Góc Đường Thi :
CHÙM THƠ XUÂN
1. KÝ XUÂN Vương Bột :
羈 春 KÝ XUÂN
客心千里倦, Khách tâm thiên lý quyện,春事一朝歸. Xuân sự nhất triêu quy.
還傷北園里, Hoàn thương bắc viên lý,
重見落花飛. Trùng kiến lạc hoa phi.
王 勃 Vương Bột
* CHÚ THÍCH :
Tác giả Vương Bột, quê quán miền bắc (Sơn Tây), con nhà gia thế, tuổi trẻ tài cao, được Bái Vương Lý Hiền vời vào phủ cho giữ việc tu soạn và rất tin dùng. Vì một bài thơ trách đùa con gà chọi của Anh Vương, vua Cao Tông nổi giận, sai trục xuất ông khỏi phủ. Ông đi chu du nhiều nơi ở phương nam, cuối cùng chết đuối trên đường đi Giao Chỉ thăm cha, lúc mới 26 tuổi…
Bài thơ trên đây làm lúc ông bị trục xuất khỏi Bái Vương Phủ đang chu du nơi đất Thục. Vốn dĩ muốn mượn cảnh trí thiên nhiên hùng vĩ của núi sông đất Thục để tiêu sầu, nhưng lòng quê nhớ về đất bắc vẫn canh cánh khôn nguôi.
- Ký Xuân 羈 春: KÝ là Ở lại, giữ lại, nên KÝ XUÂN có nghĩa là "Xuân đến mà vẫn phải ở lại nơi đất khách".
- Quyện 倦:là Mỏi mệt, buồn chán.
- Xuân Sự 春 事: là Chuyên mùa xuân. Ý chỉ Cảnh sắc chung quanh khi xuân về.
* NGHĨA BÀI THƠ :
XUÂN Ở NƠI XA
Trên bước đường ngàn dặm, lòng người khách tha hương đã mỏi mê chán ngán rồi. Trước mắt lại thấy cảnh trí của mùa xuân ập về nên lòng lại càng muốn về ngay quê nhà. Cảnh quê xưa ở phương bắc còn để lại nhiều thương cảm ở trong lòng, không biết đến bao giờ mới thấy lại được cảnh hoa rụng bay lả tả ở quê nhà đây.
Hoa rụng khi hoa đã tàn, xuân đã hết, cũng như tuổi trẻ rồi sẽ già đi, rồi sẽ giả từ cuộc sống nầy như hoa rơi rụng vậy, nhưng sẽ nhìn hoa rơi rụng ở đâu? Ý của Vương Bột là muốn được nhìn hoa rơi rụng ở quê nhà, thâm ý của thi nhân là muốn được già được chết ơ quê hương hơn là bỏ thây nơi xứ lạ.
* DIỄN NÔM :
XUÂN TRÊN ĐẤT KHÁCH
Ngàn dặm lòng quê mòn mỏi,
Xuân về một sớm nhớ thay,
Đất bắc quê xưa trông ngóng,
Ngàn trùng chỉ thấy hoa ba!
Lục bát :
Mỏi mòn ngàn dặm lòng quê,
Xuân về một sớm tái tê nhớ nhà.
Thương về đất bắc quê xa,
Ngàn trùng chỉ thấy la đà hoa bay !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
2. KHÁCH TRUNG THỦ TUẾ Bạch Cư Dị :
客 中 守 歲 KHÁCH TRUNG THỦ TUẾ
守 歲 樽 無 酒, Thủ tuế tôn vô tửu,
思 鄉 淚 滿 巾。 Tư hương lệ mãn cân.
始 知 爲 客 苦, Thủy tri vi khách khổ,
不 及 在 家 貧。 Bất cập tại gia bần.
畏 老 偏 驚 節, Úy lão thiên kinh tiết,
防 愁 預 惡 春。 Phòng sầu dự ố xuân.
故 園 今 夜 裏, Cố viên kim dạ lý,
應 念 未 歸 人。 Ưng niện vị quy nhân.
白 居 易 Bạch Cư Dị
* CHÚ THÍCH :
- Khách Trung 客 中 : là Trong đất khách, có nghĩa là Đang ở nơi đất khách.
- Thủ Tuế 守 歲 : là Giữ tuổi, ý chỉ : Giữ lấy tuổi cũ để đón tuổi mới, có nghĩa là Thức để đón Giao Thừa trong đêm ba mươi Tết âm lịch.
- Thủy Tri 始 知 : Mới biết được rằng ...
- Bất Cập 不 及 : Không bằng được ....
- Úy 畏 : là Sợ, mà Kinh 驚 : cũng là Sợ, ta có từ kép Kinh Úy 驚 畏 là Sợ Hãi.
- Ố 惡 : là Ghét. ta có từ KHẢ Ố 可 惡 : là Đáng ghét.
- Cố Viên 故 園 : là Vườn Xưa, từ dùng để chỉ Quê Nhà, Quê Xưa.
- Ưng Niệm 應 念 : Có nghĩa : Chắc là đang nhắc đến...
* NGHĨA BÀI THƠ :
ĐÓN GIAO THỪA NƠI ĐẤT KHÁCH
Đón giao thừa mà trong chai đã hết rượu rồi. Nước mắt nhớ quê hương ướt đẫm cả khăn. Mới biết rằng làm người khách xa quê hương là rất khổ, không bằng nghèo khó mà được ở quê nhà. Vì sợ gìa nên cũng sợ luôn các lễ Tết, dự phòng sầu muộn nên cũng ghét luôn cả mùa xuân. Ở nơi quê nhà trong đêm nay, chắc mọi người cũng đang nhắc đến cái người đi chưa về là mình đây!
Lễ Tết đến mà lại phải tha phương cầu thực. Đón giao thừa nơi đất khách mà chai thì hết rượu, túi lại không tiền, Mới biết rằng thà nghèo khổ mà Tết được ở nhà còn hơn đi tìm chữ công danh mà lang thang chân trời góc bễ. Trong khi tuổi già cứ sồng sộc ập xuống đầu nên càng sợ xuân về Tết đến hơn nữa, như lời thơ của nhà thơ Xuân Diệu thời Tiền Chiến:
Tôi có chờ đâu có đợi đâu,
Mang chi xuân đến gợi thêm sầu !
Buồn cho thân phận tha phương đón Tết của mình, Bạch Cư Dị cũng buồn luôn cho những thân nhân đang đón giao thừa ở quê nhà: Chắc mọi người cũng đang khoắc khoải trông ngóng lo lắng cho mình, là kẻ còn lưu lạc phương trời, không biết sẽ đón Tết ra sao?!
* DIỄN NÔM :
ĐẤT KHÁCH GIAO THỪA
Giao thừa chai hết rượu,
Nhớ quê lệ ướt khăn.
Mới hay tha hương khổ,
Không bằng nghèo yên thân.
Ngại gìa lại e Tết,
Sợ buồn cũng ghét xuân.
Quê nhà đêm nay chắc,
Nhớ người đi bâng khuâng.
Lục bát :
Giao thừa chai rượu lại không,
Nhớ quê lệ ướt đầm khăn đêm này.
Mới hay lưu lạc khổ thay,
Không bằng nghèo khó ngày ngày yên thân.
Sợ gìa sợ cả nàng xuân,
Sợ ngày tháng lụn năm cùng ngổn ngang.
Đêm nay chắc cả thôn làng,
Ngóng trông những kẻ lang thang chưa về !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
3. XUÂN DẠ LẠC THÀNH VĂN ĐỊCH Lý Bạch :
春 夜 洛 城 聞 笛 Xuân Dạ Lạc Thành Văn Địch
誰 家 玉 笛 暗 飛 聲, Thùy gia ngọc địch ám phi thanh,
散 入 春 風 滿 洛 城. Tán nhập xuân phong mãn Lạc thành.
此 夜 曲 中 聞 折 柳, Thử dạ khúc trung văn Chiết Liễu,
何 人 不 起 故 園 情 ? Hà nhân bất khởi cố viên tình ?!
李 白 Lý Bạch
* CHÚ THÍCH :
- CHIẾT LIỄU 折 柳 hay CHIẾT DƯƠNG LIỄU 折 楊 柳 là Bẻ Cành Dương Liễu, tên của một khúc Sáo đời Hán, nội dung chỉ cảnh biệt ly, khi đưa tiễn nhau ở "Bề ngoài mười dặm tràng đình", người đưa tiễn hay bẻ một nhành liễu tặng cho bạn mình làm roi ngựa. Đến đời Đường, điệu sáo nầy được thêm thắc và đổi tên thành CHIẾT DƯƠNG LIỄU CHI 折 楊 柳 枝 với lời thơ như sau: 『上 馬 不 捉 鞭,反 拗 楊 柳 枝。下 馬 吹 橫 笛,愁 殺 行 客 兒。』Thượng mã bất tróc tiên, Phản áo dương liễu chi. Hạ mã xuy hoành địch, Sầu sát hành khách nhi! có nghĩa: Lên ngựa chẳng cầm roi, Lại bẻ cành dương liễu. Xuống ngựa thổi sáo ngang, Buồn chết người ly biệt! Nên...
CHIẾT LIỄU là chỉ cảnh chia tay, chỉ nỗi sầu ly biệt của kẻ ở người đi. LÝ BẠCH là kẻ tha hương tìm danh lợi, nhưng lại chưa thi thố được hoài bảo của mình, nên trong đêm nghe lời " Bẻ Liễu" lại chạnh nhớ đến quê hương!
* DIỄN NÔM :
ĐÊM XUÂN NGHE SÁO THÀNH LẠC DƯƠNG
Nhà ai tiếng sáo vẳng đêm thanh,
Tan nhập gió xuân khắp Lạc thành.
Réo rắc trong đêm lời bẻ liễu,
Ai người chẳng động cố hương tình ?
Lục bát :
Nhà ai sáo ngọc vẳng sang,
Gió Xuân đưa đẩy ngập tràn Lạc Dương.
Véo von Bẻ Liễu đêm trường,
Ai người chẳng thấy vấn vương quê nhà ?!
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
4. TRỪ DẠ TÁC Cao Thích :
除 夜 作 TRỪ DẠ TÁC
旅 館 寒 燈 獨 不 眠, Lữ quán hàn đăng độc bất miên,
客 心 何 事 轉 悽 然 ? Khách tâm hà sự chuyển thê nhiên?
故 鄉 今 夜 思 千 里, Cố hương kim dạ tư thiên lý,
霜 鬢 明 朝 又 一 年 ! Sương mấn minh triêu hựu nhất niên!
高 適 Cao Thích
* Nghĩa bài thơ :
Cảm Tác Trong Đêm Trừ Tịch
Một mình đơn độc ngồi bên ngọn đèn lạnh lẽo trong lữ quán.
Vì chuyện chi mà lòng khách lại trở nên thê lương sầu thảm?
Thì ra đêm nay khách đang nhớ đến quê hương xa ngoài ngàn dặm.
Sáng mai trên mái tóc sương pha nầy lại chồng thêm một tuổi đời xa quê hương nữa!
Qủa là tâm sự xót xa của kẻ tha hương lữ thứ! Cao Thích không về được quê hương để đón xuân vì quan sơn cách trở, và vì công chưa thành danh chưa toại, mà xót xa cho thân mình còn lưu lạc tha phương trong đêm Trừ tịch! Không như ...
Chúng ta ngày nay, không phải vì núi sông cách trở, cũng không phải chờ đợi công danh. Chúng ta có đầy đủ phương tiện, điều kiện tiện nghi để về thăm quê hương bất cứ lúc nào, bất cứ khi nào chúng ta muốn... Nhưng, về đến quê hương rồi cũng không tìm đâu ra được những làng xóm ngày xưa, những phố phường năm cũ, kỷ niệm của những ngày xưa thân ái... đã biền biệt... chân trời!
Thôi thì, thà ở đây, để làm kẻ tha hương, xa quê, nhớ quê để nuối tiếc về những tháng ngày dĩ vãng... vang bóng một thời!!!
* Diễn nôm :
ĐÊM GIAO THỪA
Quán lạnh đèn tàn chẳng ngủ yên,
Lòng ai da diết những ưu phiền.
Quê hương ngàn dặm đêm nay nhớ,
Đầu bạc sáng ngày lại một niên !
Lục bát :
Thức cùng quán lạnh đèn tàn,
Lòng người lữ thứ dạ càng tái tê.
Ngàn trùng canh cánh tình quê,
Sáng ra đầu bạc năm về lại năm.
Câu 3 :
故 鄉 今 夜 思 千 里,Cố hương kim dạ tư thiên lý,
Còn được hiểu là: Đêm nay, cố hương nhớ về người ở xa ngàn dặm. Chắc trong cảnh đoàn tụ vui vầy để cùng đón Tết mà thiếu mất một người còn chưa kịp về. Cao Thích không nói là mình ở ngoài ngàn dặm nhớ về cố hương, mà nói Cố hương nhớ về mình còn đang ở xa ngoài ngàn dặm.
PHỎNG DỊCH :
THƠ LÀM ĐÊM GIAO THỪA
Quán trọ, đèn khuya, ngủ chẳng yên,
Lòng luôn canh cánh vạn niềm riềng.
Quê nhà, nhớ qúa, xa ngàn dặm,
Mai Tết, năm qua, tóc bạc thêm !
CẢM TÁC :
Giao thừa giao cả niềm riêng,
Lòng quê canh cánh tận miền xa xăm.
Mai ngày năm lại qua năm,
Bao giờ mới khỏi về thăm quê nhà ?!
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
5. LINH LĂNG TẢO XUÂN Liễu Tông Nguyên :
LINH LĂNG TẢO XUÂN 零 陵 早 春
Vấn xuân tòng thử khứ, 問 春 從 此 去,
Kỷ nhật đáo Tần Nguyên. 幾 日 到 秦 原.
Bằng ký hoàn hương mộng, 凭 寄 還 鄕 夢,
Ân cần nhập cố viên. 殷 勤 入 故 園.
Liễu Tông Nguyên 柳 宗 元
* CHÚ THÍCH :
- Linh Lăng 零 陵 : là một địa danh ở miền Nam, còn Tần Nguyên 秦 原 thì ở miền Bắc. Ở miền Nam ấm áp nên mùa xuân đến sớm hơn, còn miền Bắc lạnh lẽo nên nàng xuân sẽ đến muộn hơn.
- Tòng Thử 從 此: là Từ nơi đây, từ chỗ nầy.
- Bằng Ký 凭 寄: là Dựa vào ai đó mà gởi gắm. Ở đây chỉ Dựa vào nàng xuân.
- Hoàn Hương Mộng 還 鄕 夢: là Giấc mơ được về với quê hương.
* NGHĨA BÀI THƠ :
MÙA XUÂN ĐẾN SỚM Ở XỨ LINH LĂNG
Hỏi Xuân rằng, từ đây đi, thì mấy ngày Xuân mới đến được xứ Tần Nguyên. Cho ta gởi theo cái " mộng hoàn hương", ân cần về tận quê nhà. (Chứ đang ở nơi xa xôi nầy, ta sẽ không sao về lại nhà trong mùa xuân nầy được!)
* DIỄN NÔM :
XUÂN SỚM Ở XỨ LINH LĂNG
Hỏi Xuân từ đây giả biệt
Bao giờ mới đến Tần Nguyên
Ta gởi mộng hồn tha thiết
Ân cần về tận cố viên !
Thơ Lục Bát :
Từ đây giả biệt, hỏi Xuân
Bao giờ mới đến xứ Tần Nguyên ta
Gởi lòng theo mộng thiết tha
Ân cần về tận quê nhà xa xăm!
Thấy Xuân đến, chạnh lòng nhớ quê mà gởi cái "mộng hoàn hương", ân cần nhờ nàng Xuân mang về tận quê nhà, đây quả là một lối gởi đặc biệt và tuyệt vời biết bao!
Mặc dù, chúng ta đang ở đất Bắc (Bắc Mỹ), và mặc dù Mỹ đi sau hơn Việt Nam đến mười hai tiếng đồng hồ, nhưng sao ta vẫn thấy nao nao mỗi độ Xuân về, cứ lo cho quê hương chưa có mùa Xuân, nhưng có biết đâu rằng chính chúng ta đây mới là những kẻ đang khao khát mùa Xuân, và chỉ hoài niệm, rồi nuối tiếc mà đi tìm những mùa Xuân trong quá khứ.....
Đầu Xuân, gởi chút mộng lòng tha thiết về với quê hương...
Từ đây giả biệt, hỏi Xuân
Bao giờ mới đến xứ "CẦN THƠ" ta
Gởi lòng theo mộng thiết tha
Ân cần về tận quê nhà xa xăm!
Cầu mong cho mọi người đều có được một mùa Xuân, một cái Tết
VUI VẺ, AN KHANG, THỊNH VƯỢNG !
杜 紹 德
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét