Thứ Hai, 31 tháng 12, 2018

Chúc Mừng Năm Mới 2019 - Trầm Vân


CHÚC MỪNG NĂM MỚI 2019

CHÚC năm mới đến rộn niềm vui
MỪNG mến thương nhau nở nụ cười
NĂM qua tình đến xôn xao mộng
MỚI tựa bình minh nắng đỏ môi

HAI dòng nước biếc nhập hòa nhau
KHÔNG thể rời xa cách nhịp cầu
MỘT mối tình duyên làn gió cột
CHÍN thương mười nhớ đẹp bền lâu

THẾ trần ngan ngát nắng lung linh
GIỚI trẻ già vui đẹp nghĩa tình
HÒA bình xin chúc cho nhân loại
BÌNH ổn xua tan lửa chiến chinh

THỊNH hòa lộc phước chúc muôn nhà
VƯỢNG khí luồn qua những khúc ca
AN lành mái ấm hương tình ngát
KHANG thọ thong dong nhịp bước già

HẠNH ngộ cùng vui nhịp bước xuân
PHÚC như hoa nở đẹp muôn phần
NGẬP lòng ríu rít lời chim hót
TRÀN cả hồn say tiếng sóng ngân

      Trầm Vân







Tháng Mười Hai Gợi Nhớ - Vkp.Phượng Ngày Nay


                   THÁNG MƯỜI HAI GỢI NHỚ
                       vkp phượng ngày nay



Cuối tháng mười hai  trời hoài nóng bức?
Miền Nam xưa năm ấy lạnh rét run
Sáng sớm sương mù phủ kín cả vùng:
Quanh núi Điện Bà Tây Ninh đất Thánh...
*
Trên đường đê Mẹ co ro gồng gánh
Rau cải quả tươi ra chợ gần nhà
Đôi vai quằn chân bước chậm đường xa
Để con đến trường ấm no đầy đủ...
*
Giọng Thầy run run giảng bài Chinh Phụ
Mắt Trò rưng rưng nhớ lúc cha đi
Mẹ ôm con trào lệ lúc phân kỳ
Giấu giá buốt vào thân hình con trẻ...
*
Cha không về Mẹ âm thầm lặng lẽ
Thầy qui tiên khi Trò đã nên người
Cái lạnh năm xưa biến mất lâu rồi
Chỉ còn lại quê tôi mùa nắng cháy!
*
Yêu thương lắm... Tây Ninh ơi! Nhớ mãi!!!

                           Saigon tháng 12/2018- 
                           vkp phượng ngày nay



Đón Giao Thừa (Đỗ Chiêu Đức) & Đón Tết Tây (Mai Xuân Thanh)


        ĐÓN GIAO THỪA
Thời gian năm mới khởi giờ không,
Thiên hạ cùng mừng đón gió đông.
Tống cựu hân hoan người vạn xứ,
Nghinh tân rực rỡ pháo ngàn bông.
Chung trà ngày cũ bồi hồi nhạt,
Chén rượu tân niên chếnh choáng nồng.
Mong ước năm heo hai một chín,
Nước non bừng đổi tía thay hồng !

            Đỗ Chiêu Đức


ĐÓN TẾT TÂY 2019

Hàng trăm cặp mắt đổ dồn..."không" ! (1)
New York "giao thừa" giữa tiết đông
Thấy rạng nguyên sơ trang điểm giấy
Trông chờ ngày mới phất phơ bông
Tinh khôi con gái êm chăn ấm
Trinh bạch nàng thơ mộng giấc nồng
Ánh sáng Times Square trời Nửu Ước
Đón xuân thiếu nữ má môi hồng... !

MAI XUÂN THANH
Ngày 27/12/2018

(1) "không" số không, "zero" đếm tới số không "zero" quả cầu khổng lồ rơi nhanh đúng lúc giao thừa năm mới 2019


Chủ Nhật, 30 tháng 12, 2018

Lễ Giáng Sinh Dưới Nhãn Quan của Một Người Nghiên Cứu Lịch Sử (Nguyễn Lý Tưởng)




LỄ GIÁNG SINH DƯỚI NHÃN QUAN CỦA MỘT NGƯỜI                            NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ

                                                 GS Nguyễn Lý-Tưởng

     Lễ Giáng Sinh là kỷ niệm ngày Đức Chúa Giêsu, Đấng sáng lập Kitô giáo, sinh ra ở nước Do Thái, cách nay 2013 năm. Đây là một biến cố trọng đại, không những có ảnh hưởng đến người Kitô hữu mà còn ảnh hưởng đến toàn thể nhân loại. Nhiều tác phẩm văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, v.v. trên thế giới đều lấy cảm hứng từ biến cố nầy. Ngày nay, không một dân tộc nào trên thế giới mà không biết đến ngày lễ Giáng Sinh. Lễ Giáng Sinh thường gọi là Lễ Noel là do chữ Emmanuel ở trong Kinh Thánh, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, gọi tắt là Nuel hay Noel. Người Mỹ gọi lễ nầy là Christmas.
     Kinh Thánh là một pho sách cổ của người Do Thái gồm có 2 phần: Kinh Thánh Cựu Ước và Kinh Thánh Tân Ước.
     -Kinh Thánh Cựu Ước (lời giao ước cũ) ghi chép lại các sự kiện liên quan đến tôn giáo, luật pháp, phong tục, văn hoá, lịch sử,v.v. của người Do Thái trước khi Đức Chúa Giêsu sinh ra.
     -Kinh Thánh Tân Ước (lời giao ước mới) là sách ghi chép lại cuộc đời và những lời giảng dạy của Đức Chúa Giêsu (tức là những tư tửơng, giáo lý của Người).
     Khi đọc Kinh Thánh, người ta thấy có nhiều sự kiện liên quan đến lịch sử Do Thái và lịch sử nhân loại, nhất là trong phần Cựu Ước. Nhưng mục đích của người viết Kinh Thánh không phải để ghi chép lịch sử, cũng không nhằm trình bày và chứng minh các sự kiện liên quan đến khoa học, mà chính là nhằm mục đích đạo đức, tôn giáo: loan báo sự mạc khải của Thiên Chúa cho dân tộc Do Thái nói riêng, và cho nhân loại nói chung, về “ơn cứu chuộc con ngừơi” do chính Thiên Chúa thực hiện và các giới răn của Thiên Chúa buộc nhân loại phải tuân giữ (tức 10 giới răn).
     Danh từ “mạc khải” gồm có hai chữ “mạc” và “khải” ghép lại. “Mạc” theo nghĩa chữ Hán là cái màn che, “Khải” là mở ra. Vậy “mạc khải” nghĩa là mở bức màn che ra để cho mọi người được biết những gì che dấu bên trong, tỏ cho biết những điều bí mật.
     Người đầu tiên viết Kinh Thánh là Moise, tiếng Việt phiên âm là Mai Sen, Môi Sen, Môi Se,v.v. ông là ngừơi đã được Thiên Chúa chọn để lãnh đạo cuộc đấu tranh với vua Pharaon, đưa dân Do Thái ra khỏi đất Ai Cập cách nay vào khoảng 3300 năm. Ông đã viết phần đầu của Kinh Thánh gọi là sách “Sáng Thế Ký”. Theo các nhà thần học và kinh thánh học thì ông được Thiên Chúa soi sáng, mạc khải cho biết để viết ra phần nầy. Cũng có thể hiểu rằng những điều ông ghi chép đã được truyền từ đời nọ đến đời kia trong dân tộc Do Thái trứơc ông. Sau khi ông mất, có nhiều người tiếp tục viết Kinh Thánh cho đến ngày nước Do Thái bị xóa tên (khoảng năm 70 đến 80 thế kỷ thứ I sau Công nguyên). Phần đó gọi là Kinh Thánh Cựu Ước.
     Phần Kinh Thánh gọi là Tân Ước (lời giao ước mới) do các học trò của Chúa Giêsu viết về cuộc đời và những lời giảng dạy của Người. Họ là những chứng nhân trực tiếp hoặc gián tiếp (được nghe bà Maria, Mẹ của Đức Chúa Giêsu kể lại). Bốn vị đó là Mathieu, Macco , Luca và Gioan (John). Ngoài ra còn có sách Tông Đồ Công Vụ (hoạt động của các Tông Đồ của Chúa Giêsu) do Paul (Phaolô) viết,  kể lại công cuộc truyền giáo của ông vào thế kỷ thứ I và sách “Khải Huyền” (hay Khải Thị) do Gioan viết.
     Kinh Thánh Cựu Ước (lời giao ước cũ giữa Thiên Chúa và tổ tiên người Do Thái) có loan báo về một Đấng Cứu Thế, gọi là Đức Kitô, sẽ đến trong dân tộc Do Thái để thực hiện ơn cứu độ của Thiên Chúa đối với nhân loại sau khi tổ tông loài người là Adam và Eva phản bội lại Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng nên mình. Những lời tiên tri nói về cuộc đời của Đấng Cứu Thế do các tiên tri (ngôn sứ) đã được ghi chép trong Kinh Thánh Cựu Ước. Thời gian của Cựu Ước là thời gian mong đợi, trông chờ Đấng Cứu Thế đến. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa nói với nhân loại qua các tiên tri (ngôn sứ).
     Tân Ước là lời giao ước, lời hứa của Thiên Chúa đối với tổ tiên người Do Thái đã được  thực hiện: đó là sự giáng sinh của Đức Kitô. Trong Tân Ước, Thiên Chúa trực tiếp nói với nhân loại qua Đức Kitô, con của Ngài.
     Cuộc đời của Đức Kitô trong Tân Ước đã diễn ra đúng như lời tiên tri trong Cựu Ước nói về Người. Do đó, Cựu Ước và Tân Ước có liên quan mật thiết với nhau. Cựu Ước là đi tìm và Tân Ứơc là gặp đựơc.
     “Tiên tri” hay “Ngôn sứ” là những người lãnh đạo tinh thần, lãnh đạo tôn giáo của người Do Thái. Lúc đầu, dân tộc Do Thái không có các vị lãnh đạo chính trị hay quân sự. Toàn dân chỉ theo một tôn giáo duy nhất, chỉ thờ Đấng Tạo Hoá duy nhất, ngừơi Do Thái gọi Đấng đó là Gia Vê hay Giê-Hô-Va, nghĩa là Đấng Toàn Năng (tức Thượng Đế hay Thiên Chúa). Thiên Chúa đã chọn những vị tiên tri hay ngôn sứ và qua những vị ấy, để truyền dạy cho dân riêng của Ngài (tức dân Do Thái). Thiên Chúa đã ban cho các vị ấy được quyền làm những việc lạ lùng để dân chúng tin. Người tiên tri đầu tiên là Mai Sen. Những người kế vị sẽ được chọn theo ý của Thiên Chúa và do vị tiên tri tiền nhiệm truyền đạt lại. Tiên tri chọn một vị tứơng để chỉ huy quân đội, bảo vệ dân khi có chiến tranh. Về sau, người Do Thái đòi hỏi phải có một vị vua như các dân tộc khác nên tiên tri thay mặt Thiên Chúa để chọn vua cho dân: như trường hợp tiên tri Samuel chọn  Saule làm vua Do Thái, sau đó lại chọn David thay Saule. Từ David trở về sau thì cha truyền con nối: như David truyền ngôi cho con là Salomon. Vua lo việc chính trị, tiên tri lo việc tôn giáo.
     Theo các sách tiên tri được ghi lại trong Kinh Thánh Cựu Ứơc thì Đức Kitô sẽ sinh ra bởi một trinh nữ thuộc dòng vua David. Người sẽ ra đời trong cảnh nghèo hèn. Người sẽ sinh ra ở Bêlem là một tỉnh nhỏ của nứơc Do Thái. Người sẽ đi rao giảng Tin Mừng về “ơn cứu độ”. Để chứng minh Người là con Thiên Chúa uy quyền, Người sẽ làm nhiều phép lạ cho kẻ điếc được nghe, kẻ mù được thấy, kẻ câm đuợc nói, ngừơi tàn tật, người đau ốm được lành, kẻ chết được sống lại,v.v. Người sẽ bị bắt, bị nhục hình, chết và sống lại… Đó là tóm tắt những điều Kinh Thánh đã nói về Người.
     Qua Kinh Thánh Cựu Ước, chúng ta biết đuợc dân tộc Do Thái bắt nguồn từ tổ phụ của họ là Abraham, cách nay chừng 4000 năm.
     Abraham sinh ra Isaac bởi vợ chính thức là Sara.
     Ngoài Isaac, Abraham cũng có nhiều con trai với các nàng hầu, những người nầy không được xem là “chính thống” vì không phải là con “bởi lời giao ước” nghĩa là Đấng Cứu Thế sẽ không sinh ra bởi dòng dõi của những người nầy.
     Isaac có 2 người con trai sinh đôi là Esau và Jacob. Esau không xứng đáng nên Jacob đuợc làm trưởng nam và Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra bởi dòng dõi Jacob.
     Trong một giấc mơ huyền bí, Jacob đã được đổi tên là Israel. Ông có 12 người con trai, sau nầy con cháu của họ lập thành 12 tỉnh của nước Do Thái.
     Nước Do Thái (hay là nước Israel) là do tên của Jacob (tức Israel) tổ tiên của họ.
     Người con thứ 11 của ông Israel là Giuse (Joseph) bị anh em bán cho thương nhân Ai Cập, về sau đã trở thành tể tứơng của nứoc nầy. Sau trận đói xảy ra cho toàn vùng, anh em của ông đã di cư vào Ai Cập.
     Giuse là người đã có công cứu dân Ai Cập khỏi nạn mất mùa, đói khát kéo dài 7 năm liền. Sau khi Giuse chết, người Ai Cập đã vong ân, bắt con cháu của ông làm nô lệ cho họ.
     Thiên Chúa đã chọn Mai Sen làm lãnh tụ dân Do Thái, đứng ra đấu tranh với vua Pharaon, để đem dân Do Thái ra khỏi Ai Cập và về miền đất hứa Canaan là nơi  Thiên Chúa đã hứa cho tổ tiên họ là Abraham.
     Họ đã đi qua biển đỏ (Hồng Hải) và trải qua đoạn đừơng dài 40 năm, qua sa mạc… và phải chiến đấu với nhiều dân tộc khác mới đến được đất hứa.
     Những ngừơi sinh bởi dòng máu của Jacob tức Israel đã trở thành dân tộc Do Thái.
     Những con cháu Abraham nhưng không bởi dòng máu Jacob, đã trở thành các dân tộc lân cận với nước Do Thái và thù nghịch với Do Thái. Từ Abraham đến ngày nay khoảng 4000 năm.
     Từ Mai Sen đến ngày nay khoảng từ 3300 đến 3500 năm.
     Cách nay khoảng 3000 năm, Do Thái đã trở nên cừơng thịnh dứơi triều đại của David. Ông là một anh hùng dân tộc, giải phóng xâm lăng. Ông cũng  là một thi sĩ, nhạc sĩ, một nhà đạo đức và là một tiên tri. Ông đã để lại nhiều lời tiên đoán về cuộc đời của Đấng Cứu Thế, nhất là về cuộc khổ nạn của Người. Ông đựơc sử sách gọi là “tiên tri”, “thánh vương”, v.v.
     Con của David là Salomon, được gọi là “người khôn ngoan nhất thiên hạ vào thời đó” đã làm cho Do Thái trở nên cường thịnh nhất trong vùng, nhờ sự khôn ngoan, thông thái và tài lãnh đạo. Trong đời ông không có chiến tranh xảy ra.
     Sau Salomon thì nứơc Do Thái dần dần suy yếu và bị các dân tộc lân cận xâm lấn.
     Khoảng 587 trước công nguyên, quân Babylon chiếm nước Do Thái và bắt dân Do Thái đem về Babylon làm nô lệ cho họ. Sử gọi là “Thời kỳ lưu đày Babylon” kéo dài 49 năm.
     Trước thời kỳ bị lưu đày, trong dân tộc Do Thái xuất hiện nhiều tiên tri, kêu gọi dân chúng phải ăn năn, hối cải, từ bỏ thói hư nết xấu để trở về đời sống đạo đức. Nếu không, họ sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt.
     Trong thời kỳ bị lưu đày tại Babylon, lời kêu gọi dân ăn năn hối cải lại càng thống thiết hơn, và dân Do Thái càng mong đợi Đấng Cứu Thế đến…
     Theo họ, Đấng Cứu Thế được nói đến trong Kinh Thánh sẽ là một lãnh tụ chính trị, quân sự để đánh đuổi xâm lăng, cứu dân tộc mình thoát vòng nô lệ và tái lập đế qúôc Do Thái như thời David và Salomon. Nhưng theo lời tiên tri của David và các tiên tri khác sau David, thì Đấng Cứu Thế là Con Thiên Chúa, Người sẽ sinh ra trong cảnh nghèo hèn, và Người sẽ chịu khổ hình để cứu chuộc tội lỗi cho nhân loại, để nhân loại khỏi bị phạt và được trở nên con của Thiên Chúa, được hưởng phứơc thiên đàng vĩnh cửu.
     Khoảng 539 trứơc công nguyên, một biến cố lịch sử đã xảy ra, vua nứơc Ba Tư là Kyrô thắng đế qúôc Babylon. Người Do Thái bị lưu đày được trở về quê hương của mình.
     Khoàng 533 trứơc công nguyên, Alexandre đại đế đã làm cho nước Hy Lạp cừơng thịnh. Quân Hy Lạp chiếm được cả Âu Châu và tràn sang tận Ấn  Độ. Do Thái nằm trong vùng đất thuộc đế qúôc Hy Lạp.  Sau khi Alexandre chết, đế qúôc Hy Lạp dần dần suy tàn. Đế qúôc La Mã mạnh lên và đánh thắng Hy Lạp.
     Trứơc khi kéo quân vào Do Thái, La Mã kêu gọi Do Thái liên minh với họ để chống lại Hy Lạp. Sau khi thắng Hy Lạp rồi, La Mã đem quân chiếm đóng Jerusalem và cai trị Do Thái vào năm 63 trứơc Chúa Giêsu giáng sinh.
     Đức Chúa Giêsu giáng sinh trong hoàn cảnh dân tộc Do Thái đang sống dứơi chế độ nô lệ của đế qúôc La Mã. Theo Kinh Thánh thì Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra tại một tỉnh nhỏ là Bê Lem. Nhưng đã đến gần ngày sinh rồi mà bà Maria, mẹ Đức Chúa Giêsu vẫn còn ở tại Nazaret, cách Bê Lem chừng vài trăm cây số. Một biến cố  đã xảy ra để ứng nghiệm lời tiên tri: hoàng đế La Mã là Augustus Ceasare ra lệnh kiểm tra dân số. Mọi người phải trở về nguyên quán để khai tên vào sổ hộ tịch. Thế là ông Giuse phải đem bà Maria đang mang thai, lên đừơng trở về Bê Lem, là nơi sinh quán của mình. Đức Chúa Giêsu đã sinh ra tại Bê Lem đúng như các tiên tri đã ghi chép. Những di tích về thời đại Đức Chúa Giêsu hiện nay vẫn còn được bảo vệ.
     Các nhà sử học và khảo cổ học đã minh xác về Đức Chúa Giêsu là một nhân vật có thật trong lịch sử nhân loại. Các chứng tích như: hang đá Bê Lem, nơi Người sinh ra, ngôi nhà Ngừoi ở tại Nazaret, dinh quan Tổng trấn Ponce Pilastre nơi Ngừơi bị xét xử, những giọt máu ở cầu thang (hiện nay ngừơi ta dùng những tấm kính úp lên trên để bảo vệ), ngôi mộ, thập giá khổ hình, khăn liệm có in mặt của Ngừơi (hiện để ở thành Turin), đồi Calvario, nơi Người chịu chết, núi Olivete, nơi Người lên trời trứơc mặt các môn đệ và dân chúng (hiện còn dấu chân in sâu vào đá)… cũng như lời Người giảng dạy, tư tưởng và giáo lý của Ngừơi. Những bản Kinh Thánh cổ được viết trên da bằng tiếng Aram (Do Thái), tiếng Hy Lạp và La tinh (La Mã), v.v. hiện còn lưu giữ cho đến ngày nay… Ông Daniel Rops, thuộc Hàn Lâm Viện Pháp, đã nghiên cứu và công bố nhiều điều xác minh về cuộc đời Đức Chúa Giêsu. Ngoài ra còn có hàng ngàn nhà nghiên cứu khác thuộc các giáo hội: Công Giáo, Tin Lành, Chính Thống,v.v. hoặc thuộc các huynh hướng tự do khác ngoài Giáo hội, cũng đã xác nhận những điều được nhắc đến trong Kinh Thánh về Đức Chúa Giêsu là đúng.
     Ngày sinh và năm sinh của Đức Chúa Giêsu đã được thế giới chọn làm niên lịch mới gọi là lịch công nguyên (ère chrétienne) hay là Dương lịch, lấy năm Ngừơi sinh ra làm năm thứ nhất, đến nay đã 2013 năm.
     Kitô giáo là do những người Do Thái, học trò của Đức Chúa Giêsu, trứơc hết truyền bá cho chính người Do Thái, sau đó mới truyền  sang các dân tộc khác… Nhưng có một số người Do Thái ngày nay vẫn còn trông đợi Đấng Cứu Thế như tổ tiên của họ trong thời Cựu Ước. Những người nầy chỉ thừa nhận Kinh Thánh Cựu Ước mà không tin vào Tân Ước.
     Đối diện với Jerusalem có một ngọn núi nhỏ tên là Sion, nơi đó có ngôi mộ của David, từ 3000 năm nay. Người Do Thái xem đó là nơi linh thiêng của họ. Trên ngôi mộ này, từ xưa tới nay có một ngọn lửa hằng cháy sáng mãi. Danh từ Sionit hoặc “chủ nghĩa sionit” là do chữ Sion mà ra, có nghĩa là Do Thái muốn trở lại thời đại huy hoàng của David và Salomon. Họ cứ nghĩ rằng Đấng Cứu Thế là một lãnh tụ chính trị kiểu David hay Salomon. Họ suy nghĩ theo tinh thần thế tục chứ không theo tinh thần siêu nhiên của tôn giáo. Do đó, họ vẫn chờ đợi và chưa gặp được Đấng Cứu Thế đích thực.
     Đêm Giáng Sinh còn được gọi là “Đêm Hoà Bình”, đêm mà thiên thần ca hát:
         “Vinh danh Thiên Chúa trên trời;
          Bình an dứơi thế cho người thiện tâm”
     Ngày xưa ở Việt Nam, dù trong thời chiến tranh, hai bên đều đề nghị “hưu chiến” trong đêm Giáng Sinh. Đêm Noel là đêm vui mừng cho cả nhân loại, không phân biệt tôn giáo, dân tộc hay thành phần xã hội. Mọi gia đình đều vui mừng vì đây là ngày vui của mọi người từ trẻ em cho đến ngừơi lớn: nào cây thông, ông già Noel, những món quà, những cánh thiệp, những lời chúc tụng tốt đẹp dành cho nhau, tiệc tùng, ca hát, v.v. Riêng người Kitô hữu thì đến nhà thờ dự Thánh Lễ, kỷ niệm Chúa Giáng Sinh… Những ngừơi khác cũng đi chơi, đi xem cho biết lễ nghi phong tục, hoà mình vào niềm vui chung của “đêm hòa bình”.
     Chúng tôi xin kính chúc qúy vị một đêm Noel trong hoà bình, yêu thương… trong tình yêu của Thiên Chúa đến với nhân loại. Ngừơi đã đến trong nghèo khó, trần truồng, rét lạnh, từ chối tất cả những tiện nghi sang trọng, giàu có của thế gian. Chúng ta đến với Chúa, tức là đến với tình yêu và hoà bình chân thật, thì cũng phải bỏ lại tất cả những đam mê vật chất, những dục vọng đê hèn của trần thế và chỉ có tâm hồn trong sạch, thiện chí, mới gặp được Ngừời. 

      GS Nguyễn Lý-Tưởng
             2013



Thiên Thai Bước Đến Thật Gần - Vkp Phương Ngày Nay


THIÊN THAI BƯỚC ĐẾN THẬT GẦN 

         Cùng đi về phía hoàng hôn
Chúng mình không chút bồn chồn lo âu
         Bến đời quá nhiều bể dâu
Bao lần nếm trãi khổ sầu trái ngang
         Mặt trời lặn đẹp ngỡ ngàng
Đêm dần buông xuống che ngang bóng tà
         Nắm tay mộng giấc mơ hoa
Chìm trong cỏi nhớ chan hòa ái ân
         Thiên thai bước đến thật gần...
Bỏ quên trần thế hóa thân Tiên Đồng
         Sánh vai Ngọc Nữ ruổi dong
Bồng lai tiên cảnh thỏa lòng đam mê
         *
         Đường nào có thể quay về?
Bởi còn nặng nợ bộn bề thế gian
         Nửa lui nửa tới... hoang mang!!!

     Saigon tháng 12/2018 
       vkp phượng ngày nay
         

Năm Tàn (Mailoc) & Mùa Lễ Cuối Năm (Mai XThanh) & Giá Buốt Năm Tàn (Nhật Hồng Nguyễn Thanh Vân)

     
    NĂM  TÀN

Thư phòng quạnh quẽ, lạnh chiều đông.
Mưa gió lê thê buốt giá hồn.
Sương trắng mơ hồ giăng khắp phố
Lá vàng tan tác chảy theo dòng.
Đèn sao nhấp nháy rực đường phố
Nhạc thánh u trầm vọng cõi không.
Thoi thóp năm tàn, cuốn lịch mỏng
Mấy tờ còn lại, sắt se trông!
         Mailoc
      12-23-18



Họa:  
HOLIDAY SEASON'S GREETINGS HOA KỲ
            MÙA LỄ CUỐI NĂM

Chiều lại Cali rét mướt ...đông
Mây giăng phủ kín lạnh vào hồn
Lái xe cẩn thận ngày sinh Chúa
Tài xế an tâm Thánh lễ dòng
Các cậu xênh xang đi bát phố
Quý cô súng sính bước theo chồng
Năm tàn lốc lịch rơi dần mỏng
"Cuốn mới" sẵn sàng hết đợi trông!

MAI XUÂN THANH
Ngày 23/12/2018




GIÁ BUỐT NĂM TÀN

Đọc Xuôi:
Tàn năm buốt giá cảnh sầu đông,
Lạnh vắng trăng buồn xao xuyến hồn.
Chan chứa nỗi phiền hoa lạc nụ,
Luyến lưu tình hận nước trơ dòng.
Đàn đau phím nát dây tơ rũ,
Mộng hết thơ sầu ong bướm không.
Dang dở đất trời sông núi khổ…
Than thầm luống dạ cảm hoài trông !
         
Đọc Ngược:
Trông hoài cảm dạ luống thầm than,
Khổ núi sông trời đất dở dang.
Không bướm ong sầu thơ hết mộng,
Rũ tơ dây nát phím đau đàn.
Dòng trơ nước hận tình lưu luyến,
Nụ lạc hoa phiền nỗi chứa chan.
Hồn xuyến xao buồn trăng vắng lạnh…
Đông sầu cảnh giá buốt năm tàn !

   Nhật Hồng Nguyễn Thanh Vân



Thứ Bảy, 29 tháng 12, 2018

Mùa Nghỉ Lễ Giáng Sinh - Tháng Mười Hai (Mai XThanh)


Mùa Nghỉ Lễ Giáng Sinh 
    Tháng Mười Hai

Tháng mười hai nhớ Sài Gòn mơ mộng
Giáng sinh này thắp sáng vạn sao đêm
Anh nhớ em cuộc sống rất êm đềm
Gió heo may nhẹ nhà ai mở cổng

Tháng mười hai ngồi ôn bao sống động
Thuở quen nhau em áo trắng sân trường
Giáng Sinh về nghe xao xuyến vấn vương
Môi hàm tiếu trông yêu kiều hớn hở

Tháng mười hai mong chờ ai lữ thứ
Đèn điện giăng lên tới ngọn thông cao
Be-Lem hang đá Chúa sinh nhiệm mầu
Ánh hào quang máng cỏ  ban ơn phúc

Tháng mười hai nghe người ta cầu chúc
Cho yêu thương bao đồng đạo ấm nồng
Nhấm nháp men cay lệ đẫm lưng tròng
Một vòng tay xóa tan băng giá lạnh

Tháng mười hai chạnh nghĩ đời hiu quạnh
Ánh trăng thề có thấu nỗi cô đơn
Vắng người thân trong mái ấm giận hờn
Mưa rả rích thấm vào hồn không tạnh...(!)

MAI XUÂN THANH
Ngày 24 tháng 12 n1m 2018



Thứ Sáu, 28 tháng 12, 2018

Thành ngữ điển tích 12: Nhà (Đỗ Chiêu Đức)

Thành ngữ điển tích 12 : 
            
                               Nhà...    


       NHÀ nói theo Chữ Nho... Dễ Học là GIA 家. Gia là chữ Hội Ý theo diễn tiến của chữ viết như sau :

    Giáp Cốt Văn         Đại Triện      Tiểu Triện     Lệ Thư
                   
Ta thấy :
        Giáp Cốt Văn là  hình tượng của cái Mái Nhà, bên dưới có một con heo đứng ngóc mỏ lên trên, có chân và đuôi bên dưới, đến Đại Triện thì các nét được đơn giản hóa hơn và đến Tiểu Triện thì các nét lại được kéo thẳng ra cho thành chữ viết. Cuối cùng là chữ Lệ đã có hình dáng như chữ Khải mà hiện nay đang sử dụng GIA 家 : Phía trên là bộ Miên 宀 là hình tượng của cái Mái Nhà; bên dưới là bộ Thỉ 豕 là con Heo, với Hội Ý là: Ở dưới một cái mái che mà có nuôi được một con heo trong cái xã hội du mục thì đây đã là một cái NHÀ, một mái ấm Gia Đình rồi đó, nên ...
       GIA 家 là Nhà, mà nhà thì có Sân, sân trong nhà gọi là Đình; nên ta có từ GIA ĐÌNH 家庭. Nhà cũng có Phòng, phòng trong nhà gọi là Thất; nên ta lại có từ GIA THẤT 家室. Cái Phòng lớn nhất để thờ ông bà, để cha mẹ ngồi cho con cái vấn an, để họp gia đình và tiếp khách, thì gọi là Đường; nên ta lại có từ GIA ĐƯỜNG 家堂. Và nhà nào cũng có cửa ra vào, nên ta còn có từ kép là Nhà Cửa, chữ Nho là GIA MÔN 家門. Tất cả những từ và ngữ trên đây đều có thể dùng để chỉ  hoặc thay thế cho cái nhà. Ví dụ như câu đối Tết truyền thống của dân Nam Bộ là:

      一室太和真富貴,  Nhất THẤT thái hòa chơn phú qúy,
      滿門春色是榮華。  Mãn MÔN xuân sắc thị vinh hoa.
Có nghĩa :
             Một NHÀ hòa thuận mới là phú qúy thật sự, 
             Đầy CỬA (đầy nhà) một màu xuân mới thật là Vinh hoa.

       Chữ THẤT 室 là Phòng, chữ MÔN 門 là Cửa trên đây, đều được dùng để chỉ Cái Nhà, chỉ cả Gia Đình.

       GIA 家 là Nhà, nhưng trong văn chương ta thấy có rất nhiều chữ NHÀ không dùng để chỉ Cái Nhà, mà dùng để chỉ: Một Người nào đó; Một Nơi nào đó hay một Nghề Nghiệp nào đó... Như trong Truyện Kiều, lúc Thúc Sinh muốn chuộc Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh để cưới về làm vợ, thì Thúy Kiều đã lo ngại rằng:

                          Ở trên cón có NHÀ THÔNG.
                Lượng trên trông xuống biết lòng có thương!?

      NHÀ THÔNG là từ Nôm của từ THUNG ĐƯỜNG 椿堂 (Còn được đọc là XUÂN ĐƯỜNG ) dùng để chỉ ngưới cha trong gia đình.  XUÂN 椿 : Theo sách Trang Tử, chương Tiêu Dao Du, thì XUÂN 椿 là loại cây cao bóng cả, tàng lá sum xuê, có tám trăm năm là mùa xuân, tám trăm năm là mùa thu, nên được dùng để ví với người cha là cột trụ chống đỡ và che chở cho gia đình.  Khi cô Kiều khuyên Thúc Sinh về thăm Hoạn Thư, thì chàng mới...

                         Rạng ra trình lại XUÂN ĐƯỜNG,
                  Thúc Ông cũng vội khuyên chàng quy gia.

     Khi nằm mơ thấy Đạm Tiên báo mộng cho biết về kiếp số đoạn trường của mình, thì cô Kiều đã buồn bã than thở đến đổi:
                       Giọng Kiều rền rĩ trướng loan,
                    NHÀ HUYÊN chợt tỉnh hỏi cơn cớ gì?

      NHÀ HUYÊN là từ Nôm của từ HUYÊN ĐƯỜNG 萱堂. HUYÊN 萱 là một loài thảo mộc được trồng trong nhà như cây Trường Sinh, lá thon dài, nở hoa màu vàng và cho hương thơm dìu dịu, ăn được, ta thường gọi là Hoa KIM CHÂM, dùng để chỉ sự dịu dàng của người mẹ, nên NHÀ HUYÊN hay HUYÊN ĐƯỜNG là MẸ. Ta có từ gọi chung CHA MẸ là XUÂN HUYÊN 椿萱.  Khi hay tin Kiều đã bán mình chuộc cha, Kim Trọng đã vật vã khóc than đến nỗi "Máu theo nước mắt, hồn lìa chiêm bao", khiến cho:

           Image result for 萱 椿 
                           (Cây Xuân)

           Image result for 萱堂 椿堂 
                     (Hoa và Cỏ Huyên)

                        XUÂN HUYÊN lo sợ xiết bao,
                      Hóa ra khi đến thế nào mà hay!

      Ta còn gặp lại từ NHÀ HUYÊN trong Kiều một lần nữa khi Thúy Kiều sắp lên đường theo Mã Giám Sinh đi Lâm Chuy:   
          
                        Bề ngoài chủ khách dập dìu,
                  Một NHÀ HUYÊN với một Kiều ở trong.

      Sẵn nói luôn về cách xưng hô cha mẹ mình và cha mẹ người khác, như thế nào cho lịch sự và đúng phép tắc.

     * Xưng hô cha mẹ mình với người khác là :
         - Gia phụ 家父, gia nghiêm 家嚴. (nghĩa như Cha Tôi, Ba tao).
         - Gia mẫu 家母, gia từ 家慈, (nghĩa như Mẹ Tôi, Má tao).
     * Xưng hô cha mẹ của người khác là :
         - Lệnh tôn 令尊, lệnh nghiêm 令嚴, lệnh nghiêm đường 令嚴堂.
           (nghĩa như: Cha của anh của chị... là Ba mầy)
         - Lệnh từ 令慈, lệnh từ đường 令慈堂, lệnh từ mẫu 令慈母.
           (nghĩa như: Mẹ của anh của chị... là Má Mầy).

     Cách xưng hô trên đây hiện nay không còn sử dụng trong văn nói, nhưng vẫn còn sử dụng trong văn viết, trên văn bản, giấy tờ... cho lịch sự.  Riêng các từ Huyên Đường, Xuân Đường, Nhà Huyên, Nhà Thông... thì chỉ để nghiên cứu và tìm hiểu về văn học cổ mà thôi.
       Trở lại với từ NHÀ... Khi gia đình Kiều gặp nạn, Kiều ngỏ ý với người may mối mình muốn bán mình chuộc tội cho cha. Cụ Nguyễn Du đã viết:

                        Sự lòng ngõ với BĂNG NHÂN,
                     Tin sương đồn đại xa gần xôn xao.

và thầy trò Mã Giám Sinh đã kéo đến một cách ồn ào:

                         Trước thầy sau tớ xôn xao,
                    NHÀ BĂNG đưa mối rước vào lầu trang.
  
       NHÀ BĂNG là BĂNG NHÂN 冰人 là Người Mai Mối. Tại sao gọi người may mối là BĂNG NHÂN? À, thì ra...

                      Image result for 冰人 : 做媒的人

       Theo Kinh Thi 詩經, chương Bắc Phong 邶風, có câu:

                     雝雝鳴雁,   Ung ung minh nhạn,
                     旭日始旦。   Húc nhật thủy đán.
                     士如歸妻,   Sĩ như quy thê,
                     迨冰未泮。   Đãi băng vị phán.
Có nghĩa :
                   Nhạn kêu oang oác trời thu,
              Tảng sáng mây mù, mặt nhựt mọc ra.
                   Nếu chàng có muốn cưới ta,
              Đừng đợi băng rả mới qua rước người!   

      Theo quan niệm xưa, cưới vợ phải trước tiết Trọng Xuân tháng 2, vì đây là khoảng thời gian âm dương giao tiếp, âm tiêu dương trưởng, có nghĩa khí âm lạnh lẽo lui dần và khí dương ấm áp bắt đầu nảy sinh. Vạn vật qua mùa đông cũng bắt đầu sinh sôi nẩy nở, cũng thích hợp cho con người cưới vợ sanh con; Vì qua khoảng thời gian nầy băng sẽ tan hết, và công việc đồng áng sẽ bắt đầu vào vụ mùa, nên không còn thích hợp để cưới vợ nữa. Theo như truyền thuyết sau  đây:   
          Vào đời Tấn, có một quan viên Hiếu Liêm tên là Lệnh Hồ Sách 令狐策. Một đêm, ông ta nằm mộng thấy mình đang đứng ở trên băng cùng nói chuyện với người ở dưới băng. Hồ Sách đem chuyện nầy hỏi Tác Đảm 索紞, là một người có tài chuyên đoán mộng. Đảm đáp rằng: "Trên băng là dương, dưới băng là âm. Đó là việc âm dương. Đứng ở trên băng nói chuyện với người đứng ở dưới băng, đó là ví dương nói với âm, tức là làm mối cho trai gái lấy nhau. Ông sẽ là người mai mối cho trai gái lấy nhau trong mùa nầy trước khi băng tan đó. Cố gắng mà làm cho tốt. Sau đó qủa nhiên như lời của Tác Đảm, Lệnh Hồ Sở đã làm "Băng Nhân" cho mấy cặp thành hôn trước lúc băng tan.

