Đề Hoàng Hạc Lâu
Phan Thanh Giản
Năm 1834, Minh Mạng thứ 15, Cụ PHAN THANH GIẢN được cử đi sứ Trung Quốc. Khi đi ngang qua ngôi lầu nổi tiếng nầy, cũng như tất cả những thi nhân từ ngàn xưa đến nay, ông đã không bỏ lỡ dịp may lên thăm và ngắm ngôi lầu với nhiều huyền thoại nầy, và cũng vì thế mà ta mới có dịp thưởng thức thêm một bài thơ trác tuyệt của ông : ĐĂNG HOÀNG HẠC LÂU sau đây:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân SẦU
mà nhà thơ Tản Đà đã dịch rất xuất sắc là:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai!....
Trước tiên là bài DIỄN NÔM của Thầy PHAN HUY VIÊN với bút hiệu CHÂN DIỆN MỤC (Tây Đô Cuồng Sĩ):
Lên Lầu Hoàng Hạc
Ngàn xưa hoàng hạc đã cao bay,
Người đến ngàn sau, viếng chốn nầy
Lục Bát :
ĐÍnh kèm theo bài viết nầy là tài liệu về:
ĐĂNG HOÀNG HẠC LÂU
Phan Thanh Giản
Tích thời hạc dĩ hà niên khứ ?
Thiên tải nhân tòng Nam cực lâm.
Anh vũ châu tiền phương thảo lục,
Tình Xuyên Các thượng bạch vân thâm.
Bán liêm lạc nhật phù Giang Hán,
Nhất phiến hàn lưu tống cổ câm (kim)
Mãn mục yên ba chuyển trù trướng,
Du du trần mộng thập thu tâm.
登 黃 鶴 樓
藩 清 簡
昔 時 鶴 已 何 年 去?
千 載 人 從 南 極 臨。
鸚 鵡 洲 前 芳 草 綠,
晴 川 閣 上 白 雲 深。
半 簾 落 日 浮 江 漢,
一 片 寒 流 送 古 今。
滿 目 煙 波 轉 惆 悵,
悠 悠 塵 夢 拾 秋 心
Dịch Nghĩa :
Câu 1 : Ngày xưa, Hạc đã bay đi mất tự năm nào?
Câu 2 : Ngàn năm sau, mới có người từ vùng cực Nam đến đây.( Ngàn năm chỉ là cách nói nhấn, để chỉ rất nhiều năm rồi. Đối với Trung Hoa xưa thì nước ta ở về phía cực Nam. Câu nầy Cụ Phan tự chỉ mình là người đến từ Nước cực Nam, là nước xa tít ở cõi Nam ).
Câu 3 : Cỏ non vẫn còn xanh tươi trên cù lao Anh Vũ ở giữa ngã ba sông. Liên hệ câu : Phương thảo thê thê Anh Vũ Châu, trong bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu đời Đường nêu trên.
Câu 4 : Mây trắng vẫn còn chập chùng trắng xóa khi ta đứng trên Tình Xuyên Các. (chữ "Thâm" ở đây không có nghĩa là "sâu" , mà là "Đậm", dùng để chỉ màu sắc, mây trắng mà "đậm", là mây "trắng xóa chập chùng" . Chữ THÂM ở đây còn dùng để đối với chữ LỤC ở câu trên.
Câu 5 : ( Vì đứng trong lầu nhìn ra, nên thấy...) Mặt trời lặn như nổi trên sông nước lung linh xuyên qua Nửa Bức Rèm (bán liêm) treo trên lầu .
Câu 6 : Một dãy nước chảy âm thầm, lạnh lùng xuyên suốt từ ngàn xưa đến nay.
Câu 7 : Mãn mục là "đầy mắt" , ở đây có nghĩa là khoảng không gian mênh mông trước mắt. Câu nầy có nghĩa: Khói sóng mênh mông khiến cho lòng xúc đông bồi hồi (trù trướng).
Câu 8 : (Nên chi)...Trong (giấc mộng trần thế) cuộc đời mộng ảo nầy cũng chỉ nhặt nhạnh (thập) được lòng hoài cảm trong mùa thu mà thôi!. Câu cuối nầy, có thể Cụ PHAN đã chơi chữ đây, vì chữ THU 秋 ở trên, chữ TÂM 心 ở dưới, nếu ghép lại thì ta sẽ có chữ SẦU 愁. Cũng vừa hợp với chủ ý của bài thơ gốc của Thôi Hiệu:
Câu 2 : Ngàn năm sau, mới có người từ vùng cực Nam đến đây.( Ngàn năm chỉ là cách nói nhấn, để chỉ rất nhiều năm rồi. Đối với Trung Hoa xưa thì nước ta ở về phía cực Nam. Câu nầy Cụ Phan tự chỉ mình là người đến từ Nước cực Nam, là nước xa tít ở cõi Nam ).
Câu 3 : Cỏ non vẫn còn xanh tươi trên cù lao Anh Vũ ở giữa ngã ba sông. Liên hệ câu : Phương thảo thê thê Anh Vũ Châu, trong bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu đời Đường nêu trên.
Câu 4 : Mây trắng vẫn còn chập chùng trắng xóa khi ta đứng trên Tình Xuyên Các. (chữ "Thâm" ở đây không có nghĩa là "sâu" , mà là "Đậm", dùng để chỉ màu sắc, mây trắng mà "đậm", là mây "trắng xóa chập chùng" . Chữ THÂM ở đây còn dùng để đối với chữ LỤC ở câu trên.
Câu 5 : ( Vì đứng trong lầu nhìn ra, nên thấy...) Mặt trời lặn như nổi trên sông nước lung linh xuyên qua Nửa Bức Rèm (bán liêm) treo trên lầu .
Câu 6 : Một dãy nước chảy âm thầm, lạnh lùng xuyên suốt từ ngàn xưa đến nay.
Câu 7 : Mãn mục là "đầy mắt" , ở đây có nghĩa là khoảng không gian mênh mông trước mắt. Câu nầy có nghĩa: Khói sóng mênh mông khiến cho lòng xúc đông bồi hồi (trù trướng).
Câu 8 : (Nên chi)...Trong (giấc mộng trần thế) cuộc đời mộng ảo nầy cũng chỉ nhặt nhạnh (thập) được lòng hoài cảm trong mùa thu mà thôi!. Câu cuối nầy, có thể Cụ PHAN đã chơi chữ đây, vì chữ THU 秋 ở trên, chữ TÂM 心 ở dưới, nếu ghép lại thì ta sẽ có chữ SẦU 愁. Cũng vừa hợp với chủ ý của bài thơ gốc của Thôi Hiệu:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân SẦU
日 暮 鄉 関 何 處 是
烟 波 江 上 使 人 愁
mà nhà thơ Tản Đà đã dịch rất xuất sắc là:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai!....
Mặc dù không sử dụng vần "LÂU... SẦU" như Thôi Hiệu, nhưng âm hưởng của bài Đăng Hoàng Hạc Lâu của cụ Phan Thanh Giản vẫn tạo nên một nỗi niềm hoài cổ sâu xa man mác với hạc vàng mây trắng, với Anh Vũ Châu, với Tình Xuyên Các: Một kiến trúc được xây dựng nên và được đặt tên do câu thơ bất hủ của Thôi Hiệu "Tình xuyên lịch lịch Hán dương thọ". Bài thơ được kết thúc bằng lối chơi chữ chiết tự tài hoa của cụ Phan để hướng bài thơ về với mối sầu thiên cổ "Du du trần mộng thập thu tâm!" làm ta nhớ đến câu: "Ai đem thu cảnh họa cùng thu tâm!" của Nữ sĩ Tương Phố trong Thi Ca Tiền Chiến...
Bài thơ Đăng Hoàng Hoạc Lâu nầy của cụ PHAN đã được Thầy Trò Cựu học sinh PHAN THANH GIẢN & ĐOÀN THỊ ĐIỂM chúng tôi cùng "xúm nhau" diễn nôm, xem đây như là một hoài niệm, một chút lòng thành của đám hậu sinh tưởng nhớ về vị Tiến Sĩ đầu tiên của đất Nam Kỳ sinh sau đẻ muộn. Mời tất cả cùng đọc cho vui...
Trước tiên là bài DIỄN NÔM của Thầy PHAN HUY VIÊN với bút hiệu CHÂN DIỆN MỤC (Tây Đô Cuồng Sĩ):
LÊN LẦU HOÀNG HẠC
Hạc đã bay đi tự thuở nào
Một người Nam muộn đến lầu cao
Bãi xa thơm cỏ xanh xanh mắt
Sông tạnh lầu mây trắng một mầu
Rèm hắt bóng tà vờn trên sóng
Nước buồn trôi lạnh một chiều sâu
Bồi hồi gửi mắt qua sương khói
Đem mộng ngàn năm ủ nỗi sầu
Một người Nam muộn đến lầu cao
Bãi xa thơm cỏ xanh xanh mắt
Sông tạnh lầu mây trắng một mầu
Rèm hắt bóng tà vờn trên sóng
Nước buồn trôi lạnh một chiều sâu
Bồi hồi gửi mắt qua sương khói
Đem mộng ngàn năm ủ nỗi sầu
CDM.
Lên Lầu Hoàng Hạc
cô Phạm Thảo Nguyên
Chim hạc năm nao đã vút bay
Ngàn sau nam cực tới nơi đây
Cỏ non Anh Vũ xanh xanh ngắt
Lầu vắng lâng lâng trắng những mây
Trời lặn nửa rèm sông Hán rợn
Lạnh trôi một dải tự xưa nay
Bao la khói sóng bồi hồi dạ
Đời mộng lòng thu sầu góp đầy
PTN
Đăng Hoàng Hạc Lâu
Thầy Phạm Khắc Trí
Thuở nào xưa hạc đã cao bay ,
Viễn khách trời đưa đẩy đến đây.
Anh Vũ cồn xanh ngàn cỏ biếc ,
Tình Xuyên gác trắng một màu mây.
Nửa rèm kim cổ chiều sông lạnh ,
Một dải giang hà vạt nắng phai.
Khói sóng mênh mang nao tấc dạ ,
Mộng đời lãng đãng nỗi niềm tây.
PKT.
Thầy Phạm Khắc Trí
Thuở nào xưa hạc đã cao bay ,
Viễn khách trời đưa đẩy đến đây.
Anh Vũ cồn xanh ngàn cỏ biếc ,
Tình Xuyên gác trắng một màu mây.
Nửa rèm kim cổ chiều sông lạnh ,
Một dải giang hà vạt nắng phai.
Khói sóng mênh mang nao tấc dạ ,
Mộng đời lãng đãng nỗi niềm tây.
PKT.
Lên Lầu Hoàng Hạc
Trầm Vân
Hoàng hạc ngày nao đã vút bay
Hoàng hạc ngày nao đã vút bay
Cực Nam người đến ghé lầu này
Cỏ non Anh Vũ màu xanh mướt
Mây trắng Tình Xuyên gió biếc say
Ác lặn nửa rèm sương lãng đãng
Sông dài một dải nước khoan thai
Sông dài một dải nước khoan thai
Ngập trời khói sóng giăng sầu nhớ
Dằng dặc lòng thu nỗi cảm hoài
Bài thứ hai theo thể Lục Bát :
Trầm Vân
Ngày xưa hoàng hạc cao bay
Cực Nam người đến chốn này ngàn sau
Cỏ non Anh Vũ biếc màu
Tình Xuyên mây trắng bên lầu phiêu du
Nửa rèm ác lặn sương mờ
Sông dài một dải gió thơ thẩn luồn
Mênh mông khói sóng sầu buông
Nhớ quê dằng dặc gieo buồn thu tâm
Thầy Võ Văn Vạn.
Thầy Võ Văn Vạn.
LÊN LẦU HOÀNG HẠC
Song Quang
Song Quang
Hoàng Hạc ngày xưa đã vút bay
Người Nam đến viếng ở nơi nầy
Cỏ non Anh Vũ còn xanh thẩm
Mây trắng Tình Xuyên vẫn chẳng phai
Ác lặn nửa rèm chìm sông vắng
Nước dòng cuộn chảy tự xưa nay
Mênh mông khói sóng hồn giao động
Lối mộng thu tâm cảm kích hoài.
SQ.
LÊN LẦU HOÀNG HẠC
Đỗ Chiêu Đức
Đỗ Chiêu Đức
Ngàn xưa hoàng hạc đã cao bay,
Người đến ngàn sau, viếng chốn nầy
Anh Vũ cỏ non màu vẫn biếc
Tình Xuyên mây trắng sắc chưa phai
Nửa rèm ác lặn chìm như nổi
Một dãi sông dài xưa đến nay
Khói sóng ngập trời nghe cảm khái
Thu tâm dằng dặc mộng trần ai !
Tình Xuyên mây trắng sắc chưa phai
Nửa rèm ác lặn chìm như nổi
Một dãi sông dài xưa đến nay
Khói sóng ngập trời nghe cảm khái
Thu tâm dằng dặc mộng trần ai !
Lục Bát :
Ngàn xưa hoàng hạc cao bay
Ngàn sau người đến bên trời cực Nam
Vũ Châu cỏ vẫn xanh non
Trên Tình Xuyên Các mây còn trắng bông
Nửa rèm ác lặn bên sông
Cổ kim thế sự theo dòng nước trôi
Mênh mông khói sóng tơi bời
Cỏi trần dằng dặc bồi hồi thu tâm !
Ngàn sau người đến bên trời cực Nam
Vũ Châu cỏ vẫn xanh non
Trên Tình Xuyên Các mây còn trắng bông
Nửa rèm ác lặn bên sông
Cổ kim thế sự theo dòng nước trôi
Mênh mông khói sóng tơi bời
Cỏi trần dằng dặc bồi hồi thu tâm !
Đỗ Chiêu Đức
ĐÍnh kèm theo bài viết nầy là tài liệu về:
晴 川 阁 TÌNH XUYÊN CÁC
晴 川 阁 是 湖 北 省 重 点 文 物 保 护 单 位。位 于 武 汉 城 内 汉 阳 龟 山 东 麓 长 江 边 的 禹 功 矶 上。晴 川 阁 始 建 于 明 代 嘉 靖 年 间,其 名 取 自 唐 代 诗 人 崔 颢 诗 句 "晴 川 历 历 汉 阳 树"。有 "楚 四 名 楼" 之 誉。因 与 对 岸 黄 鹤 楼 隔 江 对 峙,相 映 生 辉,被 称 为 "三 楚 胜 境"。
TÌNH XUYÊN CÁC là đơn vị trọng điểm bảo vệ những vật phẩm văn hóa. Vị trí nằm ở trên bờ đá Vũ Công Cơ của sông Trường Giang, phía đông của Quy Sơn thuộc địa phận Hán Dương ở trong thành Vũ Hán. Tình Xuyên Các được bắt đầu xây dựng từ năm Gia Tĩnh triều Minh. Tên lầu được đặt theo câu thơ " Tính xuyên lịch lịch Hán Dương thọ" của Thôi Hiệu đời Đường. TXC thuộc một trong bốn lầu các nổi tiếng của đất Sở (Sở tứ danh lâu), vì nằm đối diện với Hoàng Hạc Lâu ở bên kia sông, nên cùng soi rọi làm đẹp cho nhau, được xưng tụng là "tam Sở thắng cảnh" (một trong ba thắng cảnh của đất Sở).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét