Chết Theo Ngày Tháng Cũ
(Viết để nhớ một người và để tặng một người mà chỉ riêng mình người đó hiểu)
Trời vào giữa tháng mười một, bây giờ xứ này là mùa xuân, cụm Mai cuối góc rào của một căn nhà cây, sơn màu lam trắng, nằm thu mình giữa cái sân cỏ, trồng đầy bông hồng, nhưng gầy guộc, không có nhiều hoa. Nhiều lần ngồi trên chuyến xe buýt, chạy ngang qua đường River, tới trường trung học Maribyrnong, nơi Chuẩn vừa đổi về dạy hơn nửa năm nay, anh định sẽ có một ngày, xuống trạm bên kia đường để thả bộ theo lề, nhìn cho tận mặt. Buổi chiều tan học, còn sớm, nắng vẫn hâm hấp cái nóng giữa trưa, đám học trò từ các chuyến xe điện, ngược xuôi, xuống lên nói cười rộn rã, ra về. Chuẩn chầm chậm thả bộ về hướng trạm xe ngoài ngã ba đường Gordon, căn nhà cách đó không mấy xa, đến gần bên, ngẩn ngơ đứng lại nhìn, những cánh hoa Mai vàng rộ không khác gì cụm Mai già đầu dốc ấp Xóm Chùa, ở quê nhà trong những ngày cận Tết. Hai ba cô học trò người Việt, đi qua, cúi đầu “chào thầy”. Chuẩn tiếc rẻ, nấn ná, chần chờ thêm chút nữa thì chiếc xe buýt thường ngày vừa dừng, đón người dưới phía cổng trường, Chuẩn quay lại bỏ đi, bước nhanh chân, để kịp tới trạm chờ. Phía đường trước mặt, người con trai trong bộ vét – tông xám đen hợp thời, đi ngược lại, cùng một lúc đến cái cổng sắt gầy guộc, cũ sét, đi vào nhà, thì Chuẩn cũng vừa tới. Người con trai chợt đứng khựng lại, quay trở ra, trố mắt nhìn “anh Chuẩn, phải anh Chuẩn không?” Chuẩn ngạc nhiên nhìn kỹ, sửng sốt “Trường hả”. Trường chạy vụt tới gần, vừa nắm lấy tay Chuẩn vừa quay vào hướng trong nhà gọi lớn “mẹ ơi, anh Chuẩn, anh Chuẩn”. Chuyến xe buýt đã rời trạm ngã ba đường Gordon, mất hút ở cuối đường Ballarat. Nắng chiều thưa dần, trời cũng có phần dịu hơn, dăm ba đứa học trò từ trong trường ra trễ, đứng tán dóc bên kia trạm chờ xe điện về phố Footscray.
Chuẩn theo Trường đi vào sân, chưa tới cửa, mẹ Trường, bác Tư Xuyến, tóc bạc trắng, từ trong bước ra, ôm chầm lấy Chuẩn, mắt đỏ hoe, run run, tiếng mất tiếng còn, lập đi lập lại “Chuẩn đây hả con”. Trường lặng thinh nhìn, Chuẩn cũng không nói được lời nào. Hai người dìu đỡ bà vào nhà, bên trong có mùi nhang thơm thoang thoảng tỏa ra đâu đó, Trường bỏ vào trong. Chuẩn ngồi một bên với bác Tư ở phòng khách, đồ đạc không nhiều nhưng gọn gàng và ngăn nắp. Ở một góc phòng, cạnh cánh cửa sổ ngó ra khoảng đất nhỏ hông nhà, cả hai cùng nhìn hai tấm hình trên bàn thờ, cái lư hương nhỏ, mấy cây nhang vẫn còn chút lửa đỏ lập lòe, hình Thục Quyên và hình bác tư trai. Chưa kịp hỏi thì bác tư Xuyến buột miệng “con Quyên mất rồi con ơi”. Thay đồ xong Trường cũng vừa bước ra, kịp nghe bà nói, cả ba mắt rươm rướm đỏ.
Buổi chiều, Chuẩn ở lại ăn cơm với hai mẹ con, chuyện trò hỏi han đủ thứ, bác trai mất vì bệnh nghẽn mạch máu tim, trước ngày Thục Quyên chết chừng ba bốn tháng. Thục Quyên bị ung thư trực tràng, chữa bằng hóa trị, tưởng êm nhưng sau ngày chôn cất bác tư trai, bệnh bộc phát trở lại, cô mất đi sau không quá một tuần lễ nằm bệnh viện, rồi chuyện quê nhà, chuyện ngày trước, vui buồn lẩn lộn. Theo tiễn Chuẩn ra trạm, đứng chờ xe buýt, Trường cho Chuẩn biết, “nhiều lần khi còn sống, ở bên nhà và ngay cả qua tới đây, chị thường tâm sự với em, chị đã thương anh từ năm hoc lớp Đệ Tam, linh cảm cho biết anh cũng thương chị, chỉ chờ ngày nào đó, nhất định sẽ có, chị sẽ chờ anh nói ra mà thôi”, Chuẩn lặng thinh nghe, đau nhói cả lòng, về đến nhà vừa kịp chuyến xe lửa cuối giữa đêm . *
Gia đình Chuẩn nghèo, mẹ góa con côi, hai mẹ con ở trong một căn nhà tranh, vách đất cất trên khoảng đất nhỏ, cuối ấp Xóm Chùa, Phước Trạch, sát bên con đường đất mòn, đi xuống bến đò ngang, ngó qua bên kia cái cù lao rộng, lưa thưa dăm ba mái nhà, tranh có tôn có, lác đác mấy ngọn dừa cao, nằm dọc theo nhánh rạch rẽ ngang ra ngoài sông Vàm Cỏ, tạm che nắng che mưa. Mẹ Chuẩn, ít học, biết đọc biết viết chút đỉnh, quê ở tận đâu đó ngoài Bình Tuy, trôi giạt về đây, bà không nói gì về chồng và Chuẩn cũng không dám hỏi ba, riết rồi quen, không ai nhắc tới.
Mẹ con hủ hỉ, bữa cháo bữa cơm, nắng thì ngoài sân mưa thì dưới mái hiên, nhà có không quá hai cái ghế đẩu cũ mèm, cái bàn vừa làm chỗ ngồi học, nơi mẹ Chuẩn tỉ mỉ dạy con, tập viết tập đồ dưới ngọn đèn dầu lờ mờ sáng, vừa làm chỗ cúng kiến, tuy đủ bốn chân nhưng cái cao cái thấp, so le, nhờ nền nhà đất, chỗ trũng chỗ lồi nên không đến nổi xiêng xẹo. Mẹ Chuẩn ngày ngày đi tát đìa, cắm câu ngoài mấy khu ruộng dọc hay ven bờ con rạch, gom mớ cá mớ tôm, mang ra ngoài chợ xã bán. Nhờ trời thương, bà ăn nói dịu dàng, nhỏ nhẹ, hay phụ hàng xóm chuyện này chuyện nọ, bà con ai nấy cũng thương, cho nên hai mẹ con, tuy không dư nhưng cũng vừa đủ tạm có miếng ăn qua ngày. Vất vả nhiều, khổ cực không biết bao nhiêu, nhưng chưa có lần nào Chuẩn nghe bà than phiền, than thở, một điều gì. Ngày này qua tháng nọ, chiều nào cũng vậy, mưa nắng kệ trời, bà cũng đứng trước sân nhà, chờ Chuẩn trên trường tiểu học xã tan học về, xoa đầu nắn tay con, tươi cười không ngớt.
Chuẩn đậu vào lớp Đệ Thất trường trung học công lập. Vì hoàn cảnh tội nghiệp, Chuẩn được bác ba Tòng, trưởng ấp cũng là người trong ban phật sự của ngôi chùa nhỏ ở làng, giới thiệu, nên mẹ khăn gói đưa Chuẩn lên tỉnh, ở trọ tại chùa Thiền Lâm, một ngôi chùa cổ, rậm rạp cây cối, nằm không xa ngã ba đầu trường, với ông sư già râu tóc bạc phơ, hiền từ, ít nói. Ông sư sắp cho Chuẩn một ngăn phòng nhỏ, phía hậu liêu, có bàn học, giường ngủ, đèn đuốc hẳn hoi, sát bên cạnh chỗ ngủ của hai b tiểu tăng phụ việc nhang đèn, chuông mõ, vườn tược cho chùa, cách phòng của ông sư già chừng năm mười bước. Những lễ kinh chiều, Chuẩn cũng thường, được phép vào chánh điện, ngồi đánh chuông lớn, theo nhịp tiếng đọc kinh của ông sư già và mấy tiểu tăng, một cách khoan khoái, cũng như thắp đèn, thắp nhang dưới chân tượng Phật, theo lời chỉ dạy của họ. Chuẩn không quên khấn nguyện, cầu xin cho mẹ cho mình được hộ trì may mắn. Mới chừng mười một tuổi đầu, Chuẩn đã làm quen với câu kinh, hồi chuông tiếng mõ, biết tập ăn chay nhiều, ăn mặn ít, tiền mẹ cho đem theo, “cắc ca cắc củm” để dành, sợ lo cho mẹ ở nhà hơn là thân mình trên tỉnh. Ông sư già thương thằng nhỏ sáng dạ, học đâu nhớ đó, tối nào cũng vậy, sau lễ chiều, cơm nước xong, ông kêu Chuẩn qua gian phòng ông ở, dạy Chuẩn thêm bài văn bài viết cùng phương cách cư xử ở đời, đối với người trên kẻ dưới. Chuẩn để ý để tứ, chiều nào đi học về cũng lấy chổi quét lá quanh sân chùa, như mấy tiểu tăng thường làm vào sáng sớm. Mỗi lần mẹ lên thăm, thấy con vui, ham học, là mỗi lần bà cúi đầu, xá lạy ông sư không biết bao nhiêu cái, mừng rơi nước mắt.
Phía bên kia hàng rào, cạnh sân chùa, ngó qua là cái biệt thự tường gạch khá xưa của ông bà tư Đặng, có tiệm thuốc tây lớn trên đường Gia Long ngoài phố chợ, nằm thu mình giữa một khoảnh vườn, trồng nhiều cây vú sửa rậm bóng mát và cái hòn non bộ cao quá đầu người ở sân sau, bao quanh bởi đám cây kiểng xanh một màu xanh bóng. Gia đình ông Đặng có hai người con, chị là Thục Quyên, học cùng một năm với Chuẩn nhưng khác lớp, đứa em trai tên Trường, nhỏ hơn, còn ở lớp ba lớp nhì gì đó. Gia đình giàu có, hàng xóm láng giềng chung quanh, ai cũng mến cũng thân, vì hai ông bà thường giúp đỡ người nghèo, người gặp cảnh túng quẩn, thiếu hụt, cũng như quyên góp cho chùa chiềng mỗi khi cần đến. Học khác lớp, cùng đường về, lại có cô bạn thân Trang, cùng lớp với Chuẩn, nhà ở trên góc ngã tư Võ Tánh, nên có quen chút chút, thêm vào đó, Thục Quyên cùng Trường, thỉnh thoảng mang hoa quả qua biếu chùa, nên thường gặp mặt. Tuy vậy, suốt hai năm đầu học Đệ thất, Đệ lục, lần nào từ trường về Chuẩn cũng nấn ná đi chậm xa sau lưng hai người. Hai cô này, có lẽ cũng biết, đôi khi làm bộ đứng lại chỉ chỏ trời trăng mây nước gì đó, chờ, chọc phá rồi cười thỏa thích. Chiều chiều, có đôi ba lần, Chuẩn đứng nhìn qua bên nhà Thục Quyên, thấy gia đình quây quầng trong sân, cười nói đùa giỡn hay lăng xăng giành nhau bước lên chiếc xe hơi “Peugeot” màu trắng đi Sài Gòn, vì nghe nói họ cũng có nhà ở dưới đó, trong mấy ngày cuối tuần. Chuẩn thấy lòng buồn buồn, tủi tủi, thầm khóc cho thân mình. Ba mẹ Thục Quyên, hai bác tư Đặng, không biết cô ta có nói gì hay không mà lần nào gặp Chuẩn, bên chùa trong mấy ngày lễ lớn, đều luôn miệng bảo anh sang bên nhà họ chơi. Cuối cùng, từ những ngày tháng đó, Chuẩn đã bớt đi nhút nhát, bớt đi ngại ngùng, biết đứng chờ nhau đến trường và mỗi chiều tan học về, cũng chuyện này chuyện kia, con đường ngắn quá không đủ dài, nên nhiều khi, không chịu chia tay mà không ai biết vì sao.
Cuốn lưu bút cuối năm Đệ Tứ, hình như với Chuẩn đã là một cái gì quý giá nhất mà anh có, trong đời, cứ lẩn quẩn loanh quanh bên mình đâu đó, ngày lên đêm xuống, nhất là từ khi không còn ở trọ tại chùa Thiền Lâm nữa. Giữa năm Đệ Tam, ông sư già viên tịch, ban quản trị chùa mang ông về chôn ở quê nhà, đâu dưới miệt Sa Đéc long Xuyên gì đó. Ông đi rồi, Chuẩn cũng rời chùa, ra ở chung với mấy thằng bạn cùng lớp, cùng quê, tại ngôi nhà thiếc nhỏ, dựa bên đường lộ, cũng không xa trường bao nhiêu, của cụ bà sáu Lợi, người tu tại gia, ăn chay trường, có căn nhà ngói lớn nằm trên miếng đất thoai thoải dốc phía trong, thương tình cho đám học trò ở đậu, không tính tiền tính bạc, đôi khi, bà còn kêu mấy đứa lên nhà cho hủ chao, chai nước tương nước mắm. Bên cạnh tấm hình dán đầu trang, Thục Quyên không viết gì nhiều nhưng chừng đó, cũng đủ cho Chuẩn ấm lòng nhất là mấy chữ “chắc mình sẽ nhớ nhau hoài”, không biết có như vậy không, chứ với Chuẩn, anh đã nhớ từ đó rồi, nhớ từ tiếng cười, tới dáng đi, đêm từng đêm, mỗi khi chong đèn ngồi học, cuốn lưu bút cứ gối đầu trên trang sách toán, dở dang mấy công thức khó, Chuẩn không dối được lòng, đã thầm thương Thục Quyên nhưng làm sao dám nói ra và bao giờ sẽ nói.
Sau những tháng ngày lẻ loi, đơn thân độc mã, dầm dãi nắng mưa, kiếm ăn kiếm sống nuôi con, đầu tắt mặt tối, mẹ Chuẩn già yếu đi nhiều, đi đứng chậm chạp, bị cảm sốt nóng ho thường. Lần nào cũng vậy, về Xóm Chùa thăm nhà, Chuẩn đều gởi Trang, cô bạn thân của Thục Quyên, là người duy nhất mà Chuẩn đã tâm sự, khi có chuyện buồn, số tiền nhịn mua “hột gà hột vịt miếng khô”, ra nhà thuốc tây mua giùm chai thuốc ho có hình hai lá phổi Pulmodol và mấy viên thuốc cảm trứng nhện, cho mẹ để dành uống, không quên căn dặn cô ta đừng cho ai biết. Số tiền dành dụm trong nhà, tuy bà không than thiếu hụt, mỗi khi lo tiền ăn tiền học nhưng anh đã đủ khôn cảm thấy nó không còn như xưa nữa. Biết phận nghèo, Chuẩn chưa lần nào dám tự mình vào quán nước hay bạn bè con nhà trên tỉnh mời gọi. Bữa cơm với mấy thằng bạn ở chung, cũng nghèo, đôi khi chỉ cần hủ chao và mấy trái dưa leo là đủ. Có những đêm ngồi học, không biết bao lần chuẩn nghe tim mình đau nhói, nhưng cố mà vượt qua, cố mà đổ đạt vì mẹ và cho mẹ.
Chuẩn không còn cách nào từ chối, nên đành phải theo Thục Quyên và Trang vào cái quán quen, ngay đầu ngã ba chợ Cũ, bên này bờ sông, buổi sáng, trời nắng một màu hồng tươi cả nửa góc trời, đẹp thật đẹp, ăn bữa cơm trưa gọi là mừng cho mọi người đều thi đậu, hai cô bàn nhau chuyện năm tới sẽ ra sao, học ngành gì. Thỉnh thoảng, Trang hết nhìn Thục Quyên, nhìn qua Chuẩn, chờ chờ đợi đợi cái gì đó, rồi tiếp tục hỏi qua hỏi lại. Chuẩn ngồi lặng thinh, buồn nhiều vui ít, mặc cho hai cô to nhỏ. Bên kia lề, người đàn bà quấn cái khăn bạc màu đen, trùm kín đầu, đôi gánh nặng gì đó, oằn xuống vai, vội vã băng qua đường. Nhìn theo, Chuẩn thấy lòng mình chùng xuống. Chuẩn theo Thục Quyên về nhà, có Trang theo, trước khi ra bến xe về lại Phước Trạch, chào tạm biệt và cám ơn ba mẹ Thục Quyên, dù gì hai bác cũng thương, cũng giúp đỡ việc này việc nọ, từ ngày còn ở tại chùa với ông sư già cho tới lúc ra nhà trọ của cụ bà Lợi. Bác tư trai không có nhà, cũng cái dịu dàng, niềm nỡ vốn có, bác tư gái một hai ân cần hỏi han đủ thứ chuyện. Trời cũng sắp giữa trưa, phía bên kia sông, thấp thoáng đâu đó ở lưng chừng trời, mây xám từng cụm bỗng dưng xuống thấp, kéo về ngang muốn đổ mưa. Tiễn ra tới đường, Thục Quyên đưa cho Chuẩn, một gói giấy, gói thật cẩn thận, mà cô nàng cầm theo từ nãy giờ, mắt rươm rướm ngài ngại “đây là mấy chai thuốc ho, thuốc cảm, thuốc đau nhức, ba mẹ em gởi cho bác dưới nhà, mong anh nhận để ổng bả cũng như Quyên được vui”, Chuẩn chưa cầm lấy, ngẩn ngơ, chưa kịp nói gì thì Trang đã nhanh miệng “xin lỗi anh, Trang đã không giữ kín được như đã hứa, Thục Quyên biết hết rồi”, cả hai với ánh mắt như van nài, lặng thinh chờ. Đưa tay nhận gói quà, Chuẩn ngẹn lời, ứa nước mắt, ôm cứng gói
quà trong tay, rưng rưng hai tiếng cám ơn, hai cô đứng trước cổng nhà nhìn theo, Chuẩn bỏ đi, xuôi hướng ngã ba trường, không quay lại, thầm khóc trên đường về nhà trọ.
Đầu năm học, Chuẩn không trở lên học Đệ Nhất mà xuống trường Quốc Gia Sư Phạm Sài Gòn, đám bạn chơi chung, biết Thục Quyên cũng như Trang thân với Chuẩn nhất, ai nấy chưng hửng, thắc mắc bàn tán, nhưng cả hai cô cũng không biết gì hơn. Có lần Thục Quyên bàn chuyện đón xe đi Phước Trạch với Trang nhưng sau đó lại không dám, buồn trông buồn ngóng. Mẹ Chuẩn yếu đi nhiều, năm năm nữa, để tốt nghiệp đại học, dài quá, không biết chuyện gì sẽ xảy ra, anh quyết định chọn con đường ngắn hơn rồi sau đó sẽ tính. Cũng nhờ người quen trong ấp Xóm Chùa gởi gấm, Chuẩn có được chỗ ở trọ bên cầu Chữ Y, nhà của một ông bác theo đạo Cao Đài, quê Gò Dầu, có phần hùn nhỏ với tiệm cơm chay, gần ga xe lửa, bên kia góc Hàm Nghi. Chuẩn phụ làm công ở đó mỗi buổi chiều tan học, nên mẹ con không phải lo lắng lắm về chuyện tiền bạc. Sáng Thứ Bảy, chỗ ăn chỗ ở, đâu đó xong xuôi, vào học được vài tuần, Chuẩn đón chuyến xe đò sớm nhất về Tây Ninh, tuy vậy vì cứ phải ngừng nhiều chỗ, nhường đường ưu tiên cho mấy đoàn quân xa chở đầy ắp lính của sư đoàn 25 bụi đường súng trận, lên xuống cho nên chuyến xe Tân Nguyên Thành vào phố cũng đã giữa trưa, xuống xe góc chợ Cũ, Chuẩn thả bộ tới nhà Trang, rồi rũ cô nàng cùng đến tìmThục Quyên, vừa tới cổng, không chờ vào nhà, Trang đã gọi vọng vào trong “Quyên ơi, ra đây mau, ai đây nè”. Thục Quyên chạy vụt ra, đứng khựng lại, nhìn nhau, rồi quay đi vì không cầm được nước mắt. Hai bác tư Đặng ngó ra, cũng thấy thương. Ba người lại kéo nhau ra quán nước quen cũ, không nói được gì nhiều vì có quá nhiều chuyện muốn nói, cuối cùng, Chuẩn nói ra một phần lý do, vì sao anh vào Sư phạm, giữ lại chút sự thật còn lại mà chỉ có riêng mình anh hiểu, rồi cả ba bùi ngùi, luyến tiếc giã từ, hẹn ngày gặp lại nhau, không chắc là chừng nào, nhưng Chuẩn vẫn chưa bộc lộ mối tình thương thầm với Thục Quyên dù đã có nhiều lần định nói. Từ hôm đó, Chuẩn không còn trở lại Tây Ninh, không có anh phố cũng vẫn như xưa.
Thục Quyên đậu Tú Tài Hai, cùng với Trang vào trường Dược. Tuy ở Sài Gòn, có mừng có vui nhưng họ chỉ gặp lại đôi ba lần vì Chuẩn còn phải đi làm kiếm tiền, không những nuôi thân mình mà còn dành dụm lo thuốc men cho mẹ nữa. Thứ Bảy Chủ Nhật nào cũng về lại Phước Trạch, lẩn quẩn bên bà, ráng được ngày nào hay ngày đó, với Chuẩn, Sài Gòn không có “tìm nhau chiều hẹn hò” hay “con đường tình ta đi”, như muôn người tình nhân khác, chỉ có khắc khoải, thở dài gắng gượng. Sau Tết, không bao lâu, nửa năm thứ hai Sư Phạm, mẹ Chuẩn mất, ban Phật sự chùa ấp xóm Chùa, giúp anh đem bà về chôn cất ngoài Hàm Tân, ngay cái nghĩa địa nhỏ, cách ngã ba Định Quán, không mấy xa đường, như lời bà dặn trong những ngày cuối đời. Ở đó bà còn có gia đình vợ chồng người em bạn dì, mà Chuẩn gặp một hai lần, khi còn nhỏ, từ ngoài đó vào thăm bà, căn nhà tranh ở ấp nhà, vẫn để vậy. Chuẩn hy vọng tốt nghiệp sẽ được chọn về dạy đâu đó ở Bình Tuy, ít nhất cũng được gần gũi đi về với mộ bà an yên nghỉ.
Giữa tháng tư, chiến cuộc căng thẳng, miền Nam tan tác, loạn lạc khắp nơi, đất đai mất dần dần từ Bến Hải vào, quân cộng sản lần lượt chiếm vùng 1, vùng 2, miền Trung rồi cao nguyên không cần một trận đánh, đang ngấp nghé tiến sát Sài Gòn, hôm 27 tháng Tư, dân chúng gồng gánh chạy nạn vào nam, ngày càng hàng hàng lớp lớp. Chuẩn chen lấn, hối hả đón xe ngược ra Hàm Tân, ở lại nhà bà dì, ra vào thăm mộ mẹ, rồi kẹt lại đó luôn, khi quân cộng sản tung quân cắt ngang quốc lộ một, vây hảm Bình Tuy, Long Khánh. Sáng 30 tháng Tư, trời mưa dầm tầm tả, miền Nam đành bó tay thua cuộc sau những năm dài chống đỡ, gìn giữ đất nước, vợ chồng bà dì thúc hối, chuyện mồ mả ở nhà có họ lo cho, Chuẩn và hai người anh bà con, là sĩ quan Địa phương quân ở Bình Tuy, khăn gói nhập theo đoàn người ùn ùn di tản từ trên quốc lộ 1 xuống, ra bến tàu Hàm Tân, lên chiếc tàu đánh cá nhỏ của một gia đình người bạn quen của hai ông anh bạn dì, cũng lính chung đơn vị, ra khơi, cùng với cả trăm chiếc khác, mù mờ hớt hãi giữa trời và nước.
*
Trời lâm râm mưa, nhè nhẹ như bụi phấn, gió từ hướng biển thổi vào lành lạnh, bây giờ cuối xuân, giữa trưa vẫn chưa có nắng, nghĩa trang Williamstown, cái nghĩa trang nhỏ, nằm gọn ở một góc cuối đường phố Newport, chiều Chủ Nhật thưa thớt người thăm, hai nấm mộ, xây đơn giản, thấp, bằng đá bông, cũng màu trắng lam như màu căn nhà hai mẹ con bác tư gái đang ở, Chuẩn đứng cúi đầu xá chào bác tư trai, xin phép, rồi cắm thêm vài cụm hoa, mua từ một căn tiệm nhỏ, phía bên kia đường, trong hai cái bình sứ xanh màu lục đậm, mấy nhánh cũ vẫn còn tươi, mắt đỏ hoe, cay xé. Chuẩn ngồi gục trước mộ Thục Quyên, ngẩn ngơ, đau đớn đưa tay, nhẹ sờ chầm chậm, hàng chữ khắc chạm màu đen tuyền “Phạm Thị Thục Quyên” trên đá, bật khóc, nức nở khóc, nước mắt đong đưa, rớt từng giọt nhỏ, trên trang bìa cuốn lưu bút cuối năm đệ tứ, bạc màu và không còn thẳng nếp giấy, cái kỷ vật đời mà Chuẩn đã mang theo mình từ những năm tháng đó, đặt dưới bệ gạch. Tấm hình trên bia đá không khác tấm hình trong đó bao nhiêu, cũng nụ cười, nụ cười tươi trọn vẹn. Chuẩn ngồi yên một lúc, gió biển chợt kéo về ngang, trời vừa hé đôi chút nắng chiều mảnh khảnh, đám chim Hải âu quanh quẩn đâu đây, lạnh lùng kéo nhau bỏ bay ra khơi, xa mù mờ rồi mất hút, lác đác người vào thăm, lặng lẽ đi ngang, không cười không nói.
Chuẩn mở trang giấy có những giòng của Thục Quyên viết, đặt ngay ngắn trên mộ, nghẹn ngào đọc lại hàng chữ “chắc mình sẽ nhớ nhau hoài”, rồi thì thầm “tôi đã yêu Thục Quyên từ bao lâu nay nhưng không dám nói ra, vì phận con nhà nghèo trời đặt cho, tôi cứ dặn lòng chờ nhưng giờ thì không còn phải chờ thêm nữa, nếu hiểu được lòng nhau, xin cho tôi gởi theo em, phương đó những gì của ngày tháng cũ mà tôi mang theo bên mình, tạm biệt ”. Chuẩn xếp cuốn lưu bút, thẩn thờ đứng dậy, cúi xuống, hôn nhẹ lên mặt Thục Quyên trên bia đá, cái hôn đầu đời pha chút nước mắt mằn mặn, ở một phía xa, tiếng còi của chuyến xe lửa về Melbourne sắp rời sân ga Williamstown thôi thúc, rã rời và mệt mỏi.
Thuyên Huy
Melbourne một ngày đầu mùa thu năm 2016
Chỉ Còn Lại Chút Này Dưới Mộ Người
Chuyện viết bằng tưởng tượng từ hình ảnh có thật, của một người đàn ông Việt lủi thủi lái chiếc xe cắt cỏ trên công viên Aberfeldie một sáng nắng cuối mùa hạ
Cuối hạ, trời chưa chịu bớt nắng, mới lưng lửng sáng mà đã hâm hấp nóng, ở phía trên đồi cuối đường Brunel nhìn xuống, thứ sáu không phải là ngày nghỉ mà người chạy, người đi bộ, lên xuống The Boulevard, con đường dọc theo bờ sông Maribyrnong đông nghẹt, cũng đi về hướng sông, thấm mệt sau hơn một vòng chạy từ sớm, Triều chầm chậm thả bộ ngang qua công viên Aberfeldie, trở lại chỗ đậu xe, ba bốn anh nhân viên lo việc cắt cỏ tỉa cây của thành phố Moonee Valley, tụ năm tụ ba xí xô xí xào, ngồi bệt nghỉ dưới hàng thông cao, bên này dãy hàng rào cây, ngăn quanh chỗ bãi đậu xe công cộng, giữa công viên cũng còn lác đác vài người đẩy máy cắt cỏ tới lui quanh mấy khoảng đất loang lở, từ ngoài đó, có người lái cái xe cắt giống như chiếc máy cày nhỏ, vẫy tay gọi, làm dấu bảo chờ lúc Triều vừa đến xe mình, Triều ngờ ngợ đứng lại.
Bỏ xe, cùng một lúc vừa gở cặp chụp ngăn tiếng động trên tai xuống vừa lấy cái kiếng an toàn che mắt ra, anh nhoẻn miệng cười chào, Triều cũng buột miệng “khỏe hả anh Đức”, với anh, thật ra quen không gọi là quen mà lạ thì cũng không gọi là lạ,
17
Rồi Cũng Lãng Quên – Thuyên Huy
18 không biết công việc xoay tua cắt cỏ công viên này, bao nhiêu ngày trong tuần nhưng thứ sáu nào cũng vậy, ngày nghỉ hàng tuần của mình, lái xe đến đây, bỏ xe chạy một vòng, đều gặp anh đang chuẩn bị xe cộ dụng cụ cho công việc, chào nhau , hỏi hai ba câu khỏe không rồi thôi, chưa ai biết gì nhau nhiều ngoại trừ cái tên. Sẳn dịp làm quen, nghe nói công việc hôm nay xong sớm, anh và mấy người bạn làm chung chuẩn bị nghỉ, sau khi chờ anh nhờ họ thu xếp mang xe và đồ đạc về chỗ nhà kho trước, Triều mời anh tới quán ăn có tên “Boat House”, cái nhà sàn gỗ nằm ở mé sông, chỗ đầu ngã tư đường The Boulevard và Waverley, cách công viên không mấy xa, uống cà phê tán dốc cho vui, ở bàn ngoài cùng, bên này bờ người thưa dần, nắng nóng thêm, trời đứng gió, nước lớn, sông lặng lờ xuôi dòng, cả hai cùng nhìn ra xa xa, hai ly cà phê muộn nằm yên trên bàn, chưa ai đụng tới.
* Anh Đức người Sài Gòn, nhà ở đường Hồng Thập Tự, không xa góc ngã ba Cao Thắng bao nhiêu, gia đình có một cửa hàng bán vải và kim chỉ lớn ngoài chợ Bến Thành, nhà có hai anh em, một trai một gái. Thay vì tiếp tục lên đại học, đậu tú tài hai anh Đức vào Võ Bị Đà Lạt, ra trường chọn binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, được vài tháng ngoài quân khu hai, về Sài Gòn lấy vợ. Vợ anh, chị Thảo, sinh viên luật, nhà ở đường Lý Thái Tổ gần ngã bảy, con một, ba chị trước làm nhân viên sở hỏa xa nay đã về hưu, nhưng
Rồi Cũng Lãng Quên– Thuyên Huy
mất hồi năm đầu trường Luật vì bạo bệnh, còn lại hai mẹ con, có quầy bán đủ thứ bánh ngọt tại ngã sáu La Cai Nguyễn Tri Phương, hai người quen nhau từ năm đệ nhất, năm chị Thảo học Phan Sào Nam, đám cưới rình rang, bạn bè bên nào cũng đông, lính cùng đơn vị có năm sáu anh, người một, người hai hoa mai vàng trên vai áo. Hết phép, anh trở ra đơn vị, tiểu đoàn 1 Quái Điểu, chị thôi học, dọn về một căn phố nhỏ ở riêng mà ba mẹ anh Đức mua cho làm của hồi môn trên đường Trần Quý Cáp, không phải làm dâu, ban ngày chạy ra chạy vô phụ tiệm vải vài tiếng, chiều về rảnh rổi qua ngồi canh chừng quầy bánh ngọt với mẹ cho vui.
Cuối tháng 10 năm 1972 chị Thảo sinh thằng con trai bụ bẩm, gởi thơ báo tin, anh nhắn về đặt cho nó tên Phúc, nội ngoại, bên nào cũng đòi cháu này cháu nọ, trở ra tuyến đầu vùng một, hành quân quần thảo với quân Bắc việt ngày này qua ngày kia, mấy tháng sau anh lên lon Trung úy, chiến trận ngày càng khốc liệt thêm, được tin nhưng anh không về được, nằm dưới chiến hào nghĩ tới con nhiều khi buồn muốn khóc. Một sáng sương mù, “đầu tháng 11 năm 1972, mùa hè đò lửa, tiểu đoàn 1 Quái Điểu được trực thăng vận bốc từ nhà thờ hai chuông Điền Môn bay ra, bất thần đổ quân xuống tái chiếm quận Triệu Phong, súng phòng không 23 và 37 của quân Bắc Việt bắn lên như pháo bông mặc dù trước đó mấy ngày,
19
Rồi Cũng Lãng Quên – Thuyên Huy
20 phi cơ B52 đã dội bom cày nát. Ngay sau khi hoàn tất cuộc đổ quân, tiểu đoàn anh Đức đã thiệt hại hơn cả trăm lính, vừa chết vừa bị thương, cánh đồng quận lỵ Triệu Phong từ đó trở thành một bãi chiến trường tàn khốc, số quân còn lại chiến đấu một mất một còn với xe tăng phối hợp cùng bộ đội của quân Bắc Việt, tiểu đoàn 1 Quái Điểu lúc này gần như tan rã, tổ này một hai người, tổ kia ba bốn dựa nhau, mạnh ai nấy đánh, cố bám bờ sông Vĩnh Định làm điểm tựa để giữ mạng sống” *, không may anh Đức bị thương nặng và bị quân xe tăng Bắc Việt bắt, giao lại cho quân chính quy giải về thành phố Vinh cùng nhiều quân nhân VNCH khác, anh Đức bặt tin từ đó, bên sư đoàn TQLC vẫn không có tin gì thêm, chỉ báo cho gia đình là anh mất tích trong chiến trận. Gia đình hai bên buồn nhiều lắm nhưng không biết làm gì hơn, chị Thảo khóc hoài, ôm con mà mắt cay xé, thờ thẩn cả mấy tháng trời, chị Thảo ẳm con về với ông bà nội, đóng cửa căn nhà ở Trần Quý Cáp. Rồi ngày tháng đi qua, cứ chờ cứ đợi mà không thấy gì hơn, nổi đau cũng từ từ nguôi ngoai, không ai nhắc chuyện này và cũng không ai nghĩ anh Đức còn sống, nhất là sau ngày ký hiệp định Ba Lê, trông ngóng tin tức trao trả tù binh hai bên Nam Bắc, có nhiều người được trở về nhưng anh Đức vẫn thăm thẳm mù khơi, biệt vô âm tín.
Ba mươi tháng tư, Sài Gòn bó tay thua cuộc, miền Nam mất, sau đó không lâu, anh Đức và một số sĩ quan VNCH bắt trước đó bị đưa vào trại tù cải tạo
Rồi Cũng Lãng Quên– Thuyên Huy
trên miệt Lào Kai Yên Bái, nhập chung với những quân nhân và viên chức VNCH còn ở lại, từ miền Nam giải ra Bắc. Không lâu sau, tình cờ gặp lại, ở chung trại với ba bốn người cùng binh chủng TQLC, lợi dụng tình trạng dời trại sâu về phía nam, vì có tin là Trung cộng sẽ tấn công, anh Đức cùng chừng chục người trốn thoát trên đường di chuyển, trà trộn vào làng dân miền núi, trời còn thương, lần mò theo đường mòn dọc Trường Sơn, băng rừng lội suối, tới tam biên, vào Lộc Ninh, rồi quá giang xe chở gỗ, xe hàng, chặng này chặng kia, sau hơn hai tháng trời anh về lại Sài Gòn, gầy đéc, đen thui và xơ xác, khó mà nhận ra là ai.
Cả ba căn nhà bên chị Thảo cũng như bên nhà anh đều bị tịch thu, một cái làm trụ sở “đoàn thanh niên cộng sản HCM”, cái làm văn phòng “công an phường”, căn bên Trần Quý Cáp làm “cửa hàng kinh tiêu”, hỏi người quen, gia đình anh Đức bị đưa lên vùng kinh tế mới trên miệt biên giới Miên Việt sau đợt “đánh tư sản mại bản” theo lệnh Đảng, bên nhà chị Thảo nghe nói đã vượt biên, trước ngày công an cùng một đám nón tai bèo, quần áo màu cứt ngựa tràn vào chiếm nhà, theo gia đình ông bà Giang, chủ hảng giày Bata gần nhà trên chuyến tàu “đăng ký bán chính thức”, chiếc tàu này, chở hơn mấy trăm người, phần lớn là người Hoa, là chuyến vượt biển đầu tiên vào thẳng đất Nam Dương. Gia đình anh Đức không may, chưa kịp tính toán gì thì công an đã tới nhà trước, hôm lên xe theo đoàn người rời Sài Gòn, hai
21
Rồi Cũng Lãng Quên – Thuyên Huy
22 bên gia đình người tiễn người đưa, khóc sướt mướt, thằng Phúc đã hơn ba tuổi, biết kêu nội kêu ngoại, nhìn người này người kia ngơ ngơ ngác ngác, xe chạy đi rồi, tiếng ông bà gọi lại “Phúc hởi Phúc ơi” nghe buồn não ruột. Cùng hoàn cảnh với hàng ngàn người Sài Gòn khác bị đuổi lên vùng kinh tế mới Bù Gia Mập, ở bờ ở bụi, chống chọi muỗi mòng, rắn rít, gió chướng mưa rừng được vài tháng, mang theo vài ba bộ quần áo cũ và mấy thứ lặt vặt, theo đám người vượt biên, đường bộ băng qua đất Miên, nhóm mười mấy hai chục người đã bị quân Khờ - Me đỏ cướp rồi giết chết gần hết, khi trốn ở khu đồn điền cao su Chup chờ người mối lái đưa vào Nam Vang.
Lang thang, lề đường góc chợ, sống lây lất, theo đám người bỏ vùng kinh tế mới về ở lậu, làm thuê vác mướn ở bến xe bến đò, ngày qua ngày, đi tới đi lui ba căn nhà cũ, hy vọng có ai đó biết tin thêm về gia đình, nhưng vẫn bặt tin bặt tức, hôm theo cái xe ba gát chở đồ ra xa cảng Phú Lâm, ngồi chờ chất đồ xuống cho chủ mướn, tình cờ anh Đức quen một người lính cụt mất một tay, tên Chung, cùng binh chủng TQLC nhưng khác tiểu đoàn, bán vé số dạo, anh Đức theo anh này về ở tại căn nhà sàn nhỏ bên bến Xóm Voi, Bình Đông mà người bà con xa, bỏ hồi hương đâu đó dưới Bến Tranh Chợ Gạo để lại.
Một ngày mưa dầm vài tháng sau, không biết làm cách nào, Chung mang về hai bộ đồ xanh, đồng phục “thanh niên xung phong” và hai tờ giấy xác nhận là
Rồi Cũng Lãng Quên– Thuyên Huy
đoàn viên của lực lượng này, làm việc ở nông trường quốc doanh trồng khóm Bình Sơn, Rạch Giá, mang theo chút ít đồ dùng cá nhân, một mớ tiền dành dụm bấy lâu nay, hai người hối hả xuống xa cảng Phú Lâm đi Rạch Giá, ngay chiều hôm đó, mấy ngày sau, buổi chiều, theo chuyến tàu lớn chở đầy khóm và thơm lên Sài Gòn, cùng với hai ba chục người thanh niên xung phong, thiệt có giả có, tách ngang rẽ nhánh Hậu Giang ra cửa Bình Đại thay vì về hướng Sài Gòn như tờ giấy phép có đóng mộc đỏ mới tinh, tàu may mắn qua mặt đám công an, thoát khỏi, vào được đảo Kijang của Nam Dương sau bốn năm đêm ngày trên biển cả mênh mông, sóng to gió lớn.
* Triều quen biết chị Thảo khi theo lời mời của chồng chị, anh Hiển, một luật sư khá thành công trong vùng phía đông thành phố Melbourne, về nhà anh chị ở vùng Kew cho biết, sau hôm đến làm thông dịch cho phiên tòa xử vợ chồng người Việt trong vụ đụng xe, cải nhau và có xô xát gây thương tích với hai anh thanh niên Úc, vì tòa buộc phải có thông dịch viên hữu thệ mặc dù luật sư bên bị cáo là người Việt, vài lần sau hôm đó, Triều đi ăn trưa chung với anh, nói chuyện ngày xưa bây giờ, không đầu không đuôi, khi gặp lại nhau ở tòa án sơ thẩm hay bên bộ di trú, rồi đôi khi, cuối tuần thứ bảy, chủ nhật cũng có ghé qua ăn cơm chiều như anh chị mời, cứ vậy mà riết rồi thành thân hồi nào không biết, và cũng vì một thân
23
Rồi Cũng Lãng Quên – Thuyên Huy
24 một mình nên vợ chồng anh Hiển xem Triều như em út, đi chơi đâu xa, lên núi ra biển, ít khi nào Triều vắng mặt.
Anh chị có đứa con trai còn học mẫu giáo, thằng bé Phúc, nhanh nhẹn, lễ phép, bảnh trai, nhưng nhìn qua không giống anh Hiển cho lắm, thấy vậy thôi chứ Triều cũng chẳng thắc mắc, để ý làm gì, thằng Phúc nói tiếng Việt rất rành, dạ thưa luôn miệng, lúc nào cũng một chú Triều hai chú Triều, thấy mà thương, chị Thảo làm ở trụ sở hội đồng thành phố gần nhà, lo việc giúp đở người già cả, trường thằng bé Phúc học cũng không xa nên chuyện đưa đi đón về chẳng phải lo. Trưa hôm sinh nhật thằng bé, chủ nhật, không có ai, chỉ có bảy tám đứa học cùng lớp gì đó, bọn nó cũng chẳng cần người lớn, hai ba thân chủ quen, có tiệm quán, ghé ngang gởi lại chút quà, nói đôi ba câu chúc mừng rồi quày quả đi ngay lo buôn lo bán tiếp, tụi nhỏ xúm quanh cái bàn ăn lớn giữa nhà, hát vang bài ca mừng sinh nhật, cắt bánh, thổi đèn cầy, rồi tụm nhau xé giấy mở quà, cười nói tía lia, ba người lớn ngồi xa, ở một góc phòng nhìn, ai cũng vui ra mặt, bọn nhỏ vừa nhập cuộc chơi thì anh Hiển phải đi vì có điện thoại gọi, ai đó cần có mặt anh, luật sư tại trạm cảnh sát Box Hill, anh Hiển kéo thằng Phúc nói gì đó, hôn lên đầu nó mấy cái, thằng nhỏ gật đầu, quay lại Triều, bảo ở lại chơi với tụi nhỏ nhưng nếu muốn chừng nào về thì cứ về, không biết khi nào anh mới xong việc, anh đi rồi, chị Thảo nhìn theo, nói với Triều
Rồi Cũng Lãng Quên– Thuyên Huy
chuyện này xãy ra thường lắm. Còn lại hai chị em, ngồi cùng một phía trong phòng khách nhìn ra, bên ngoài nắng rưng rức nhưng dìu dịu, gió mát, đám nhỏ đã chạy ra sân sau, qua khung cửa sổ rộng, vô tình liếc ngang, Triều cảm thấy hình như có cái gì buồn buồn sao đó trong mắt chị dù chị đang cười và vẫn cái cười từ những ngày mới quen, chị buột miệng “đời nhiều khi có những chuyện không ngờ được”, lần đầu Triều nghe chị kể chuyện mình.
Chừng một tuần lễ, sau ngày nhóm của chị Thảo, 30 người, lớn nhỏ, từ bên Nam Dương qua, được đưa đến ở tại trung tâm tạm cư Midway Hostel, tại đây đã có hơn trăm người, từ những đợt qua trước đó, cuối tháng ba, buổi sáng chủ nhật, chưa hẳn vào thu mà trời đã lạnh dù có nắng, hai mẹ con dắt thằng bé Phúc cùng mấy người cùng nhóm, đi đến phòng sinh hoạt của trung tâm để chờ chọn áo quần và nhận các thứ cần dùng do mấy Dì Phước của nhóm cứu trợ từ nhà thờ Our Lady mang tới, như lời chị nhân viên văn phòng quản lý trung tâm dặn chiều hôm trước. Chị không ngờ gặp lại anh Hiển hôm đó, anh đi theo giúp việc phân phát một tay và cộng thêm việc làm thông dịch viên, hai người tròn mắt nhìn, chưng hửng, mẹ chị Thảo cũng vậy, bà đứng hỏi han anh Hiển một hơi, mấy dì Phước tuy lăng xăng chỉ tới chỉ lui, thứ này thứ kia nhưng cũng trố mắt nhìn thắc mắc.
Chị Thảo và anh Hiển học cùng đệ nhất ở Phan Sào Nam, đậu tú tài 2 cả hai vào trường Luật, anh thương
25
Rồi Cũng Lãng Quên – Thuyên Huy
26 thầm chị từ năm đệ nhị nhưng mang chút mặc cảm con nhà nghèo nên chưa dám nói ra dù hai người đã có không biết bao nhiêu lần “tan trường chung lối”, chị thì cũng vô tình, chuyện trò vu vơ như bạn quen vậy thôi, nhà anh, một căn nhà cây trệt cũ trong cái hẻm nhỏ, quanh co, sau lưng trường Phan Sào Nam, gia đình chỉ có hai mẹ con, cha mất sớm, mẹ anh có gánh xôi, bán dạo, quanh khu Phan Thanh Giản, Nguyễn Thiện Thuật, Hồng Thập Tự, Lý Thái Tổ, Petrus – Ký. Chưa kịp nói ra, tin chị bỏ học lấy chồng, anh Hiển buồn suốt cả tháng trời, khóc thì không khóc nhưng lòng cứ quặn đau, đi về một mình, con đường Duy Tân giờ không còn “cây dài bóng mát”, ngày đám cưới của chị anh rời nhà đến trường Luật thật sớm, ngồi lặng thinh ngay chỗ hai người thường ngồi, giữa giảng đường vắng tanh, cắn môi, bật khóc.
Anh Hiển xong năm cuối luật, chờ tìm người giúp cho một chỗ thực tập thì miền Nam mất, từ ngày chị Thảo lấy chồng, hết rồi, anh cố quên rồi cũng tạm quên dần, dù có đôi lần nghe tim mình tan vỡ, khi biết tin gia đình chị Thảo đã vượt biên sau đợt đánh “tư sản mại bản”, lùa dân Sài Gòn đi vùng kinh tế mới. Qua Tết năm đó, may có một người cháu gái của mẹ anh Hiển, từ đâu đó dưới Cà Mau lên Sài Gòn ở chung, đi làm cho phường khóm gì đó, chị này không biết thân thế ra sao mà lo được có tên đàng hoàng trong tờ “hộ khẩu” của nhà mình, anh yên tâm và có sự đồng ý ngầm của mẹ, anh Hiển cùng anh bạn thân
Rồi Cũng Lãng Quên– Thuyên Huy
cùng xóm, nhà cũng nghèo, có người quen làm công cho ghe cào tôm ở Gò Công xuống dưới đó, rồi theo họ, ẩn trốn mấy ngày, trong một chuyến đi cào sáng sương mờ mù mịt, gió và mưa chập chùng, họ ra khơi. Anh Hiển qua Úc, cố gắng vừa làm ca đêm ở hảng xe Toyota vừa học Luật lại, sau hai ba đợt người tỵ nạn mình qua, anh tình nguyện vào hội nhà thờ, theo giúp các Dì Phước đi hết mấy chỗ có người Việt tỵ nạn ở, từ Eastbridge xuống Wiltona rồi Midway này, hôm gặp lại chị Thảo là những tháng cuối của việc hoàn tất thủ tục, chính thức trở thành luật sư.
Từ ngày đó anh Hiển tới lui thăm hỏi, đưa hai mẹ con và thằng bé, đi ra phố, đi chỗ này chỗ kia, mua cái này cái nọ, lo cho thằng bé từng chút, không đợi anh hỏi gì về nó, chị Thảo đã nói cho anh nghe một phần đời của chị, thằng bé là con của anh Đức, chuyện những ngày làm vợ và chuyện anh Đức bặt tin mấy năm trời, sau trận tiểu đoàn anh đổ quân tái chiếm quận lỵ Triệu Phong năm 1972. Rồi cũng giống như gần hết người ở trong Midway Hostel, hơn nữa năm sau, chị Thảo dọn ra ở nhà ngoài, căn nhà cây nhỏ nhắn, trên một con đường cụt vắng người gần nhà thờ Our Lady, nhờ một dì Phước già làm giấy tờ đở đầu, hội nhà thờ cũng lo xe chở tới cho đủ thứ, từ cái bàn cái ghế, tủ lạnh cho tới cái chén cái nĩa, không mới lắm nhưng quý còn hơn vàng, không lâu sau ngày anh Hiển mở văn phòng, một chiều nắng muộn đầu hạ, tại bữa cơm ở nhà chị Thảo, ba người lớn nói với
27
Rồi Cũng Lãng Quên – Thuyên Huy
28 nhau nhiều lắm, thằng bé nhìn hết người này tới người kia, cầm con gấu nhồi bông đến bên từng người một, ngây thơ cười híp mắt, ra về trời vẫn còn sáng trưng, ngoài đường đèn chưa lên, chị Thảo bồng con cùng bác gái theo ra cổng, không nghe bác gái nói gì, vừa mở cửa xe vừa quay lại, anh Hiển cúi đầu cười, trong lòng như mở hội nhìn cả hai “dạ con biết rồi”. Cuối hạ hai người lấy nhau, đám cưới đơn sơ, không áo cưới cô dâu, không pháo hồng hoa đỏ, vài chục người quen, trong đó hơn phân nửa là mấy dì Phước và ông cha xứ O’Brien tại cái phòng sinh hoạt của nhà thờ Our Lady.
* Trời đầu thu, lá khô rụng đầy hai bên bờ con sông một màu vàng nâu úa, đã ba bốn thứ Sáu, không thấy anh Đức ở công viên Aberfeldie, sáng nay cũng sáng thứ sáu, con đường cũ vắng người, trở lại chỗ đậu xe, mấy người làm chung với anh cũng ngồi tụm nhau nghỉ dưới gốc hàng cây thông chưa thay lá, như mấy lần trước, có chút tò mò, Triều ghé vào hỏi, họ cho biết anh Đức bệnh nặng, vào bệnh viện Royal Hospital cả hai tuần nay, không biết ở trong đó bao lâu, bỏ lại xe, Triều ngồi thừ người trên lề đường nhìn xuống con sông, bổng dưng thấy lòng buồn buồn. Sáng chủ nhật vào bệnh viện tìm thăm anh, được biết anh bị ung thư phổi khá nặng, chắc chỉ cầm cự khoảng không hơn một năm, mọi việc săn sóc nhờ vào tay mấy chị y tá ở đây, vì anh không có thân
Rồi Cũng Lãng Quên– Thuyên Huy
nhân, hỏi chuyện nhau, nằm trên giường bệnh, anh tươi tắn, vui vẻ, không có gì buồn bã, cứ hết chuyện này tới chuyện kia, ngồi bên anh, Triều muốn kể cho anh nghe chuyện chị Thảo mà Triều cho là có phần đúng như mình nghĩ, anh Đức trong câu chuyện chính là anh, người đang nằm chờ một ngày cuối tới, bỏ đời ra đi này, nhưng lại chần chừ rồi thôi, ra về, xuống lầu lâu rồi mà Triều cứ đứng dưới đường nhìn lên, tấm màn che nắng ở cửa sổ phòng anh nằm, lầu năm đã kéo ngang che kín tự nãy giờ, mắt đỏ hoe cay xé. Những ngày sau đó, chủ nhật nào cũng vậy, mỗi lần vào bệnh viện thăm anh Đức là mỗi lần thấy anh gầy yếu, héo hắt hơn, chưa phải mang ống thở dưỡng khí nhưng trông anh mệt mỏi, nói không nhiều như trước dù vẫn cố gượng cười, nụ cười không hồn, một lần nữa bác sĩ lắc đầu, chắc không còn bao lâu, họ đã làm hết sức rồi, Triều cũng nghĩ vậy.
Sáng thứ bảy, trời có nắng cuối thu nhưng mờ mờ đâu đó chút sương đêm mù mờ vẫn còn nấn ná chưa tan, từ nhà lên nhà chị Thảo khá xa, đi về chắc cũng mất hơn một tiếng rưỡi, lại chở theo thằng bé Phúc, bảo đưa nó về dưới này chơi lòng vòng, rồi chiều chở về, chuyện chở thằng bé đi chơi là chuyện hà rầm, anh chị chưa hỏi đi đâu, khi nào về bao giờ, vã lại thằng nhỏ cũng khoái theo chú Triều, nên đến bệnh viện hơi trễ. Ra thang máy, hai chú cháu đi nhanh tới chỗ anh Đức, trong phòng hai chị y tá vừa bước ra, nét mặt buồn buồn chào, rồi đứng bên ngoài hành
29
Rồi Cũng Lãng Quên – Thuyên Huy
lang, trước cửa phòng chờ gì đó, có thêm cái xe đẩy bệnh nhân để sát bên giường bệnh, anh Đức nằm im, chào không ngẫng đầu lên như mấy lần trước, cùng lúc người bác sĩ điều trị anh cũng vừa bước vào, ông nhìn qua một lượt, gật đầu với Triều rồi bỏ đi, còn lại trong phòng, Triều bồng thằng nhỏ lên, đặt nó ngồi trên giường, mắt anh Đức lừ đừ, hơi thở yếu ra, cố nhìn nó, Triều cúi người xuống nói bên tai anh “anh Đức ơi, xin lỗi là đã giữ kín không nói ra từ lâu, thằng bé là con của anh đó, thằng Phúc, cái tên mà anh đã dặn chị Thảo đặt, trong lá thư gởi từ chiến trường Triệu Phong về năm 1972, thằng con mà anh chưa có lần nhìn được mặt”, nghe tới chừng đó, mắt anh sáng lên, cố sức như muốn ngồi dậy, Triều phụ đỡ anh lên, anh đưa hai cánh tay gầy guộc, nâu xạm như hai que cũi, ôm đầu thằng nhỏ sát vào đầu mình, Triều lấy cái máy chụp hình mang theo, chụp thật nhanh, thằng nhỏ ngây thơ chẳng biết ất giáp gì, nhìn Triều cười ngờ ngợ, anh Đức vẫn ôm đầu nó, thều thào “con của ba, Phúc con của ba”, chưa dứt câu, hai cánh tay rời ra, buông dần xuống giường bệnh, đầu anh gục qua một bên, mắt nhắm từ lâu, Triều bồng thằng nhỏ trên tay, gọi ra ngoài, hai cô y tá bước vào trước, không nói gì, lẳng lặng lo sắp xếp máy móc, người bác sĩ theo sau, ông nhìn Triều lắc đầu “anh ta đã đi rồi”, nước mắt tuôn dài trên mặt, Triều ôm chặt thằng Phúc trong tay, khóc thành tiếng, ngoài khung cửa, hai ba chiếc lá lẻ loi, khô gầy tả tơi vàng úa của những
30
Rồi Cũng Lãng Quên– Thuyên Huy
ngày cuối thu, tiếc nuối bám víu mấy nhánh cây già khẳng khiu còn sót lại từ những ngày qua, buông mình đong đưa tan tác rụng, lìa đời đi xa dù trời không gió.
* Hội đồng thành phố Moonee Valley đứng ra làm đám tang vì anh Đức không có thân nhân nào, dù sao anh cũng là nhân viên của họ, ngày đưa anh đi hỏa thiêu ở nghĩa trang Fawkner, ngoại trừ mấy người của công ty chôn cất và hai ba nhân viên của hội đồng thành phố, còn lại trơ vơ lẻ loi chiếc quan tài cây khiêm nhượng, một vòng hoa tươi trắng và Triều, anh đem tấm hình chụp hai cha con trong phòng bệnh hôm anh Đức mất, đặt chung với vòng hoa trên nắp quan tài, đứng nhìn nó chầm chậm được đưa vào lò thiêu, Triều thì thầm “em gởi theo tấm hình, để ở chốn đó, anh không còn cô đơn nữa”, cánh cửa lò thiêu sụp xuống, đóng lại, người phu trách công việc lặng lẽ tắt hàng nến điện quanh cái bệ đá hoa cương để quan tài rồi bỏ đi ra ngoài cửa, Triều òa lên khóc.
North Essendon cuối hạ 2016 *Mượn một số chi tiết trong bài viết “Cuộc đổ bộ trong lòng địch” của Nguyễn Đăng Hòa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét