Thứ Ba, 18 tháng 2, 2014

Mấy Đoạn Đường Đời (Ngọc Khuê) & Cảm tác của Vhp.Hải Vân

           MẤY ĐOẠN ĐƯỜNG ĐỜI _Ngọc Khuê
Bây giờ ở Mỹ đang mùa Xuân.  Đi đâu tôi cũng gặp hoa muôn màu muôn sắc rực rỡ, chim chóc hót líu lo, gió mát nhẹ nhàng thổi.  Nhìn cảnh vật mùa Xuân tươi vui ở đây, tôi ngậm ngùi nhớ lại những tháng ngày sau 30-4-1975, quanh năm đầu tắt mặt tối, có chút thì giờ nào để ngắm cảnh, xem hoa?  Trong tâm trạng buồn héo hắt, vào mùa Xuân năm 1980, tôi đã xúc cảm viết ra nỗi lòng tôi:
    Xuân ơi, Xuân hỡi biết chăng Xuân?
    Xuân đến, riêng ai pháo rộn ràng,
    Xuân có nghe chăng niềm thổn thức,
    Nỗi lòng ai đó lúc Xuân sang!
    Có những con người không biết Tết.
    Xuân sang, tưởng như lòng điếng chết.
    Cuối năm, nghĩ quẩn lại lo quanh.
    Nỗi đau chất ngất không kể hết!
Hôm nay tháng tư lại về.  Tôi thấy lòng mình chùng xuống khi nhớ lại những ngày sau 30-4-75.  Hồi đó, khi còn ở Việt Nam, tôi đã khóc biết bao mỗi khi tháng tư về.  Bây giờ hình như không còn nước mắt để khóc nữa, nhưng vết thương lòng qua bao nhiêu năm tháng vẫn chưa lành.
Tôi nhớ sư bà Huyền Không ở Phan Thiết đã từng nói với tôi:  "Bao nhiêu đau khổ vây quyện đời con, nhưng dù hòan cảnh nào, con vẫn là một người vợ hiền, một người mẹ tốt nghe con."  Đời tôi cũng nhờ niềm tin tôn giáo, nhờ Ơn Trên che chở mà tồn tại đến ngày hôm nay.  Thuở nhỏ tôi là con bé yếu đuối, đau ốm liên miên, mấy lần suýt chết đuối trên sông Hương, mấy ai ngờ có ngày oằn vai "gánh" cả một gia đình sáu người, rồi cuối cùng vượt đại dương đến Mỹ để sống những ngày cuối đời nơi đất khách quê người nhưng lại đậm tình đậm nghĩa.
1. Những ngày trước 30-4-1975
Lúc đó, gia đình chúng tôi ở Phan Thiết, trong khu trại gia binh.  Tình hình chiến tranh sôi sục, nhất là những ngày đầu tháng tư.  Mỗi ngày tôi hồi hộp theo dõi tin tức thời sự qua đài BBC, hãi hùng với tiếng súng ầm ầm từ những cuộc giao tranh, chán chường vì sự đào ngũ của ông Chỉ Huy Trưởng Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch, để lại cho ông xã tôi, Chỉ Huy Phó, một mình vừa cứu thương, vừa điều khiển Quân Y Viện.  Tôi hoang mang, lo sợ.  Để rảnh tay lo việc công, anh ấy cho năm mẹ con tôi di chuyển vào Sài Gòn trước ở tạm nhà người bà con. Tôi hồi hộp trông tin anh từng ngày, từng giờ mà không biết hỏi ai, chỉ biết cầu nguyện Phật Trời che chở. Tôi cứ băn khoăn lo lắng không biết rồi vợ chồng còn gặp nhau không.  Thôi thì phó mặt cho số phận đẩy đưa.
Ngang đây, tôi xin kể vài nét về ông xã tôi. Tính anh ấy lúc nào cũng hết lòng về công vụ.  Hồi mới ra trường, anh đổi ra làm việc ở Quảng Trị.  Gặp trận Hạ Lào, anh ấy mỗi ngày phải thường trực giải phẩu 24/24 để cứu thương bệnh binh.  Lúc đổi về Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch, Phan Thiết, anh vẫn tấm lòng tận tụy với nhiệm vụ.  Anh không mở phòng mạch tư kiếm thêm tiền, không lương lẹo ăn bớt thuốc men trong Quân Y Viện.  Do đó anh rất được quân nhân các cấp trong QYV thương yêu quý mến.
Sau khi tôi và các con đi rồi, biết tỉnh Bình Thuận sắp thất thủ, anh ấy lo di tản các thương binh còn nằm ở Quân Y Viện vào Vũng Tàu.  Vì mặt sau của Quân Y Viện là biển, và lúc bấy giờ các tàu Hải Quân VNCH còn khá nhiều, nên việc di tản được suôn sẻ.  Đến lúc tỉnh Bình Thuận bị lọt vào tay Cộng quân (19-4-75) thì ông xã tôi mới theo tàu Hải Quân vào Sài Gòn.
Chúng tôi gặp lại nhau.  Chỗ ở trọ không tiện chút nào.  Người bà con có nuôi hai con chó.  Đêm nào chúng cũng leo lên chỗ chúng tôi nằm (vì giành giường của tụi nó) gây tiếng động ầm ĩ, chẳng ai ngủ được.   Chúng tôi lại đi xin ở nhờ một người bà con khác.  Nhà này có ba tầng.  Lúc dọn đến chúng tôi được cho ở tầng ba, còn hai tầng kia Mỹ mướn.  Ngày hôm sau, chúng tôi được biết có một tàu Mỹ sắp đi Thái Lan.  Nếu chúng tôi lanh trí, ngõ lời xin "quá giang" thì chắc được chấp thuận rồi.  Một phần vì lòng yêu quê hương, không muốn rời bỏ quê cha đất tổ, một phần vì chưa sống với Việt Cộng và cũng chủ quan anh ấy thuộc ngành y đâu có tội lỗi gì nên ở lại.  Đời mấy ai học được chữ ngờ!  Cũng vì không biết chớp lấy thời cơ đó mà cuộc đời xô đẩy gia đình tôi vào hoàn cảnh oan nghiệt.
2. Thời làm vợ tù
    Đã lâu, khi sống trên đất Mỹ, hình ảnh "người tù" tạm chìm lắng trong lòng tôi.  Nhưng mới đây, nhân xem cuốn DVD "Chân Dung Người Lính VNCH", đến chỗ người chiến sĩ Quốc Gia thất thế, sa cơ, bị đưa vào trại tù trá hình là Trại Cải Tạo thì hình ảnh "người tù" trở lại đậm nét trước mắt tôi.  Nước mắt tôi tuôn rơi. Tôi sống lại với tâm tư người chiến sĩ trong những ngày chiến tranh khốc liệt nhất, khi mà Đồng Minh bỏ rơi quân đội ta.  Tôi đau lòng cùng với quân nhân các cấp đã chiến đấu trong tuyệt vọng ở giờ thứ 25, trong khi một số tướng lãnh đã đào ngũ mất rồi.  Khóc cho những cái chết tức tưởi của quân dân, và cảnh đoạ đày tù tội của những người sống sót.  Người trong tù, cũng xong một bề, nhưng còn gia đình bên ngoài thì sao? Sống như thế nào? Có ai quan tâm đến họ hay bỏ rơi như tướng bỏ rơi quân?  Nhìn vẻ mặt "người tù" tôi như thấy bao nhiêu tủi hờn cay đắng!
    Sau lệnh đầu hàng của Tổng Thống ba ngày, chúng tôi trở lại Phan Thiết và rồi tôi làm vợ tù. Tôi bị rơi vào hoàn cảnh một thân một mình nuôi chồng và bốn con còn nhỏ dại, chưa được chuẩn bị để thích ứng với tình huống này!  Thời trước 1975, cả hai vợ chồng sống bằng đồng lương ít ỏi của nhà nước.  Lương nhà giáo quá khiêm tốn, ai cũng biết rồi.  Còn anh ấy, làm việc rất thanh liêm, với tất cả lương tâm trách nhiệm của người thầy thuốc.  Như trên tôi đã nói anh không mở phòng mạch tư kiếm thêm tiền mà dành hết thời giờ cho công vụ. Do đó, tôi đã phải tiện tặn hết mức để không mang công mắc nợ.  Tôi chấp nhận, không đòi hỏi gì ở ông chồng mình, miễn gia đình hạnh phúc là đủ lắm rồi.  Khi anh đi tù tôi không có tiền dư bạc để.  Do đó tôi rơi vào hoàn cảnh đôi vai gầy guộc, ốm yếu của tôi gánh hai gánh nặng thân tình, ngang ngữa nhau, không thể bỏ gánh nào được cả.
   
    Từ khi Việt Cộng chiếm miền Nam, tôi không còn được ở khu gia binh QYV Đoàn Mạnh Hoạch nữa.  Tôi phải xin tá túc nhà ông TTP, cũng là sĩ quan của Quân Y Viện.  Khi ông xã tôi vào tù, tôi thấy không thể ở nhà người ta mãi nên tìm cách ra ở riêng.  Dốc hết tư trang ngày cưới, tôi mua một miếng đất trên động cát thuộc phường Phú Thủy, Phan Thiết.  Nơi đó có sẵn một căn nhà lá lợp tôn, để ngoài giờ đi dạy ở trường cấp 2B (tôi được lưu dụng với đồng lương đủ cho chục ngày chợ !), tôi "lao động sản xuất " thêm để tự cứu mình và cứu gia đình.  Các con tôi bị xô vào hoàn cảnh nghèo khó.  Nhờ vậy chúng trở nên khôn trước tuổi.  Con chị mới 9 tuổi đã biết đi chợ. nấu ăn, giặt đồ, dỗ em.  Khi nào em khóc (thằng út mới 3 tuổi) thì con chị ra chặt mía, róc, chẻ nhỏ rồi đút cho em ăn.  Thằng em trai kế nó, mới 8 tuổi cũng đã biết cùng với mẹ đi xin phân heo, cuốc đất, tưới nước để trồng khoai lang, khoai mì, biết xắc lát củ khoai phơi khô để dành thăm nuôi cha nó, biết cất lại một phần khoai để ăn độn với gaọ cho đỡ đói, vì gạo tiêu chuẩn có bao giờ ăn đủ cho 5 người!  Hình ảnh đáng thương nhất là con bé H. L. 5 tuổi ngồi đưa võng cho thằng em 3 tuổi, vừa đưa vừa hát à... ơi nghe đau lòng đứt ruột!  Khi trái chùm ruột chín, con bé tự ý giã muối ớt , đựng chùm ruột trong chiếc rỗ nhỏ, rồi đem ra đầu hẽm nhà mình mời các bạn nhỏ trong xóm mua.  Tội nghiệp các con tôi!  Các con tôi cũng đói lắm, cũng thèm nhâm nhi chùm ruột với muối ớt lắm, vậy mà... Có người mẹ nào tim không quặn thắt, ruột không đứt từng khúc từng đoạn trước những tình cảnh này!  Giai đoạn khổ sở đáng thương của con tôi không dừng lại ở đây.  Ai gây ra cảnh này?!   
    Anh ấy vào tù phải mất mấy tháng sau, tôi mới được giấy cho đi thăm nuôi.  Đây là lần thăm nuôi đầu tiên.  Thời gian thật ngắn, vui thì ít mà xót xa lại nhiều.  Tôi cảm xúc viết vài dòng thơ nói lên nỗi bi ai của tôi sau khi về nhà:
   
    Cảm Đề Người Đi Thăm Nuôi
    Khóc hết nước mắt đêm qua.
Sáng nay tươi tỉnh em vào thăm anh.
    Chân em thoăn thoắt, nhanh nhanh,
Quản chi xách nặng, thênh thênh đường dài.
    Ra đi định nói bao lời,
Đến khi gặp mặt hỡi ơi nghẹn rồi!
    Bàn ngăn hai đứa ai ngồi
Lù lù một đống, muốn sôi gan mình.
    Nói qua quýt, chuyện loanh quanh....
"Mấy con sức khỏe?"  Băn khoăn hai người...
    Còi huýt:  "Năm phút rồi thôi!"
Bây giờ đôi ngã, đôi nơi chia lià!
    Vác giỏ lên vai, anh lầm lủi bước.
    Ôi ánh mắt anh làm em đau xót.
    Xe chạy rồi...
    Em lại về với đàn con nheo nhóc.
    Bơ vơ gánh nặng trên vai...
    Và lệ em tự do tuôn trào
    Suốt quãng đường xa!
Cuộc sống của 5 mẹ con tôi trong căn nhà lá ấy, không sao kể xiết nỗi thống khổ, vất vả và đói khát.  Tôi nhớ một câu văn của Thạch Lam: "Đói như cào ruột, đói như chưa từng thấy bao giờ."  Bây giờ thì tôi đã có kinh nghiệm xương máu cái nghèo, cái đói đây!  Nghèo đến nỗi khi đổi tiền, tôi không đủ tiền để đổi nữa. Học trò hàng xóm tốt bụng đưa tiền nhờ đổi giùm, sau đó tặng cho chút đỉnh gọi là "để cô mua bánh cho mấy em."  Có dạo đi thăm nuôi ông xã, tôi gởi cho anh ấy mấy đồng để mua đồ ăn thêm.  Nhiều tháng sau, lúc ra thăm trở lại, hỏi anh tiền hôm đó có mua được gì không.  Anh nói vẫn còn nguyên. Tội nghiệp cho cả gia đình tôi !  Ở ngoài vợ con nhịn đói để nuôi tù, ở trong nhịn đói vì không nở "nuốt cái đói khát" của vợ con!  Còn nỗi chua xót, đau đớn nào cho tôi hơn nữa!!!
    
    Ở tù được hai năm rưỡi thì anh ấy được thả về.  Thôi thì hết làm thợ mộc, thợ nề, lại đi bốc, đi vác... khi áo blouse xưa không đươc dùng đến nữa.  Gia đình tôi mừng vui đoàn tụ, dù trong hoàn cảnh túng bấn.  Được hơn ba tháng thì Ủy Ban Nhân Dân Phường gọi anh ấy đến để "động viện" nhắc nhở "đăng ký" đi kinh tế mới".  Anh ấy không chịu, lấy lý do: trong trại cải tạo, anh đã được học tập về đường lối, chính sách của nhà nước là sẽ lưu dụng những thành phần chuyên môn, và anh đang chờ đợi.  Không ngờ đó lại là cái cớ để họ bắt anh vào tù lần thứ hai, bị ghép vào tội chống nhà nước.  Lần sau này anh bị đưa vào trại biệt giam.  Mấy tháng sau họ mới cho thăm nuôi.  Khi gặp mặt, tôi thấy anh xanh xao, u buồn.  Anh dặn dò:  "Lần sau nhớ mua cho anh cây lượt dày để chải chí và thuốc Dep để trị ghẻ."  Điều kỳ cục là trại này không cho người tù nhận những món như bánh tráng, gạo..., chỉ cho nhận những thứ ăn chơi như: kẹo, bánh, đường, đậu... Lỡ mang đi, bị buộc mang về.  Ra về lòng tôi vừa xót xa vừa nặng trình trịch.
   
"Bên trong" khổ, "bên ngoài" càng khổ hơn.  Lão trưởng khóm nơi tôi ở nói với tôi:  "Chồng cô sẽ ở tù suốt đời vì tội phản động."  Tôi nghe mà bủn rủn tay chân.  Thôi chết rồi, biết làm sao đây!  Tiếp theo phường lại "động viên" tôi, biểu tôi đi kinh tế mới.  Tôi đáp:  "Tôi yếu đuối, 4 con còn quá nhỏ, tôi làm được gì nơi đó?"  Cũng may, nếu nghe lời họ, bây giờ mấy mẹ con tôi biết còn sống không?
Suốt mấy năm gian khổ, khi không thể cầm cự nỗi nữa (năm 1980) tôi xin thôi việc, bỏ Phan Thiết về Long Xuyên để ở gần cha mẹ tôi.  (Lúc bấy giờ ông bà đang sống cùng gia đình người anh của tôi.)  Ông xã tôi lúc đó còn trong tù, tôi phó mặc cho Trời, vì tôi không còn sức lực, không còn khả năng đi thăm nuôi nữa.
Trên danh nghĩa, tôi về Long Xuyên để nhờ anh tôi giúp đỡ.  Chưa đầy một tháng thì anh ấy đưa toàn gia đình đi vượt biên hết.  (Sau này tôi mới biết nhiều lần ông ấy đã đi vượt biên không thoát, nên gợi ý tôi về hòng che mắt công an, phường khóm.)  Cha mẹ tôi lúc đó đã già.  Anh tôi đi, ông bà mất chỗ dựa, lại thêm địa phương làm khó dễ vì nhà có người vượt biên nên bị khủng hoảng tinh thần, lâu dần sinh bệnh, nhất là mẹ tôi, bà đau ốm liên miên.  Trong hai người, chỉ có bà là thương cháu ngoại, còn ông, với quan niệm xưa "cháu ngoại không đoái lại mồ" nên cách xử sự đôi lúc tôi thấy không có tình nồng ấm của ông cháu, mặc dầu ông bà cũng cố gắng giúp đỡ tôi bằng cách vét hết tư trang bán lần để bù đắp tiền chợ cho tôi.  Cuộc sống ở đây tuy gần cha mẹ tôi, nhưng lúc nào lòng tôi cũng thấp thỏm lo âu, cứ nơm nớp sợ không biết ngày nào người ta sẽ đuổi mình ra khỏi nhà, chừng đó biết đi đâu?  
Hơn một năm sau, 1981, thình lình anh ấy được thả về.  Thật là một hạnh phúc bất ngờ Trời cho, vì tôi cứ đinh ninh anh không bao giờ được thả!  Từ đây, anh đi chích dạo, bán thuốc lá lẻ, bán vé số, làm đủ mọi nghề cho đến ngày nộp đơn đi H.O.
3. Giấy ra trại và cuộc phỏng vấn
Vì bị tù hai lần, ông xã tôi như một con chim bị đạn, cứ lo sợ không biết còn bị bắt lại nữa không.  Vì thế, lúc nghe người ta kể về việc nộp hồ sơ đi Hoa Kỳ theo diện H.O., ông xã tôi vô cùng e ngại, lo sợ bị gạt, phải chờ đến khi có người bạn đi trước gởi  thư về khuyên nhủ ông mới mạnh dạn làm thủ tục để ra đi.
 Giấy ra trại là một vấn đề khiến gia đình tôi không yên tâm chút nào, vì trên giấy ghi rành rành "tội phản động chống chính quyền"!  Chúng tôi hỏi thăm nhiều người, không ai có tờ giấy ra trại ghi như thế cả.  Chúng tôi cũng được biết chính phủ Mỹ chỉ cho những thành phần quân, cán, chính chế độ cũ ở tù 3 năm trở lên mới được đi định cư ở Mỹ, còn những người chống chính quyền thì không được.  Chúng tôi lại hỏi ý kiến bạn bè và được khuyên làm sẵn một tờ tường trình lý do bị tù lần hai.  Vậy là có tờ report chuẩn bị cho cuộc phỏng vấn.
Rồi ngày gia đình tôi vào gặp phái đoàn Mỹ cũng tới.  Tôi nhận thấy những gia đình H.O. được phỏng vấn trườc, hầu như đều đựơc giải quyết mau lẹ, không như gia đình tôi.  Những đêm trước khi phỏng vấn, tôi đã cầu nguyện cho mọi việc suôn sẻ.  Vậy mà, khi gặp phái đoàn chúng tôi vẫn run, nhất là khi bà Mỹ nêu câu hỏi:  "Tại sao anh là bác sĩ mà phải đi cải tạo cả 5 năm rưỡi?"  Ông xã tôi khựng lại.  Tim tôi đập thình thịch!  Lát sau, bình tĩnh lại, tôi nhắc:  "Anh, tờ report."  chừng đó anh mới sực nhớ ra và đáp:  "Xin bà đọc tờ report."  Sau khi đọc xong, họ OK liền.  Vậy là thoát nạn.  Lúc ấy cả nhà tôi như  vừa chết đi được sống lại.  
4. Thời qua Mỹ
Gia đình tôi đến Hoa Kỳ năm 1992.  Riêng tôi, qua năm sau mới được đi vì phải ở lại điều trị bệnh.  Lúc mới qua, chồng và các con tôi đều nỗ lực làm việc và học hành.  Con gái, con trai đều đổ ra shop may: con trai thỉ ủi đồ và cắt chỉ, con gái lãnh đồ may.  Sau một thời gian, con tôi vào Đại học, nay thì đã tốt nghiệp và đi làm. Ông xã tôi, lúc mới qua, tự thấy lớn tuổi rồi, nếu học lại để lấy bằng thì ai thèm mướn nên cũng đành ra shop may lãnh đóng khuy nút một thời gian, sau đó vô làm ở một hãng Mỹ chuyên sản xuất nữ trang cho đến ngày nghỉ hưu.  Riêng tôi, thời gian vất vả trong những tháng năm cũ đã vắt kiệt sức lực của tôi.  Tôi chỉ có thể làm những việc lặt vặt trong nhà, chứ không bươn chải nỗi như người khác được.
Đến Hoa kỳ, không ngờ chúng tôi có cơ duyên gặp lại những người bạn VN thân quen gần nửa thế kỷ, thật là vui!  Có hai ông bác sĩ người Mỹ là Colman và Denatale cùng làm việc với ông xã tôi hồi ở Quảng Trị, trước mùa hè đỏ lửa, cũng tìm  tới tận nhà thăm chúng tôi.  Ai dám nói người Mỹ thực dụng, thiếu nghĩa tình?  Vài tháng trước đây, cô con gái của ông bác sĩ Krainick từ Ohio cũng gọi phone qua hỏi thăm và nhắc lại những kỷ niệm xưa của cha mình với ông xã tôi.  (Bác sĩ Krainick  ngày xưa dạy ở Đại Học Y khoa Huế, là thầy của ông xã tôi, bị Việt Cộng sát hại năm Mậu Thân.)  Thật là đậm đà tình người! 
Đời tôi, những lúc vui buồn đều có bạn bè chia xẻ.  Hôm tôi gởi bài viết của H.L., con gái tôi, kể chuyện thời đi bán vé số ở Long Xuyên bị người ta nhiếc mắng, chị LT người bạn thân ở Phan Thiết, từ Michigan gọi qua nói trong nước mắt:  "Tội quá!  Sao hồi đó em thiếu thốn, khổ cực thê thảm như vậy mà không chịu nói ra.  Em làm chị đang ân hận là đã không giúp em!" Tôi đã câm lặng bao nhiêu năm trời để giữ gìn cái danh dự gia đình của tôi:  "Đói cho sạch, rách cho thơm."  "Hãy đứng trên đôi chân mình và ngững cao đầu tiến bước."
Nhìn lại những chặng đường đã qua, tôi tự thấy mình đã tận lực trong vai trò người mẹ, người vợ của một quân nhân VNCH trước và sau 30-4-75.  Đời tôi sống đơn giản, không đua đòi se sua, không xúi giục chồng làm giàu bằng con đường tắt cong queo.  Đó là nguyên nhân tôi nhận lãnh những cay đắng của cuộc đời, và những tủi nhục của tình đời. Tuy nhiên,  hồng nào chẳng có gai?  Hạnh phúc nào mà không trả giá bằng đau khổ? Nếm đủ cay, chua, mặn, đắng... chỉ làm cho ta cuối cùng thấy hạnh phúc thêm ngọt ngào hơn.  Cám ơn cuộc đời đã cho tôi và gia dình tôi nếm trải qua đủ mùi vị.  Cám ơn nước Mỹ đã đưa gia đình tôi qua đây để đựơc sống những ngày an lành, hạnh phúc.
                                                     Ngọc Khuê
       (Houston, viết từ mùa Xuân sang mùa Hạ 15-6-2010)
 
                          *******

 Nước Mắt Cho Em Cho Anh



(Nhân đọc Mấy Đoạn Đường Đời của Ngọc Khuê)

*
Cay đắng nào cho anh?
Nước mắt nào cho em?
Tương lai thăm thẳm tối,
Cảnh nước mất nhà tan!
*
À... ơi... tiếng trẻ thơ,
Trong ngôi nhà trống trơ
Như mũi kim xoáy nát
Trái tim mẹ... dại khờ.
*
Khoai lang của con trai,
Chùm ruột của con gái,
Sao nghèn nghẹn đắng cay,
Mằn mặn nước mắt ai.
*
Kẻ trong khóc người ngoài.
Đâu áo xanh, áo vàng?
Đâu sân trường, hoa cúc?
Gầy guộc đôi vai nàng!
*
Chỉ một bàn tay với,
Mà xa cách muôn trùng!
Sắt máu nào cấm được,
Tình chúng ta thủy chung!

            vhp.Hải Vân





Không có nhận xét nào: