Tạp Ghi và Phiếm Luận :
HƯƠNG trong Truyện Kiều
HƯƠNG 鄉 là Làng Quê, là Quê Hương, HƯƠNG 香 là Mùi Thơm, là Hương Thơm, HƯƠNG 香 là Nhang, là Hương Khói, Hương lửa... Ta sẽ lần lượt điểm qua về các nghĩa của chữ HƯƠNG nầy trong Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du nhé!
Trước tiên, HƯƠNG là Quê Hương, là "chùm khế ngọt" của những kẻ lưu vong xa quê như chúng ta hiện nay, còn đối với những người còn ở lại trong nước thì nó là "chùm khế chua lè!" của đám dân nghèo đầu tắt mặt tối vẫn không kiếm đủ miếng ăn. Hương cũng là chữ thuộc dạng Hội Ý của Lục Thư trong "CHỮ NHO... DỄ HỌC" có diễn tiến như sau:
Ta thấy :
Giáp Cốt Văn là hình tượng của hai người ngồi với tư thế qùy đối diện với nhau, ở giữa là một cái đôn nhỏ trên có đặt một cái mâm như mâm xôi vun lên; với Hội Ý là: Hai người cùng ngồi ăn hay cùng thảo luận với nhau về việc gì đó; Ý là người cùng ở chung một nơi ngồi lại với nhau, nên HƯƠNG 鄉 là Làng Xã, là nơi ta được sinh ra và lớn lên, là nơi mà trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư ngày xưa viết "Chỗ quê hương là nơi đẹp hơn cả! "
HƯƠNG 鄉 là Làng , THÔN 村 là Xóm, nên Hương Thôn là Làng Xóm, là đơn vị tổ chức hành chánh nhỏ nhất của xã hội ngày xưa. Trong làng thì có ban Hương Chức Hội Tề, Hương Thân Phụ Lão, Hương Sư, Hương Quản, Hương Tuần...
Quê Hương là danh từ chung có ý nghĩa bao quát từ gần tới xa, từ nhỏ tới lớn. NHỎ là làng xã, là nơi chôn nhau cắt rốn, GẦN là nơi ta cất tiếng khóc chào đời, là quận huyện nơi ta cư ngụ, LỚN hơn XA hơn nữa là tỉnh thành xứ sở nơi ta ở, và LỚN nhất XA nhất là đất nước do các đấng tiền nhân và ông cha ta đã đổ bao xương máu để gây dựng nên, là Quê Hương VIỆT NAM của chúng ta đó. Cho nên, dù bất cứ đi đâu đến đâu, con người ta cũng nhớ đến Quê Hương. Trước cảnh lạ dù có đẹp đến đâu, khi chiều xuống chỉ cần một làn khói lam chiều ẻo lả bốc lên từ một bếp lửa nhà ai, hay một làn khói sóng bốc nhẹ trên mặt sông cũng làm cho ta chạnh nhớ đến quê hương, như hai câu cuối trong bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu:
Nhật mộ HƯƠNG QUAN hà xứ thị ?
日 暮 鄉 關 何 處 是?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu!
煙 波 江 上 使 人 愁!
mà cụ Tản Đà đã diễn Nôm rất hay là:
QUÊ HƯƠNG khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai !
QUAN 關 là Quan ải thành quách nơi ta cư ngụ, nên Hương Quan cũng dùng để chỉ Quê Hương, như khi Thúy Kiều ở lầu xanh nhớ về Quê Hương:
Mối tình đòi đoạn vò tơ,
Giấc HƯƠNG QUAN luống lần mơ canh dài.
Song sa vò võ phương trời,
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng.
Quê Hương có nhà cửa của ông bà cha mẹ và của... ta nữa, nên còn được gọi là GIA HƯƠNG 家 鄉, như khi tưởng Thúy Kiều đã chết, Thúc sinh buồn tình nên mới nhớ tới vợ nhà (đàn ông lúc nào cũng bạc bẽo là thế! Bồ nhí chết rồi mới nhớ tới vợ), nên mới:
Chạnh niềm nhớ cảnh GIA HƯƠNG,
Nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê.
Cũng là Quê Hương, nhưng là quê hương bên ngọai, thì được gọi là NGOẠI HƯƠNG 外 鄉, như gia đình Vương Viên Ngoại đã "biện dâng một lễ" để "mừng thọ Ngoại gia" vậy. Đến khi Thúy Kiều tiễn Kim Trọng về Liêu Dương hộ tang chú xong rồi mới...
Tần ngần dạo gót lầu trang,
Một đoàn mừng thọ NGOẠI HƯƠNG mới về,
Không phải quê hương của mình, mà là quê hương của người khác, thì gọi là THA HƯƠNG 他 鄉. Kẻ sống ở quê hương của người khác thì gọi là "KẺ THA HƯƠNG". Thúc phụ là chú của Kim Trọng chết ở nơi đất khách, cho nên gia đồng mới...
Đem tin thúc phụ từ đường,
Bơ vơ lữ thấn THA HƯƠNG đề huề.
Đề Huề 提 攜 vốn nghĩa là Mang, Xách. Ở đây dùng để chỉ "mang về", nên câu "Bơ vơ lữ thấn THA HƯƠNG đề huề" có nghĩa: Mang cái quan tài bơ vơ từ tha hương về quê. Kẻ ở tha hương ngóng trông về quê cũ, Quê Cũ chữ Nho gọi là CỐ HƯƠNG 故 鄉, như Thúy Kiều khi khuyên Từ Hải quy hàng cũng đã có dự tính riêng cho mình là:
Công tư vẹn cả hai bề,
Dần dà rồi sẽ liệu về CỐ HƯƠNG.
Cũng ngôi mệnh phụ đường đường,
Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha.
Không gọi là CỐ HƯƠNG thì gọi là CỐ QUỐC. Chữ QUỐC 國 được viết bởi bộ VI 囗 là cái Khuôn viên, cái Vòng rào để chỉ Ý và chữ HOẶC 或 bên trong để chỉ ÂM, nên QUỐC 國 là "Cái vòng rào, cái khuôn viên nơi ta cư ngụ, là Làng, xã, quận, huyện, tỉnh thành... và rộng hơn nữa là Nước mà ta đang ở. Nên CỐ QUỐC ta thường hiểu là Nước Cũ, nhưng cũng có nghĩa là CỐ HƯƠNG là Quê Cũ, như khi tiễn Từ Hải đi làm việc lớn rồi thì Thúy Kiều ở lại có một mình, nên nàng cũng nhớ nhà, nhớ cha mẹ, nhớ quê hương:
Còn...
....
Ta thấy :
Giáp Cốt Văn và Đại Triên là chữ HÒA 禾 là hình tượng của cây lúa chín với bông lúa oằn xuống bên trái ở trên đầu và các hột lúa chín rơi xuống hai bên, phía dưới là chữ CAM 甘 là NGỌT, với HỘI Ý là: Mùi ngọt của cây lúa chín là mùi thơm của hạt lúa nuôi sống con người, nên HƯƠNG là THƠM, mùi thơm để duy trì cuộc sống; dùng rộng ra để chỉ tất cả các mùi thơm trên đời nầy.
Nói đến HƯƠNG là người ta nghĩ ngay đến HOA HƯƠNG 花 香 là mùi thơm của hoa, của các loại hoa cỏ, mùi thơm của thực vật, còn mùi thơm của con người thì chỉ ưu tiên độc quyền cho mấy bà mấy cô mà thôi! Cũng khó trách, vì từ xưa đến nay ông bà ta đã ví hoa như là người đẹp, hay nói đúng hơn là những người đẹp, những giai nhân, được ví đẹp như hoa của nước, thơm như hương của trời, nên còn gọi là SẮC NƯỚC HƯƠNG TRỜI, là QUỐC SẮC THIÊN HƯƠNG 國 色 天 香. Khi nói về cuộc đời tài sắc của Đạm Tiên, Vương Quan đã tỏ ra rất tiếc thương cho người đẹp:
Phận hồng nhan có mong manh,
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành THIÊN HƯƠNG.
Người đẹp luôn luôn phảng phất mùi hương, nên tiếc thương người đẹp thì gọi là THƯƠNG HƯƠNG TIẾC NGỌC. Khi tả Kim Trọng nhớ Thúy Kiều thì cụ Nguyễn Du cũng viết là:
HƯƠNG gây mùi nhớ, trà khan giọng tình.
Người đẹp ở lối xóm lân cận thì gọi là HƯƠNG LÂN 香 鄰, là cô hàng xóm thơm phức, như Kim Trọng đã nói về Thúy Vân Thúy Kiều:
Trộm nghe thơm nức HƯƠNG LÂN,
Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều.
Đến khi mướn được cái hiên Lãm Thúy ở sát cạnh nhà Thúy Kiều "canh me" để gặp mặt người đẹp, cho nên đến một hôm "Cách tường phải buổi êm trời, dưới đào dường có bóng người thướt tha", thì Kim Trọng đã vội vàng:
Buông cầm sốc áo vội ra,
HƯƠNG còn thơm nức người đà vắng tanh.
Không biết là Thúy Kiều đã sức dầu thơm loại gì mà "người đà vắng tanh" trong khi HƯƠNG vẫn còn thơm nức!? Người đẹp ngày xưa chưa có dầu thơm mà đã "thơm được như thế sao?! Ngay cả đồ trang sức của người đẹp cũng có mùi thơm thoang thoảng, như khi vớ được cành kim thoa của Thúy Kiều, thì Kim Trọng đã:
Liền tay ngắm nghía biếng nằm,
Hãy còn thoang thoảng HƯƠNG TRẦM chưa phai.
Cành trâm còn có Hương Trầm, chả trách dải khăn là của Thúy Kiều cũng phảng phất mùi hương:
Chén hà sánh giọng quỳnh tương,
Dải là HƯƠNG lộn bình gương bóng lồng.
Cho đến hồn ma của con ma Đạm Tiên khi hiện lên cũng có mùi thơm, như:
Ào ào đổ lộc rung cây,
Ở trong dường có HƯƠNG bay ít nhiều.
Khuê phòng của người đẹp ở thì gọi là HƯƠNG KHUÊ, như khi Thúc Sinh nghe tiếng tài sắc của Thúy Kiều mà tìm đến vậy:
Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi,
Thiếp danh tìm đến HƯƠNG KHUÊ gởi vào.
Nhà ở của Hoạn Thư thì gọi là Nhà Hương, như Thúc Sinh sau khi ngỡ Thúy Kiều đã chết, chàng đã "Chạnh niềm nhớ cảnh gia hương, Nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê", và sau khi "Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa" thì:
NHÀ HƯƠNG cao cuốn bức là,
Buồng trong kíp gọi nàng ra lạy mừng.
XE của Hoạn Thư đi cũng được gọi là XE HƯƠNG. Khi đã khuyên Thúc Sinh trở về Lâm Truy thăm cha với lời lẽ của cô dâu thảo: "Cách năm mây bạc xa xa, Lâm Truy cũng phải tính mà thần hôn", và khi Thúc Sinh vừa ra đi thì nàng Hoạn cũng lên XE HƯƠNG về nhà "mét má":
Gió câu vừa gióng dặm trường,
XE HƯƠNG nàng cũng thuận đường quy ninh.
Chạy vào chốn cũ PHÒNG HƯƠNG,
Trong tro thấy một đống xương cháy tàn.
Ngay tình ai biết mưu gian,
Hẳn nàng thôi lại còn bàn rằng ai!
Cái gì của mấy bà mấy cô cũng có chữ HƯƠNG chen vào cả. Ngay cả Mồ-Hôi của phái nữ cũng được gọi là HƯƠNG HẠN 香 汗 là MỒ HÔI... THƠM! Thành ngữ HƯƠNG HẠN LÂM LI 香 汗 淋 漓 dùng để diễn tả Mồ Hôi nhuễ nhại của qúy bà qúy cô sau khi làm việc nặng hay tập thể dục chẳng hạn. Ai bảo là đàn ông Châu Á không biết "ga-lăng", không biết "Nịnh Đầm" đâu?! Chỉ có những gả đàn ông thô bạo mày râu nhẵn nhụi như Mã Giám Sinh mới không biết Tiếc Ngọc Thương Hương mà thôi:
Một cơn mưa gió nặng nề,
Thương gì đến NGỌC tiếc gì đến HƯƠNG.
Người đẹp là Hương là Ngọc, cho nên ta phải biết Thương Hương Tiếc Ngọc. Khi Thúy Kiều "Đem mình gieo xuống giữa dòng Trường Giang" thì:
Thổ quan theo vớt vội vàng,
Thời đà đắm NGỌC chìm HƯƠNG mất rồi!
Hương lan từ Phấn, Phấn tỏa làn Hương. Hương phấn phấn hương hòa quyện lấy nhau tạo thành mùi hương và vẻ đẹp của người đẹp. Còn Phấn còn Hương là còn trẻ còn đẹp, nên Thúy Kiều đã e ngại và lo lắng khi Thúc Sinh muốn gá nghĩa trăm năm với mình:
Bình Khang nấn ná bấy lâu,
Yêu hoa yêu được một mầu điểm trang
Rồi ra lạt PHẤN phai HƯƠNG,
Lòng kia giữ được thường thường mãi chăng?
Những người chuyên trục lợi trên thân xác của các cô gái trẻ đẹp, thì được gọi là chuyên "buôn phấn bán hương" hay "buôn hương bán phấn" như Tú Bà với Mã Giám Sinh vậy:
Mạt cưa mướp đắng hai bên một phường
Chung lưng mở một ngôi hàng,
Quanh năm buôn PHẤN bán HƯƠNG đã lề.
Thương nhớ người đẹp cũng là nhớ thương đến cái "hương gây mùi nhớ" như Thúc Sinh sau khi đã mất Thúy Kiều rồi, nhìn vầng trăng non mà thương xót:
Mày ai trăng mới in ngần,
PHẤN thừa HƯƠNG cũ bội phần xót xa.
HƯƠNG còn là mùi thơm thoang thoảng nhẹ nhàng, phảng phất như những ước mơ nguyện vọng hoài bão ở trong lòng muốn thể hiện, muốn dâng lên, muốn thỉnh cầu với các đấng thiêng liêng... Nên, HƯƠNG còn là HƯƠNG KHÓI, HƯƠNG LỬA, là NHANG ĐÈN... để thể hiện tâm nguyện của mình, như Thúy Kiều đã khấn vái cầu nguyện cho thân phận lẻ mọn của mình khi Thúc Sinh về thăm vợ cả là Hoạn Thư:
NÉN HƯƠNG đến trước Phật đài,
Nỗi lòng khấn chửa cạn lời vân vân.
Nhang đèn, hương khói, hoa qủa là những thứ không thể thiếu trong tín ngưỡng dân gian suốt mấy ngàn năm của nền văn hóa dân tộc chịu ảnh hưởng của Phật giáo, nên nghe Thúy Kiều muốn đi tu, thì Hoạn Thư đã vội vàng khi:
Tâng tâng trời mới bình minh,
HƯƠNG HOA, ngũ cúng, sắm sanh lễ thường.
Đưa nàng đến trước Phật đường,
Tam quy ngũ giới cho nàng xuất gia !
Sớm khuya sắm đủ dầu đèn,
Xuân, Thu, cắt sẵn hai tên HƯƠNG TRÀ.
... nên Thúy Kiều cũng đã:
Phật tiền thảm lấp sầu vùi,
Ngày pho thủ tự, đêm nồi TÂM HƯƠNG.
HƯƠNG ĐÈN là HƯƠNG HỎA chỉ việc cúng tế thờ phượng, nhưng nếu nói thành HƯƠNG LỬA hay LỬA HƯƠNG thì người ta lại nghĩ ngay đến HƯƠNG LỬA BA SINH hay BA SINH HƯƠNG LỬA để chỉ tình duyên của đôi lứa gái trai (xem Thành Ngữ Điển Tích 53: HƯƠNG). Trai gái yêu nhau, hẹn hò với nhau là đã có LỬA có HƯƠNG với nhau rồi, nên khi đã hẹn ước với nhau rồi mà suốt tháng vẫn chưa có dịp gặp mặt để hàn huyên tâm sự, nên chàng Kim Trọng đã mở miệng than phiền với Thúy Kiều:
Trách lòng hờ hững với lòng,
LỬA HƯƠNG chốc để lạnh lùng bấy lâu.
khiến cho Thúy Kiều phải lên tiếng an ủi:
Nàng rằng: "Gió bắt mưa cầm...
Đã cam tệ với tri âm bấy chầy.
Vắng nhà được buổi hôm nay,
Lấy lòng, gọi chút, ra đây tạ lòng!
Ta thấy khi đã yêu nhau rồi thì gái trai gì đều đắm đuối mê mẫn như nhau. Khi đã chuộc Thúy Kiều từ lầu xanh về để "Một nhà sum hợp trúc mai" cho "Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông" rồi, cụ Nguyễn Du còn hạ thêm hai câu để chỉ sự khắng khít đam mê sôi nổi hơn của đôi lứa yêu nhau là:
HƯƠNG càng đượm LỬA càng nồng,
Càng sôi vẻ ngọc càng lồng màu sen.
Qủa là những câu thơ sinh động gợi hình một cách kín đáo nên thơ của Truyện Kiều, nó không phải là những quyến luyến thường tình như sau nầy Thúy Kiều phải chia tay với Từ Hải:
Nửa năm HƯƠNG LỬA đang nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Đến câu nói trơ trẻn muốn tống khứ Thúy Kiều cho Thổ Quan của Hồ Tôn Hiến, thì từ HƯƠNG LỬA chỉ là cái cớ bị người nói lợi dụng mà thôi:
Dạy rằng HƯƠNG LỬA ba sinh,
Dây loan xin nối cầm lành cho ai ?
Nhưng đến lời than vãn tâm sự của chàng Kim khi trở lại vườn Thúy tìm Kiều không gặp, thì từ LỬA HƯƠNG lại đầy tình nghĩa lứa đôi một cách chân thành thắm thiết:
Lời xưa đã lỗi muôn vàn,
MẢNH HƯƠNG còn đó phím đàn còn đây,
Đàn cầm khéo ngẩn ngơ dây,
LỬA HƯƠNG biết có kiếp này nữa thôi?
Chàng Kim qủa là người tình chung thủy hiếm có, trong qúa trình tìm kiếm Thúy Kiều chàng luôn tỏ ra rất chân thành nhớ đến Kiều chớ không phải chỉ tìm lấy có:
Thề xưa giở đến kim hoàn,
Của xưa lại giở đến ĐÀN với HƯƠNG.
... và
Có khi vắng vẻ thư phòng,
Đốt LÒ HƯƠNG giở phím đồng ngày xưa.
Chàng luôn luôn nhớ đến lời ước nguyện với Thúy Kiều:
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh HƯƠNG NGUYỀN ngày xưa.
như lời Thúy Kiều trối lại trước lúc ra đi:
Mai sao dù có bao giờ.
Đốt LÒ HƯƠNG ấy, so tơ phím này.
Nhưng khi đến Hàng Châu thì đã dò hỏi và biết được: "Rằng ngày hôm nọ giao binh, thất cơ Từ đã thu linh trận tiền" và "Nàng Kiều công cả chẳng đền, Lệnh quan lại bắt ép duyên Thổ-tù", nên "Nàng đà gieo ngọc, trầm châu, Sông Tiền-Đường đό, ấy mồ hồng-nhan!". Vì thế mà cả nhà cứ đinh ninh là Thúy Kiều đã chết đuối:
Rõ ràng HOA rụng HƯƠNG bay,
Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi.
Khi đã đoàn viên với nhau rồi, mọi người đều muốn cho Kim Kiều tái hợp, nhưng Thúy Kiều vì nghĩ thân mình "Bấy chầy gió táp mưa sa, mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn" nên đã từ chối khéo:
Lại như những thói người ta,
Vớt HƯƠNG dưới đất bẻ HOA cuối mùa.
Nhưng, cuối cùng thì đôi đứa vẫn làm lễ nên duyên, mặc dù "Chẳng trong chăn gối cũng ngoài cầm thơ", nên lại:
Thêm nến giá nối HƯƠNG BÌNH,
Cùng nhau lại chuốc chén quỳnh Giao Hoan.
"Giao Hoan" 交 歡. GIAO 交 là Qua lại với nhau, như Giao Tình 交 情 là Tình cảm qua lại với nhau. HOAN 歡 là Hoan Lạc 歡 樂 là Vui vẻ, nên GIAO HOAN 交 歡 là "Cùng vui vẻ qua lại với nhau". Như câu thơ trên "Cùng nhau lại chuốc chén quỳnh Giao Hoan" có nghĩa là: "Cùng chuốc chén rượu quỳnh tương để cùng vui với nhau" mà thôi. Nhưng, hễ thấy chữ GIAO HOAN là người ta lại nghĩ ngay đến sự làm tình giữa trai gái với nhau. Thế thì tại sao cụ Nguyễn Du lại dùng chữ GIAO HOAN ở đây, mà không dùng chữ ĐỒNG HOAN, TƯƠNG HOAN hay CỘNG HOAN đều có nghĩa là CÙNG VUI, mà lại dùng từ GIAO HOAN?! Cụ có dụng ý hay muốn ám chỉ gì chăng?! Hay cụ muốn ngầm cho người đọc hiểu rằng: Trai gái gần nhau như lửa gần rơm thì làm sao có thể chỉ "Khi chén rượu khi cuộc cờ, Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên" không cho được. Chuyện "Giao Hoan" là chuyện thực tế của cuộc sống, sớm muộn gì cũng chắc chắn sẽ xảy ra mà thôi. Sẵn nhớ lại...
Có một lần lang thang trên mạng, đọc thấy một bài viết về tài "nói lái" của cụ Nguyễn Du trong Truyện Kiều với trích đoạn cái đêm KIM KIỀU hội ngộ. Sau khi "Đến nhà vừa thấy tin nhà, Hai thân còn dở tiệc hoa chưa về" Kiều bèn "Cửa ngoài vội rủ rèm the, Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình" gặp Kim Trọng một lần nữa trong đêm để cùng nhau thề ước:
...Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
Chén hà sánh giọng quỳnh tương,
Dải là hương lộn bình gương bóng lồng.
Sinh rằng: Gió mát trăng trong,
Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam.
Chày sương chưa nện cầu Lam,
Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng?
Đoạn trên có một câu tối nghĩa: "Dải là hương lộn bình gương bóng lồng". DẢI LÀ là Dải khăn là khăn tay của Kiều có mùi HƯƠNG thì đúng rồi, nhưng sau lại là HƯƠNG LỘN, LỘN ở đây rất tối nghĩa. Sao không phải là DẢI LÀ HƯƠNG THOẢNG, DẢI LÀ HƯƠNG TỎA hay DẢI LÀ HƯƠNG ĐƯỢM... mà phải là DẢI LÀ HƯƠNG LỘN? Phải chăng cụ Tiên Điền nhà ta đang chơi trò nói lái? Và... chính cái "LÀ HƯƠNG LỘN" đó đã làm cho Kim Trọng phải nói là "Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam" và đòi hỏi: "Chày sương chưa nện cầu Lam, Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng?"
Biết đâu được! Vì cụ Nguyễn Du cũng là người sống cùng thời với "Bà chúa thơ Nôm" và lại còn có truyền thuyết cho là "Giữa Hồ Xuân Hương và đại thi hào Nguyễn Du còn có một mối tình?" Và "BÀ CHÚA THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG" lại là Bà Chúa chuyên "nói lái" trong thi ca mà! Sự thật ra sao thì chưa được rõ...
Chỉ trình bày cho rộng đường... phiếm luận!
Xin được kết thúc bài phiếm về "HƯƠNG trong Truyện KIỀU" với..."LÀ HƯƠNG LỘN" ở trên!
Hẹn bài viết tới !
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét