sống trường thọ như vậy (tăng thêm cho mình 13 tuổi) và người đời sau cũng nghĩ vậy, bởi thói quen tăng tuổi thọ cho mình là phép thường, hàng nghìn người cũng không ngờ vực gì chuyện ấy, mãi đến khi Trần Trọng San khám phá rằng dân Đông Di thường quen gọi người già là “bát bát” chữ đó không ngụ ý chỉ số liệu nhất định mà là chỉ chung cho người cao tuổi. Thực ra âm “bát bát” là tiếng Tây bởi Đông Di là chỉ chung những người “kém văn minh” ở phía Đông theo thành kiến người Trung Quốc thời xưa (Đông Di, Tây Nhung, Nam Man, Bắc Địch) toàn là lũ người kém văn hóa, chỉ có Trung Nguyên là văn minh tiến bộ, đáng danh... Thiên triều!
Chữ “bát bát” phiên âm theo tiếng Đông Di vốn là chữ “papa” ngụ ý là ông Tam Nguyên tự nhận mình thuộc thế hệ trước. Ông dùng hai tiếng “papa” thật gây bất ngờ cho môn đệ, dù Trần Tán Bình là người đỗ Tiến Sĩ từng giữ chức Đốc Học Hà Nam.
Lần thứ hai ông Tam Nguyên cũng xài tiếng Pháp thật bất ngờ, các sách chú giải tác phẩm văn học đều hoàn toàn bó tay. Đấy là trong bài Về Nghỉ Nhà.
      “Đất rộng biết thêm đường Dốc sậy
       Ngày rồi nghe những chuyện…la ga”.
Nhược điểm của chữ Hán Nôm là không có viết hoa để phân biệt tên riêng chung nên không ai nhận ra “la ga” là tiếng Pháp (la gare), vì thời bấy giờ nhà nước Pháp tiến hành làm đường xe lửa Hà Nội - Lào Cai là chuyện chưa hề xảy ra dưới thời ông Tam Nguyên chưa “Về Nghỉ Nhà”.
Thật là thú vị khi ông Tam nguyên đột nhiên giở tiếng Pháp để chơi trò bất ngờ khiến kẻ thông thạo tiếng Pháp như Xuân Diệu cũng bó tay, thú nhận không hiểu.

Thái Trọng Lai
(Trích tập truyện Tản Mạn)






Bụi Phấn - Trầm Vân


       BỤI PHẤN
" Khi thầy viết bảng
Bụi phấn rơi rơi
Có hạt bụi nào

Rơi trên bục giảng
Có hạt bụi nào
Rơi trên tóc thầy..."

Nghe em hát tiếng lòng bay
Rưng rưng nhớ lại những ngày trường xưa
Nhớ từng dòng phấn trắng đưa
Vẽ ngày tươi đẹp vẽ mùa mến thương
Vẽ thênh thang tiếng gió luồn
Vẽ lời chim hót sân trường líu lo
Vẽ ngây thơ bóng học trò
Vẽ thầy cô đứng chèo đò qua sông
Chở bao kiến thức xuôi dòng
Bóng trò tới bến bềnh bồng niềm vui...
Vẽ lên dòn dã tiếng cười
Áo bay trắng ngát cả thời học sinh
Vẽ dài ánh mắt long lanh
Mùa xuân đến vội nép mình chùm hoa
Con đường vui gót chân qua
Cặp nghiêng chân bước gió là đà nghiêng
Nghe em hát giọng ngọt mềm
Thời gian ngoái lại êm đềm ngược trôi
Xế chiều mái tóc rối bời
Trái tim khẽ gọi trường ơi, nhớ nhiều

         Trầm Vân




Thơ Xướng - Họa / Mùa Thu Ngơ Ngác (Cảnh Từ) & Các bài họa (Nguyễn Cang, HN, LHN, Con Gà Què)


Bài xướng:
 MÙA THU NGƠ NGÁC / Cảnh Từ
  
 


   
       MÙA THU NGƠ NGÁC
Ngơ ngác nhìn trời thu vừa sang
Chao ơi muôn lá ngã sắc vàng
Gió vờn lơi lả bay tà áo
Hồn bỗng vì ai thoáng ngỡ ngàng.

      Cảnh Từ
   
    Bài thơ "Mùa Thu Ngơ Ngác" chỉ vỏn vẹn 4 câu của thể thất ngôn tứ tuyệt biến thể, đã gieo vào lòng người đọc cảm giác bâng khuâng đầy cảm xúc với hình ảnh  một người con gái đang đứng trước rừng thu xao xác lá vàng bay. Tâm trạng của nàng vừa ngơ ngác vùa lo âu, không biết mùa thu đưa ta về đâu, gió thu lay nhẹ đôi tà áo khiến nàng giật mình tưởng như người yêu đang đứng đợi đâu đây, nhưng không! Quanh đây chỉ một mình ta, người yêu đã lỗi hẹn, bỏ đi xa rồi. Nàng đứng bơ vơ giữa khung trời bao la của rừng thu hiu quạnh. Mùa thu chia ly! Mùa thu vĩnh biệt! Có phải vậy không mà sao nàng ngỡ ngàng trách móc? Nàng trách mùa thu hay trách người yêu lỗi hẹn?  Ai biết đựơc. Cái hay của bài thơ ở chỗ không nói ra hết nhưng  để lại trong lòng người đọc nỗi bâng khuâng sầu lắng. Xin giới thiệu cùng bạn đọc. NC

Cảm tác:
Ngơ ngẩn nhìn thu nhuộm sắc vàng
Lá rơi từng chiếc báo thu sang

Gió đùa quấn quít mơn tà áo
Chợt thấy trong tim chút ngỡ ngàng.
    Nguyễn Cang

HỌA 1/:

Nhìn trời ngơ ngác ngắm thu sang,
Muôn lá buông lơi ngã sắc vàng.
Lơi lả gió vờn bay rủ áo,
Vì ai hồn bóng ngỡ duyên ngàng.
      HN

HỌA 2/:

      Hoài Thu
Mắt nai ngơ ngác ngắm thu sang
Áo trắng ngây thơ rực lá vàng
Thổn thức rừng thu thương với nhớ
Dáng xưa xao xuyến ngỡ hay ngàng?

      LHN

HỌA 3:

Hè chưa qua hết, chợt thu sang
Ngơ ngẩn,
bâng khuâng ngắm lá vàng
Áo trắng nhẹ vờn như cánh bướm
Như tiếng hồn rung bỗng ngỡ ngàng!

Con Gà Què

          ******
BÀI HỌA :  THU VÀNG

1)
Trong vắt hồ gương thu mới sang,
Rừng phong khô lá điểm tô vàng.
Đôi tà áo trắng vờn mơ mộng,
Một mảnh tình riêng mây gió ngàn


2)
Tóc uốn đen huyền thật đẹp sang,
Thơ ngây trong sáng  ngắm thu vàng.
Thướt tha vạt áo dài duyên dáng,
Yểu điệu đoan trang, chẳng ngó ngàng...

Mai Xuân Thanh

Thứ Năm ngày 24 tháng 11 Thanksgiving Day 2016


Thứ Ba, 29 tháng 11, 2016

Gọi Tên Tháng Mười Một - Trầm Vân


Gọi Tên Tháng Mười Một
Xế chiều nắng, xế chiều mưa
Cõi lòng chẳng gánh hơn thua xế chiều
Phía xa sương lạnh đêm treo
Phía này giọt nắng nhớ dìu ngày qua
Phương trời tuyết trắng trổ hoa
Thơ anh nỗi nhớ mượt mà trổ bông
Hoa tình yêu ngát thủy chung
Trùng khơi nối nhịp bềnh bồng sóng thương
Tình anh treo ngọn gió luồn
Em về áo lượn mùi hương nồng nàn
Tháng Mười Một chớm đông sang
Nếu em thấy lạnh hãy quàng khăn thơ
Lòng em sẽ ấm không ngờ
Những câu chữ nhảy quanh bờ môi xinh
Hôn em làn gió rùng mình
Ghen cùng câu chữ lung linh tâm hồn
Tháng Mười Một tím hoàng hôn
Chờ em về gió bồn chồn lênh đênh
Con đường ngan ngát hương quen 
Tình anh thắc thỏm chong đèn trăng sao
Áo em nghiêng lượn phía nào
Tình anh phía ấy ngọt ngào lời chim
Đừng em, chơi cuộc trốn tìm
Thơ anh bịt mắt gọi tên mõi mòn

       Trầm Vân




Thứ Hai, 28 tháng 11, 2016

Chữ Nho... Dễ Học (Bài 24- Đỗ Chiêu Đức) mà... học không dễ

                 CHỮ NHO ... DỄ HỌC (Bài 24)
                               Các bộ 7 nét tt
                                   
                               

         Như thường lệ, trước khi vào bài viết mới, ta giải đáp câu đố vui của bài viết cũ.
              Kiệu dã bất, Mã dã bất,       轎也不,馬也不,
              Xa dã bất, thuyền dã bất.    車也不,船也不.
              Kim nhựt nhị thập cửu,        今日 二十九,
              Minh nhựt tựu sơ nhất!        明日就初一。
Có nghĩa :
        Kiệu cũng không, Ngựa cũng không,
        Xe cũng không mà thuyền cũng "hổng thèm!"
        Hôm nay hai mươi chín,
        Ngày mai mùng một rồi đó em!
GIẢI ĐÁP :
        Không đi kiệu, không đi ngựa, không đi xe, cũng không đi thuyền, thì... đi bộ. ĐI BỘ là chữ TẨU 走. (Tẩu là Đi, như HÀNH TẨU GIANG HỒ 行走江湖 là Đi lại trên chốn giang hồ. ĐÀO TẨU 逃走 là Đi trốn, ta quen nói là Chạy Trốn, nên lầm tưởng TẨU là CHẠY).
        Bửa nay hăm chín, ngày mai mùng một, là... Tháng Thiếu, chữ Hán gọi là NGUYỆT TIỂU 月小.
        Ghép chữ TẨU 走 bên trái, bên phải viết TIỂU 小 trên NGUYỆT 月 dưới, ta sẽ có chữ TRIỆU 趙.      
      TRIỆU 趙: Thuộc bộ TẨU là Đi, nên TRIỆU có nghĩa là Đi nhanh. Nhưng nghĩa nầy hiện nay không còn thông dụng nữa. Nhắc đến TRIÊU là người ta nghĩ ngay đến họ TRIỆU, như Triệu Khuông Dẫn là Tống Thái Tổ, người khai sáng triều đại nhà Tống. Triệu Vân tức là Triệu Tử Long, người đã tả xung hữu đột trong 80 vạn quân của Tào Tháo trong trận Đương Dương Trường Bản, cứu ấu chúa Lưu Thiền về cho Lưu Bị. Cụ Đồ Chiểu nhà ta đã mượn hình ảnh hào hùng nầy để tả Lục Vân Tiên đánh cướp cứu Kiều Nguyệt Nga như sau:
             Vân Tiên tả đột hữu xung,
      Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dương.
              Lâu la bốn phía vỡ tan,
      Đều đem nhau chạy vào làng lên non!

      TRIỆU là Nước TRIỆU, một trong Chiến Quốc Thất Hùng 戰國七雄 (khoảng 481-221 trước Công Nguyên) là: Hàn, Triệu, Ngụy, Tề, Sở, Yên và Tần. Trong đó TRIỆU và YÊN là hai nước ở phương bắc với nhiều nghĩa sĩ hiệp khách, ta có từ TRIỆU KHÁCH 趙客 để chỉ chung các Hiệp Khách 俠客. Thích khách của nước Yên thì nổi tiếng với Kinh Kha, Cái Nhiếp, Tần Vũ Dương... Mời đọc bài Phùng Hiệp Giả của Tiền Khởi đời Đường để thấy được cái hào khí của hiệp khách Yên Triệu:
    燕趙悲歌士,    Yên Triệu bi ca sĩ,
      相逢劇孟家。  Tương phùng Kịch Mạnh gia.
      寸心言不盡,    Thốn tâm ngôn bất tận,
      前路日將斜。  Tiền lộ nhựt tương tà.
Có nghĩa :
     Các tráng sĩ hiệp khách bi ca hùng tráng của đất Yên Triệu,
     Cùng gặp nhau ở nhà của đại hiệp đời Hán là Kịch Mạnh.
     Mọi người đều không nói hết được tất lòng hiệp nghĩa của mình,
     Trong khi con đường trước mắt mặt trời đã nghiêng ngã về tây. Diễn Nôm:
         Triệu Yên tráng sĩ bi ca,
    Tình cờ Kịch Mạnh một nhà gặp nhau.
         Tất lòng khôn tỏ âm hao,
    Đường dài trước mặt ngã mau bóng chiều!   
  
                    Image result for 燕國刺客
                    Hiệp Khách đất Yên Triệu

                      Lục Vân Tiên đánh cướp   

       Trong Bách Gia Tính 百家姓 (Họ của Trăm Nhà), ta thường gọi là Trăm Họ, bắt đầu bằng 4 họ: TRIỆU, TIỀN, TÔN, LÝ 趙錢孫李, rồi mới đến CHÂU, NGÔ, TRỊNH, VƯƠNG 周吳鄭王...v.v... và...v.v... gồm có 504 họ, trong đó có 444 họ đơn và 60 họ kép, gồm các họ 2 chữ như: Tây Môn  西門, Tư Mã 司馬, Lệnh Hồ 令狐, Âu Dương 歐陽... Vì quyển sách được soạn thời Bắc Tống, nên mới lấy họ TRIỆU 趙 là họ của Hoàng tộc (Triệu Khuông Dẫn) sắp hàng đầu, còn các họ sau chỉ sắp theo vần để đọc cho suôn miệng mà thôi.
        BÁCH GIA TÍNH 百家姓 hợp với TAM TỰ KINH 三字經 và THIÊN TỰ VĂN 千字文 thành "TAM BÁCH THIÊN 三百千" là 3 quyển sách vỡ lòng ngày xưa cho thiếu nhi khi mới bắt đầu  dùi mài kinh sử.

8. BỘ CỐC  :
    CỐC  : là Thung lũng, là Hang động, Đường đi hoặc Khe nước chảy giữa 2 trái núi. CỐC 谷 là chữ Tượng Hình theo diễn tiến của chữ viết như sau:
    
GiápCốt Văn  Kim Văn      Đại Triện     Tiểu Triện    Lệ Thư

甲骨文金文金文大篆小篆繁体隶书

Ta thấy :
     Từ Giáp Cốt Văn đến Kim Văn Đại Triện đều là hình tượng của Nước chảy ở phía trên, là những dòng nước từ trong núi đá chảy ra chưa thành khe thành suối, bên dưới là Cốc Khẩu 谷口: là miệng ra vào của hang núi. Các từ thường gặp là SƠN CỐC 山谷 là Hang Núi, U CỐC 幽谷 là Hang Núi Vắng Vẻ, KHÔNG CỐC 空谷 là Hang Núi trống lỏng... Đọc Tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, ta cũng thấy có rất nhiều CỐC, như TUYỆT TÌNH CỐC 絕情谷 trong Thần Điêu Hiệp Lữ, nơi Tiểu Long Nữ nuôi rất nhiều ong mật màu trắng gọi là Ngọc Phong. ĐIỆP CỐC Y Tiên 蝶谷醫仙 trong Ỷ Thiên Đồ Long Ký, nơi thần y Hồ Thanh Ngưu ở có rất nhiều đàn bướm đẹp. ĐÀO CỐC Lục Tiên 桃谷六仙  trong Tiếu Ngạo Giang Hồ ở trong sơn cốc có trồng rất nhiều cây đào tiên...
                         Đào Cốc Lục Tiên

                           Điệp Cốc Y Tiên

                       Image result for 絕情谷
                        Tuyệt Tình Cốc

    KIM CỐC TỬU SỐ 金谷酒數 : là Số Rượu ở Kim Cốc. Lấy tích Thạch Sùng, một phú hào đời Tấn, thường thiết yến đãi bạn bè ở Kim Cốc Viên. Trong bàn tiệc, nếu ai không làm được thơ phú gì thì sẽ phạt uống 3 ly rượu. Trong bài "Xuân Dạ Yến Tòng Đệ Đào Lý Viên Tự 春夜宴從弟桃李園序" của Lý Bạch đời Đường, câu cuối là "Như thi bất thành, phạt y Kim cốc Tửu số 如詩不成,罰依金谷酒數": Nếu thơ làm không xong sẽ phạt y như số rượu ở Kim Cốc.
    CỐC 谷 còn có nghĩa là Khó Khăn, như TIẾN THOÁI DUY CỐC 進退維谷, nghĩa giống như là TIẾN THOÁI LƯỠNG NAN 進退兩難 là Tới Lui gì đều gặp phải khó khăn cả!
     Có tất cả 15 chữ được ghép bởi bộ CỐC nầy, tiêu biểu như:
   KHÊ 谿 : là Khe Nước chảy trong núi, có 3 hình thức của chữ KHÊ như sau : 谿, 豀, 溪. Theo TUÂN TỬ chương Khuyến Học:  Cố bất đăng cao sơn, bất tri thiên chi cao dã; bất lâm thâm KHÊ, bất tri địa chi hậu dã; bất văn tiên vương chi di ngôn, bất tri học vấn chi đại dã《荀子·劝学:故不登高山,不知天之高也;不临深溪,不知地之厚也;不闻先王之遗言,不知学问之大也. Có nghĩa: "Cho nên ...
     Không lên núi cao, thì không biết trời cao như thế nào; không xuống khe sâu, thì không biết đất dày như thế nào; không nghe những lời để lại của tiên vương, thì không biết học vấn rộng lớn như thế nào."
     Tăng Quảng Hiền Văn có câu:
           Dị trướng dị thoái SƠN KHÊ THỦY,
                易漲易退山谿水,
           Dị phản dị phúc tiểu nhân tâm!     
                易反易覆小人心。
Có nghĩa :
     Dễ tràn dễ rút là nước ở trong khe núi (mưa xuống thì tràn bờ).
     Dễ phản trắc dễ lật lọng là lòng của kẻ tiểu nhân.
     Trước 1975, có bản nhạc nổi tiếng "Mấy Dặm Sơn Khê" của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, tả cảnh hành quân của các chiến sĩ qua các núi đồi khe suối. KHÊ có thể là những khe nước nhỏ chưa thành suối, cũng có thể là những con sông nhỏ uốn khúc giữa núi nầy với núi kia. Như trong bài "Đào Hoa Khê 桃花谿" của Trương Húc đời  Đường : 
  隱隱飛橋隔野煙,  Ẩn ẩn phi kiều cách dã yên,
  石磯西畔問漁船。  Thạch cơ tây bạn vấn ngư thuyền.
  桃花盡日隨流水,  Đào hoa tận nhật tùy lưu thủy,
  洞在青谿何處邊?  Động tại thanh khê hà xứ biên ?

Diễn Nôm:
                      Ẩn hiện cầu cao cách khói mờ,
                      Thuyền câu dạm hỏi phía tây bờ. 
                      Hoa đào hằng vẫn theo lưu thủy,
                      Động tại bên nào của thạch cơ?


         Image result for 桃花溪。張旭  Image result for 桃花溪。張旭
        " Đào Hoa Khê 桃花谿 " của Trương Húc đời  Đường

9. BỘ KIẾN  :
    KIẾN  : là Thấy. KIẾN 見 là chữ dùng Tượng Hình để Hội Ý, theo diễn tiến của chữ viết như sau:


甲骨文金文金文大篆小篆繁体隶书






Ta thấy:    
Từ Giáp Cốt Văn đến Kim Văn Đại Triện đều là Hình Tượng của một con mắt đặt ở trên hình của một người, đến Tiểu Triện thì đã rõ nét của chữ MỤC 目 là Con Mắt được đặt ở trên chữ NHÂN 人 là Người. Con mắt mở to trên đầu người cường điệu cho TRÔNG và THẤY. Ta có từ kép KHÁN KIẾN 看見 là TRÔNG THẤY.
      HÃN KIẾN 罕見: là Hiếm thấy, như Hãn Hữu là Hiếm có vậy.
      KIẾN NGHĨA DÕNG VI 見義勇為: là Thấy việc nghĩa mà dũng cảm đi làm, tức là "Hăng Hái Làm Việc Nghĩa". Trái với...
      KIẾN LỢI VONG NGHĨA 見利忘義 : là Thấy lợi quên nghĩa, chỉ biết có Lợi mà không màng đến Nhân Nghĩa nữa!
      KIẾN còn có nghĩa là Gặp Gỡ, như KIẾN DIỆN 見面 là Gặp mặt.
      TIẾP KIẾN 接見 hay HỘI KIẾN 會見: là Gặp gỡ với ai đó.
      KIẾN còn có nghĩa là Hiểu biết về sự vật, sự việc gì đó, như ...
      KIẾN THỨC 見識 : là Sự Hiểu Biết.
      KIẾN GIẢI 見解 : là Hiểu rõ ràng về sư việc nào đó.
      KIẾN CƠ NHI TÁC 見機而作: là Hiểu rõ được cái thời cơ, cái cơ hội như thế nào đó mà làm. Có nghĩa "Tuỳ thời cơ mà làm" nghĩa cũng giống như là  "Tuỳ cơ ứng biến 隨機應變" vậy!
      LỘ KIẾN BẤT BÌNH 路見不平: là "Đi trên đường mà thấy chuyện bất bình." Đây chỉ là một vế của câu nói: Lộ Kiến bất bình, bạt đao tương trợ 路見不平,拔刀相助. Có nghĩa : "Đi trên đường mà thấy chuyện bất bình, thì rút dao ra mà giúp đỡ nhau."  Đây là tinh thần hiệp nghĩa của các hiệp sĩ thời xưa mà ta thường thấy trong các truyện võ hiệp kỳ tình. Ngày nay, đó là lòng Nhân Ái Hào Hiệp tương thân tương trợ giữa con người với nhau như Từ Hải đã nói với với cô Kiều là :
          Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
    Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!

      KIẾN LONG TẠI ĐIỀN 見龍在田: là Thấy Rồng ở Ruộng, có nghĩa là Rồng hiện thân ở trên ruộng, ý muốn chỉ đã bắt đầu phát tích khá lên. Đây cũng là một chiêu trong Hàng Long Thập Bát Chưởng (Ta quen đọc là Giáng Long Thập Bát Chưởng) của Cái Bang mà Kim Dung đã căn cứ vào Kinh Dịch để đặt tên các chiêu thức nầy, như chiêu đầu tiên mà Hồng Thất Công đã dạy cho Quách Tỉnh là Kháng Long Hữu Hối 亢龍有悔. Theo một câu nói có tính thứ tự từng giai đoạn trong Kinh Dịch như sau: Tiềm Long vật dụng; Kiến Long tại điền; Phi Long tại Thiên; Kháng Long hữu hối 潛龍勿用→見龍在田→飛龍在天→亢龍有悔. Có nghĩa :
       TIỀM LONG VẬT DỤNG là Rồng nằm còn chưa phát tích, còn phải tu dưỡng học tập cho giỏi giang.
       KIẾN LONG TẠI ĐIỀN là Rồng đã hiện hình trên ruộng trống, là đã phát tích, đã có đất dụng võ.
       PHI LONG TẠI THIÊN là Rồng đã bay lên trời, ý chỉ đã thành đạt vượt bậc. Như mặt nhựt giữa trời, Kinh Dịch gọi là "Cửu Ngũ", tôn quý như Vua lên ngôi, gọi là "Cửu Ngũ chi Tôn 九五之尊". Ta cũng hay thường nói là "Lên ngôi Cửu Ngũ" là Lên Ngôi Làm Vua đó.
      KHÁNG LONG HỮU HỐI là Phải biết lúc nào nên quy ẩn, thoái vị về hưu, mặc dù "Trăng chưa thật tròn, Hoa nở còn chưa thật đẹp", nhưng nếu đợi cho "Thật Tròn Thật Đẹp" thì Trăng cũng bắt đầu khuyết và Hoa cũng bắt đầu tàn rồi.

                         Kiến Long Tại Điền

                             Phi Long Tại Thiên

                           Image result for 亢龍有悔.
                           Kháng Long Hữu Hối

       Có tất cả 20 chữ được ghép bởi bộ KIẾN nầy, tiêu biểu có :
   MỊCH 覓 : là Tìm, Kiếm. Từ kép TẦM MỊCH 尋覓: là Tìm kiếm.
           MỊCH là chữ Hội Ý được ghép bởi bộ TRẢO 爪 là Móng vuốt, là ngón tay che lên trên chữ MỤC 目 là Con Mắt trên chữ KIẾN 見 là Thấy để chỉ ý Tìm Kiếm theo diễn tiến chữ viết như sau:
  
          Chữ MỊCH
             
          Tề Thiên che tay lên mắt để tìm đường.  

       KHÁN 看 : là Xem, là Nhìn. Đây cũng là chữ Hội Ý, gồm có bộ THỦ là Tay để ở trên chữ MỤC 目 là Mắt ở dưới (giống như hình của Tôn Hành Giả che mắt để nhìn bên trên). Ngoài nghĩa Nhìn ...
       KHÁN còn có nghĩa là Quan Sát, Phán Đoán, Thăm Viếng, như :
       KHÁN BỆNH 看病 :là Khám bệnh. QUAN KHÁN 觀看: là Xem xét. KHÁN BẰNG HỮU 看朋友: là Thăm Bạn bè.
       KHÁN còn được đọc là KHAN (không có dấu sắc), nhưng nghĩa vẫn không thay đổi, như: TƯƠNG KHAN 相看: là Nhìn Nhau. Ta có các thành ngữ sau đây:
       PHẬT NHÃN TƯƠNG KHAN 佛眼相: là Nhìn nhau bằng con mắt của Phật, là con mắt của từ bi bác ái. Có nghĩa là Đối xử với nhau rất hòa nhã thân ái và bao dung.
      BẠCH NHÃN TƯƠNG KHAN 白眼相看: là Nhìn nhau bằng con mắt trắng, là nhìn ngước lên trên hoặc xéo qua một bên, nên chỉ thấy có tròng trắng. Ý chỉ khi dễ, coi rẻ mà không thèm nhìn thẳng vào ai đó
      QUÁT MỤC TƯƠNG KHAN 刮目相看: là Khoét mắt nhìn nhau. Ý nói là "Bỏ đi cái Nhìn xưa cũ mà Nhìn nhau bằng cái nhìn mới." Lấy tích từ LỮ MÔNG một danh tướng của Đông Ngô thời Tam Quốc, dốt chữ từ nhỏ vì nhà nghèo. Sau trận Xích Bích được phong làm Đại Tướng và được Đô Đốc Lỗ Túc (sau khi Chu Du chết) cùng chủ tướng Tôn Quyền khuyến khích học tập. Chỉ một thời gian ngắn sau đã trở nên văn võ song toàn. Khi Lỗ Túc đến thăm đã phải ngạc nhiên tán thán. Lữ Mông mới nói là: SĨ CÁCH TAM NHỰT, QUÁT MỤC TƯƠNG ĐÃI 士隔三日,刮目相待。Có nghĩa là: Kẻ sĩ ba ngày không gặp nhau, thì phải đối đãi nhau bằng cái nhìn khác rồi! Ý muốn nói, chỉ cần ta chịu khó học tập, thì chẳng mấy hồi cũng sẽ có được sự tiến bộ vượt bực. Sau Lữ Mông làm đến chức Đô Đốc của Đông Ngô.


          Sĩ cách tam nhật, quát mục tương khan 
       
 10. BỘ GIÁC  : Còn đọc là GIỐC.
       GIÁC  : là Cái Sừng. GIÁC 角 là chữ Tượng Hình, theo diễn tiến của chữ viết như sau:

甲骨文金文金文大篆小篆繁体隶书





Ta thấy:  
 Giáp Cốt Văn, Kim Văn là 2 loại hình tượng trưng cho Cái Sừng của thú vật : Trâu, Bò, Dê, Nai... Từ Kim Văn Đại Triện đến Tiểu Triện mới dần dần hình thành chữ viết, đến chữ Lệ của đời Tần thì hoàn thành như chữ viết của hiện nay 角.
     GIÁC 角: là Sừng thú vật, như NGƯU GIÁC 牛角: là Sừng trâu, Sừng bò. LỘC GIÁC 鹿角: là Sừng Hươu, Sừng Nai ...
     GIÁC còn có nghĩa là Góc Cạnh, như trong Hình Học ta có Hình TAM GIÁC 三角, TỨ GIÁC 四角, LỤC GIÁC 六角...
     GIÁC LẠC 角落: là Cái Góc nhà, Cái Xó Xỉnh nào đó.
     GIÁC TÚ  角宿 hay GIÁC TINH 角星: là Một vì sao trong Nhị Thập Bát Tú, là một trong 7 vì sao thuộc nhóm Thanh Long ở phương Đông, thuộc Mộc, tượng trưng cho hình con Giao Long, nên còn có tên là GIÁC MỘC GIAO 角木蛟. 
     GIÁC 角 khi đọc là GIỐC thì là một trong Ngũ Âm của Âm nhạc cổ điển là: Cung Thương Giốc Truỷ Vũ 宮、商、角、徵、羽. Nguyễn Du đã khen tài thanh nhạc của cô Kiều là:
           Cung Thương lào bậc ngũ âm,
     Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một chương.

                Giác Mộc Giao trong Nhị Thập Bát Tú 
                                   Ngũ Âm

      GIÁC 角 trong tiền tệ là MỘT CẮC (10 xu). Trong tiền Mỹ là 01 dime = 10 cent = 1 phần 10 dollar.
      Thành ngữ thường gặp của chữ GIÁC là :
      HẢI GIÁC THIÊN NHAI 海角天涯: Ta nói là Chân Trời Góc Biển hay Trời Thẳm Vực Sâu gì cũng thế, như khi muốn treo ấn từ quan để đi tìm Thúy Kiều, Kim Trọng đã:
               Nghĩ điều Trời Thẳm Vực Sâu,
        Bóng chim tăm cá biết đâu mà tìm?!

      QUẦN HÙNG GIÁC TRỤC 群雄角逐: là Quần Hùng so tài cao thấp với nhau. Ta có từ GIÁC ĐẤU 角鬥 là Vật nhau, là Đô Vật.
      Có tất cả 46 chữ được ghép bởi bộ GIÁC nầy, tiêu biểu có:
    XÚC 觸 : là Dùng sừng để Húc, để Cụng. Nghĩa bóng là Va Chạm, là TIẾP XÚC 接觸 như XÚC ĐIỆN 觸電: là Bị điện giật, XÚC PHẠM 觸犯: là Va Chạm, là Đụng Chạm, XÚC ĐỘNG 觸動: là Tình cảm bị kích thích va chạm, XÚC GIÁC 觸覺: là Cảm giác có được do tiếp xúc va chạm mà ra. Xúc Giác là một trong Ngũ Giác Quan của con người. Ta có thành ngữ:
     XÚC CẢNH SANH TÌNH 觸景生情: là Tiếp xúc với cảnh vật, cảnh trí hoặc sự việc xảy ra trước mắt, làm xúc động nảy sinh ra tình cảm trong lòng.
     XÚC MỤC KINH TÂM 觸目驚心: là Mắt vừa tiếp xúc thì lòng đã hoảng sợ. Ý muốn nói: Vừa trông thấy đã giật mình, chỉ sự việc vô cùng nghiêm trọng. 
     GIẢI 解 : là Cởi, là Mở, là Tháo ra, là Làm rõ... như GIẢI THUYẾT 解說 là Cắt nghĩa, ta nói là GIẢI NGHĨA, GIẢI THÍCH 解釋. GIẢI VI 解圍: ta nói là Giải Vây, GIẢI NGUY 解危: là Cứu Nguy, GIẢI TÁN 解散: là Tan hàng, GIẢI ĐÁP 解答: là Trả Lời câu đố hoặc thắc mắc... 
     Thành ngữ về chữ GIẢI có :
     GIẢI GIÁP QUY ĐIỀN 解甲歸田: là Cởi bỏ áo giáp đi về làm ruộng. Chỉ các binh tướng ngày xưa cởi bỏ áo trận về quê sống cuộc sống thôn dã, Là được Giải Ngũ về quê. 
      GIẢI LINH HOÀN TU HỆ LINH NHÂN 解鈴還須繫鈴: Cởi lục lạc phải là người buộc lục lạc. Ý nói người nào làm ra việc gì đó thì người đó phải gánh lấy trách nhiệm giải quyết. Câu nói nầy hàm chứa một ý THIỀN theo như tích sau đây :
       Vào đời nhà Minh, trong Thanh Lương Tự ở đất Kim Lăng có  Thái Khâm Thiền Sư là người tính tình hào sảng, không thích gò bó bởi giới luật thanh quy. Một hôm, Phương trượng của chùa là Pháp Nhởn Hòa Thượng khai đàn thuyết pháp, có đặt một câu hỏi với mọi người là: "Trên cổ của con hổ có đeo một cái lục lạc vàng, ai có thể lấy cái lục lạc vàng đó xuống?" Tất cả đều không thể trả lời. Lúc đó, Thái Khâm Thiền Sư đến, nghe câu hỏi bèn gợi ý rằng: Sao mọi người không trả lời là "Chính cái người đeo lục lạc vào cổ con hổ, có thể lấy cái lục lạc đó xuống!"
       Chỉ có Chính Đương Sự mới gở được những rắc rối phức tạp do Chính Đương Sự gây ra mà thôi!


                 
              Cởi lục lạc phải là người buộc lục lạc.

11. BỘ LÍ    :
      LÍ    : là NƠI Ở, là LÀNG. LÍ 里 là chữ dùng Tượng Hình để Hội Ý, theo diễn tiến của chữ viết như sau:
甲骨文金文金文大篆小篆繁体隶书
Ta thấy :
   Kim Văn, Đại Triện, Tiểu Triện phần trên la chữ ĐIỀN 田 là Ruộng, phần dưới là chữ THỔ 土 là Đất. Có Ruộng có Đất là chỉ Chỗ Ở của con người. Theo tính toán về thổ cư ngày xưa, cứ 5 nhà là Một LÂN 鄰 là Một Xóm; Năm LÂN là Một LÍ 里 (25 nhà) một Làng. Ta có từ LÍ TRƯỞNG 里長 là Trưởng Làng, người đứng đầu một làng; người Miền Nam gọi là "Ông Làng" nên...
     LÂN LÍ 鄰里 : là Làng Xóm, là Lối Xóm, là Hàng Xóm. Như Kim Trọng nói mình là Hàng xóm của Thúy Kiều vậy:
              Chàng rằng: "LÂN LÍ ra vào,
       Gần đây chớ phải người nào xao xôi!...

     CỐ LÍ 故里 : Cũng như Cố Hương, là Quê Xưa, Quê Cũ.
     PHẢN HỒI CỐ LÍ 返回故里: hay Phản Hồi Cố Quận, đều có nghĩa là Về lại Quê Xưa hay Trở lại quê nhà . 
     LÍ HẠNG 里巷 : là Ngõ phường, là xóm hẽm, như các con hẽm ở Chợ Lớn Việt Nam đều được đặt tên có chữ LÍ ở phía sau, như Hậu Giang Lí 後江里, Bình Tây Lí 平西里 chẳng hạng; Vì mỗi con hẽm đều có rất nhiều nhà trong đó như là một xóm nhỏ.
     LÍ Còn có nghĩa là DẶM (khoảng 360 bước) ta có từ THIÊN LÍ 千里 là Ngàn Dặm. Tăng Quảng Hiền Văn có câu:
                    Tống quân THIÊN LÍ,    送君千里,
                    Chung tu nhất biệt.      終須一別。
Có nghĩa :
      Dù cho có đưa người đến một ngàn dặm đường, rốt cuộc rồi cũng phải chia tay mà thôi! Ý nói: Không nên qúa bịn rịn quyến luyến lúc chia tay.
      CÔNG LÍ 公里 : là Cây Số = Một ngàn mét = Một dặm tây. Khác với CÔNG LÝ 公理: là Cái Lẽ Công Bằng ở đời, cái LẼ PHẢI trong cuộc sống xã hội của nhân sinh.
      Ta có 3 hình thức của chữ LÍ  里, 裏, 裡 
      Chữ LÍ có bộ Y 衣 là Áo ở bên Dưới hoặc ở bên Trái thì có nghĩa là: Ở TRONG trái với NGOẠI 外 là Ở NGOÀI. Ta có từ ...
      LÍ DIỆN 裡面 : là Mặt Trong ,là Bên Trong. Còn ...
      NGOẠI DIỆN 外面 : là Mặt Ngoài, là Bên Ngoài.
      LÍ ỨNG NGOẠI HỢP 裡應外合 : là Bên trong ứng lên và bên ngoài cùng phối hợp; câu nầy giống như là câu "NỘI CÔNG NGOẠI KÍCH 內攻外擊 : Bên trong tấn công bên ngoài đánh vào" vậy!
      TỤ LÍ CÀN KHÔN 袖裡乾坤: là Càn khôn trong tay áo, ý chỉ Pháp thuật cao siêu, có thể giấu cả trời đất trong tay áo. Tụ Lý Càn Khôn còn là một trong 72 tuyệt kỹ võ công của phái Thiếu Lâm mà Huyền Nạn thiền sư trong Thiên Long Bát Bộ của Kim Dung rất giỏi về môn tuyệt kỹ nầy.


             Tống quân thiên lí, chung tu nhất biệt.

                           Image result for 袖裡乾坤 
                             Tụ lí càn khôn.

     Có tất cả 5 chữ được ghép bởi bộ LÍ, tiêu biểu có chữ :
     TRỌNG 重 : là Nặng. Cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, như  TRỌNG LỰC 重力, TRỌNG LƯỢNG 重量 : là Sức Nặng. TRỌNG BỆNH 重病: là Bệnh Nặng, TRỌNG THƯƠNG 重傷 : là Bị Thương Nặng...
     Chữ TRỌNG 重 do chữ THIÊN 千 là Ngàn chồng lên trên chữ LÍ 里là dặm mà thành theo như câu đối chiết tự sau đây :
                  Bát đao phân mễ phấn,     八刀分米粉,
                  Thiên lí trọng kim chung.   千里重金鍾.
Có nghĩa :
     Phân hột gạo bằng 8 dao, hột gạo sẽ nhuyễn ra thành bột. 
     Mang nặng cái chuông vàng vượt qua ngàn dặm.
     Câu đối trên hay ở chỗ Chiết Tự, vì chữ BÁT 八 chồng lên trên chữ ĐAO 刀 thành chữ PHÂN 分, và chữ PHÂN 分 ghép với chữ MỄ 米 thành chữ PHẤN 粉. Vậy là trong chữ PHẤN 粉 có chữ BÁT, chữ ĐAO, chữ PHÂN, chữ MỄ 八刀分米. Tương tự, trong vế sau, chữ THIÊN 千 chồng lên trên chữ LÍ 里 thành chữ TRỌNG 重, chữ TRỌNG 重 ghép với chữ KIM 金 thành chữ CHUNG 鍾, nên trong chữ CHUNG 鍾 có chữ THIÊN, chữ LÍ, chữ TRỌNG, chữ KIM 千里重金.  
     Cụ Nguyễn Du đã mượn ý nầy để cho cô Kiều ngầm tỏ ý tiếc rẻ đã không trao thân cho Kim Trọng trong đêm Kim Kiều gặp gỡ lúc "Nhà lan thanh vắng một mình", cô đã than:
               Biết thân đến bước lạc loài,
       Nhụy đào thà bẻ cho người tình chung!

  "Người Tình Chung!"  Tại sao phải là "Người Tình Chung", mà không phải là "Người Tình Nhân" hay "Người  Tình Lang" ?! À, thì ra cụ Tiên Điền đang chơi chữ đây, Vì chữ CHUNG 鍾 là do 2 chữ KIM TRỌNG 金重 ghép lại mà thành. "NGƯỜI TÌNH CHUNG" là "Người tình tên KIM TRỌNG 金重" đó vậy!  
      TRỌNG NGHĨA KHINH TÀI 重義輕財: là Coi trọng việc nghĩa và coi nhẹ tiền tài như lời của cô Kiều đã nhắn nhủ với Kim Trọng:
             Chiếc thoa là của mấy mươi,
     Mà lòng TRỌNG NGHĨA KHINH TÀI xiết bao!

      TRỌNG 重 khi đọc là TRÙNG thì có nghĩa là Lặp Lại, Trùng lắp, như Tiết TRÙNG CỬU 重九 là Lễ tiết nhằm ngày Mùng chín Tháng chín. TRÙNG PHỤC 重復 là Lặp lại. TRÙNG PHÙNG 重逢 là Gặp lại...
      TRÙNG TRÙNG ĐIỆP ĐIỆP 重重疊疊: là Hết lớp nầy tới lớp khác nối tiếp nhau mãi không dứt. Ta nói là Hàng hàng Lớp lớp.
      TRÙNG TÂN 重新: KHÔNG có nghĩa là LÀM MỚI, mà là LÀM LẠI TỪ ĐẦU, làm lại một lần nữa!
      TRÙNG XƯỚNG 重唱 : KHÔNG phải hát lại một lần nữa, mà là HÁT BÈ : Hai người hát cùng một lúc với hai "Tông" khác nhau.
      TRÙNG ÔN CỰU MỘNG 重溫舊夢 : là Hâm nóng lại giấc mộng xưa; thường dùng để chỉ người yêu cũ gặp lại, hoặc vợ chồng xa cách lâu ngày giờ được đoàn viên. Viết đến đây làm ta nhớ lại lời ca trong bài "Mong Người Chiến Sĩ" của Nhạc sĩ THÚC ĐĂNG khoảng thập niên 50 của Thế kỷ trước:
       ...Em mong cho ngày tháng thanh bình, anh về làng cũ, TÌM PHÚT VUI XƯA, quên ngày dãi nắng dầm mưa! 
      "Tìm Phút Vui Xưa" tức là "Trùng Ôn Cựu Mộng" đó!
                Image result for Mong Người Chiến Sĩ  

           Mong người Chiến sĩ của Thúc Đăng

       TRÙNG TU 重修 : là Sửa sang lại, xây dựng lại.
       TRÙNG SINH 重生 : Không phải Sanh lại một lần nữa, mà là chỉ những người lẽ ra đã chết được ai đó cứu sống lại như cô Kiều được Sãi Giác Duyên cứu sống vậy, nên khi cả nhà đến rước về đoàn tụ, thì cô Kiều không nở bỏ Giác Duyên mới nói rằng:
          TRÙNG SINH ơn tựa bể trời,
     Lòng nào nở dứt nghĩa người ra đi?!

12. BỘ THÂN  :
      THÂN  : là Mình. THÂN 身 là chữ Tượng Hình theo diễn tiến của chữ viết như sau :
甲骨文金文金文大篆小篆繁体隶书
Ta thấy :
    Từ Giáp Cốt Văn cho đến Kim Văn Đại Triện, Tiểu Triện đều là hình tượng của một người đứng đưa cái bụng ra, đó chính là phần chính của chữ viết, nên THÂN là Mình Mẫy, là THÂN THỂ 身體. THÂN là phần cốt lỏi của Người, Vật, Sự Vật, như:
     NHÂN THÂN 人身 : là Thân thể con người.
     THÚ THÂN 獸身 : là Mình mẩy của Thú vật.
     THỌ THÂN 樹身 : là Thân cây.
     THUYỀN THÂN 船身 : là Thân Ghe, thân Tàu...
     THÂN còn chỉ tự mình, sinh mạng, địa vị của con người, như :
     BẢN THÂN 本身, TỰ THÂN 自身, HIẾN THÂN 獻身, THÂN THẾ 身世,
THÂN PHẬN 身分, XUẤT THÂN 出身... THÂN là cái mạng sống, nên HIẾN THÂN là Trao cả cái mạng sống của mình cho ai đó, như HIẾN THÂN cho Tổ Quốc chẳng hạn... Khi cô Kiều quyên sinh, tức là chối bỏ cái mạng sống của mình, thì Tú Bà đã khuyên rằng:
           Một người dễ có mấy THÂN,
     Hoa xuân phong nhụy ngày xuân còn dài.
           Cũng là lỡ một lầm hai,
     Đá vàng chi nở ép nài mưa mây...

     Ta có các thành ngữ về chữ THÂN như sau:
     THÂN CƯỜNG LỰC TRÁNG 身强力壮: Chỉ Thân thể cường tráng, thân hình mạnh mẽ. Thể lực tốt.
     BÁN THÂN BẤT TOẠI 半身不遂: là Nửa thân mình không theo ý của mình, là bị liệt mất nửa người.
     ĐƠN THÂN ĐỘC MÃ 單身獨馬: ta nói là Một mình một ngựa.
     THÂN BẠI DANH LIỆT 身敗名裂: là Thân Danh Bại Liệt, chỉ bản thân và danh dự của mình đều thất bại, thua thiệt, rách nát, xấu xa chẳng ra gì cả! Thân Bại Danh Liệt còn chỉ tiếng tăm danh vọng đều xuống cấp, mất hết uy tín ở đời, thất bại một cách triệt để.
     Sách Luận Ngữ, chương Học Nhi, Thầy Tăng Tử nói rằng: NGÔ NHẬT TAM TỈNH NGÔ THÂN 吾 日三省吾身. Có nghĩa: Mỗi một ngày phải suy gẫm về bản thân mình 3 việc (Có tận tâm làm tròn trách nhiệm được giao hay không? Với bạn bè còn có chỗ nào chưa thành thật không? Có ôn tập lại những lời mà thầy đã dạy hay không?)
           


            Tăng Tử viết: Ngô nhật tam tỉnh ngô thân.

      Có tất cả 31 chữ được ghép bởi bộ THÂN nầy, tiêu biểu có :
    CÚC CUNG 躹躬 : là Cúi rạp mình xuống để Chào, để Xin Lỗi... CÚC CUNG còn có nghĩa là Cúi rạp mình trên bàn làm việc, ý chỉ làm việc chăm chỉ, cật lực, hết mình. Ta có thành ngữ :
    CÚC CUNG TẬN TỤY 鞠躬盡瘁: là Hết lòng hết dạ cống hiến hết khả năng của mình. Câu nói nầy của Khổng Minh Gia Cát Lượng thời Tam Quốc trong bài Hậu Xuất Sư Biểu. Sau khi Lưu Bị mất, ấu chúa Lưu Thiền nối ngôi, tất cả quyền bính đều trao vào tay Khổng Minh Gia Cát Lượng. Một mặt ông liên kết với Đông Ngô phạt Ngụy, một mặt nam chinh thu phục Mạnh Hoạch. Trong lần chuẩn bị bắc phạt lần thứ 2, ông viết bài Hậu Xuất Sư Biểu nầy để trình lên Lưu Thiền, trong đó có câu "CÚC CUNG TẬN TỤY, TỬ NHI HẬU DĨ 鞠躬尽瘁、死而后已 Có nghĩa: Hết lòng hết dạ, đến chết mới thôi.
      



    Khổng Minh Gia Cát Lượng : Cúc Cung Tận Tụy, Tử nhi hậu dĩ.
13. B THỈ  :
      THỈ   : là Con Heo. THỈ 豕 là chữ Tượng Hình theo diễn tiến của chữ viết như sau: 
甲骨文金文金文大篆小篆繁体隶书
Ta thấy :
     Từ Giáp Cốt Văn cho đếnKim Văn Đại Tiểu Triện đều là hình tượng của con heo, với cái mỏ nhọn, bụng bự, lưng cong cong, có 4 chân và đuôi hẵn hoi. THỈ 豕 chỉ chung các loại heo rừng hoang dã.
Heo nuôi ở nhà trong Lục súc thì gọi là TRƯ 豬 cũng thuộc bộ THỈ. Ta có các từ như:
     TRƯ KHUYÊN 豬圈: là Cái Chuồng heo.
     TRƯ ĐẦU 豬頭: là Cái Đầu Heo. Nhưng ở Lục Tỉnh quê tôi kêu là:  Cái Thủ Vĩ. Thì ra nhà giàu thì cúng trả lễ cuối năm bằng nguyên con heo, còn nhà nghèo thì chỉ cúng có cái đầu heo, thêm 4 cái móng và cái đuôi heo vào để tượng trưng cho nguyên con heo, nên mới gọi là Cái Thủ Vĩ. Giới bình dân không biết chữ Nho, nên cứ nghĩ Cái Thủ Vĩ là tên riêng của cái đầu heo.
     TRƯ THẢO 豬草: là Các loại rau cỏ cho heo ăn, như Rau muống, lục bình... Ngoài ra, còn có một loại heo bụng xệ chân ngắn, chỉ khoảng một "Tạ" trở lại, ta gọi là Heo Cỏ.
    TRƯ HỒNG 豬紅: Không phải con heo màu đỏ, mà là Huyết Heo.
    TRƯ CƯỚC MIẾN TUYẾN 豬腳麵線 : là Mì Giò Heo. Món ăn đặc sản của các xe mì Chợ Lớn ngày xưa.
     Cuối cùng ta có ...
     TRƯ NGỘ NĂNG 豬悟能 hay TRƯ BÁT GIỚI 豬八戒: là Đệ tử thứ 2 của Đường Tam Tạng, mê ăn, thích gái, biếng làm, hay ngủ... đủ cả thói hư tật xấu của con người, chỉ biết ăn no ngủ kỹ, Cao Chẩm vô ưu!
          



                  Trư Ngộ Năng = Trư Bát Giới

       Có tất cả 35 chữ được ghép bởi bộ THỈ nầy, ngoài chữ TRƯ ra ta còn có chữ :
     TƯỢNG 象: Cũng là chữ Tượng Hình theo diễn tiến của chữ viết như sau:

甲骨文金文金文大篆小篆繁体隶书
Ta thấy :
     Giáp Cốt Văn rõ ràng là hình con Voi "có cái vòi đi trước" và cái mình thì như "mình heo" nhưng to lớn hơn nhiều, theo diễn tiến của chữ viết nên phần mình và đuôi cũng giống như bộ THỈ 豕 vậy. Vì thế mà chữ TƯỢNG 象 được xếp vào bộ THỈ, chứ VOI và HEO không có "bà con" gì với nhau cả!
      TƯỢNG 象 là Động vật to lớn nhất hiện nay của Địa cầu. Hai cái răng nanh hai bên mọc dài ra, gọi là TƯỢNG NHA 象牙, ta gọi là NGÀ VOI. Ngà Voi cứng, đẹp qua bàn tay khéo léo của nghệ nhân trở thành những mỹ nghệ phẩm qúy gía, Ta có thành ngữ:
      TƯỢNG NHA BẢO THÁP 象牙寶塔: là Tháp qúy làm bằng ngà voi, dùng để chỉ những văn nhân, thi nhân, nghệ sĩ, tài tử lập dị chìm đắm riêng trong thế giới nghệ thuật của mình mà không màng đến cuộc sống thực tế của nhân sinh. Ta gọi những văn nhân nghệ sĩ đó là "Những người chỉ biết sống riêng trong THÁP NGÀ của mình!"
      TƯỢNG 象 còn chỉ trạng thái, hình dáng, như TƯỢNG HÌNH 象形, TƯỢNG TRƯNG 象徵, TƯỞNG TƯỢNG 想象, CẢNH TƯỢNG 景象, KHÍ TƯỢNG 氣象, HIỆN TƯỢNG 現象, HÌNH TƯỢNG 形象... Ta có thành ngữ cho ngày đầu của một năm, của mùa xuân mới bắt đầu là: 
      VẠN TƯỢNG CANH TÂN 萬象更新: là Muôn ngàn hiện tượng đều đổi mới.

         Image result for 象牙寶塔
           Tháp Ngà      

                         Vạn tượng canh tân   

                           Người mù sờ voi

     HẠT TỬ MẠC TƯỢNG 瞎子摸象: là Thằng đui sờ voi, còn nói là MANH NHÂN MẠC TƯỢNG 盲人摸象 là Người mù sờ voi, dùng để chỉ chuyện gì đó chỉ mò mẫm một khía cạnh hoặc chỉ hiểu lỏm bỏm chưa được rõ ràng.
     XÀ DỤC THÔN TƯỢNG 蛇欲吞象 : là Rắn mà muốn nuốt voi, dùng để chỉ lòng tham qúa đáng của con người. Đây là vế nói tắt của câu: Nhân tâm bất túc Xà Thôn Tượng 人心不足蛇吞象 là Lòng người không bao giờ biết đủ, rắn mà lại muốn nuốt voi!


  Image result for 蛇欲吞象    Image result for 蛇欲吞象
  Lòng tham không đáy, rắn mà muốn nuốt voi!

            

    
              Xà dục thôn tượng:  Bộ có thật sao?!        
      Như thường lệ, trước khi kết thúc bài viết nầy, mời tất cả cùng đoán câu đố chữ sau đây:
          Khứ nhất nhân hoàn hữu nhất khẩu,               
            去一人還有一口,
          Khứ nhất khẩu hoàn hữu nhất nhân.     
            去一口還有一人。
          Phóng hạ thủ nả vật qui khứ,                
            放下手拿物歸去,
          Bàng biên thủ thập vật qui lai.             
            旁邊手拾物歸來.
Có nghĩa :
       Đi một người còn có một khẩu,
       Đi một khẩu còn có một người.
       Bỏ tay xuống đem vật trở về,
       Tay bên cạnh nhặt vật trở lại.

    Bốn câu trên đoán một chữ 6 nét mà ta đã từng biết qua.

   Hẹn bài viết sau: Các bộ 7 nét (tt và hết).

                            Đỗ Chiêu Đức