       Cho nên sau nầy gọi người mai mối là BĂNG NHÂN, nôm na thì gọi là NHÀ BĂNG, chớ không phải NHÀ BANK là Ngân Hàng của ta ngày nay đâu. Ta còn gặp lại từ Băng Nhân khi Từ Hải chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh:

                        Ngỏ lời nói với BĂNG NHÂN,
                 Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn!

      Trong truyện Nôm Phạm Tải Ngọc Hoa của ta, nói về thân thế của Phạm Tải có câu: 

                         Kiếm ăn đắp đổi qua lần,
              Nương mình cửa Khổng, tựa thân NHÀ TRÌNH.

      NHÀ TRÌNH hay CỬA TRÌNH, SÂN TRÌNH gì đều chỉ nhà của Trình Di 程頤, tự là Y Xuyên 伊川. Theo Chu Tử Ngữ Lục, Trình Di là một danh nho đời Tống, học trò đến xin học rất đông. Khi Du Tạc 遊酢 và Dương Thời 楊時 tìm đến ra mắt để xin vào học, thấy thầy đang nhắm mắt dưỡng thần, hai người bèn đứng im không dám động đậy. Đến khi Trình Di mở mắt ra nhìn thấy thì tuyết đã đổ xuống phủ chỗ đứng của hai người cao đến hơn một thước (xưa khoảng hơn 2dm).

       
      Vì tích trên mà ta còn có thành ngữ TRÌNH MÔN LẬP TUYẾT 程門立雪 (là Đứng trong tuyết trước cửa thầy Trình) để chỉ: Sự quyết tâm cầu học và lòng kính trọng của học trò đối với thầy.  
        
      Trong Bích Câu Kỳ Ngộ nói về Tú Uyên cũng có câu:
                         Thông minh sẵn có tư trời,
                  Còn khi đồng ấu mãi vui CỬA TRÌNH.

      Ta hay nghe câu "Cửa Khổng Sân Trình", là Cửa của Khổng Tử và Sân của Trình Di, dùng để chỉ nơi học tập theo đạo Nho ngày xưa, tương đương với từ Nhà Trường của ta hiện nay. 

      Ngoài NHÀ TRÌNH để chỉ trường học ra, ta còn thấy từ NHÀ HUỲNH, do từ HUỲNH VŨ 黌宇. Theo sách Hậu Hán Thư, vua Hán Thuận Đế cho xây những tòa nhà lớn để làm nơi ăn học cho các sĩ tử, gọi là Huỳnh Vũ, như trong Hoa Tiên Ký của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện:

                      Gia quan mới dạo NHÀ HUỲNH,
                   Thư nhà hầu hạ huyên đình bấy lâu.

      Ngoài ra, ta còn gặp từ NHÀ LAN trong Truyện Kiều. Khi "Trên hai đường với cùng là hai em, Tưng bừng sắm sửa áo xiêm" để mừng thọ ngoại gia. Ở nhà có một mình, nên Kiều thừa lúc:
  
                     NHÀ LAN thanh vắng một mình,
                  Ngẫm cơ hội ngộ đã dành hôm nay.   

      NHÀ LAN là LAN THẤT 蘭室, là Nhà có mùi thơm như hoa lan, dùng để chỉ những gia đình có đạo đức, như lời của Lưu Tướng Công nói trong Hoa Tiên Ký:

                      Dứt lời Lưu mới thưa rằng,
               Từ vào LAN THẤT xem bằng Long Môn.

                      Image result for 芝蘭之室

      LAN THẤT có xuất xứ từ câu nói của Đức Khổng Phu Tử như sau. Tử Viết: Dữ thiện nhân cư, như nhập CHI LAN CHI THẤT, cửu nhi bất văn kỳ hương, tức dữ chi hóa hỉ. Dữ bất thiện nhân cư, như nhập bào ngư chi tứ, cửu nhi bất văn kỳ xú, diệc dữ chi hóa hỉ. 孔子曰:與善人居,如入芝蘭之室,久而不聞其香,即與之化矣。與不善人居,如入鮑魚之肆,久而不聞其臭,亦與之化矣。Có nghĩa :
      Khổng Tử nói rằng : "Ở chung với những người thiện, như vào trong nhà có hoa chi lan, lâu dần không thấy mùi thơm, tức là ta đã hòa vào mùi thơm đó rồi. Còn ở chung với người không thiện, thì như đi vào tiệm bán cá, lâu dần cũng không thấy được mùi tanh, vì ta cũng đã hòa vào cái mùi tanh đó rồi."  Ý của câu nầy giống như là câu: "Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng" của ta vậy!

      Nên NHÀ LAN là nhà có đạo đức, lương thiện, đàng hoàng, hay trên thuận dưới hòa, vợ chồng hòa hợp như Tú Uyên và Giáng Kiều trong Bích Câu Kỳ Ngộ:

                       NHÀ LAN sum họp ban mai,
                 Đã trong tần tảo, lại ngoài huyền ca.

 
             
      Cái nhà cuối cùng của bài viết nầy muốn đề cập là NHÀ VÀNG, từ Hán Việt là KIM ỐC 金屋, là nhà được xây bằng vàng cho người đẹp ở. Như tích sau đây:
      Theo sách Hán Vũ Cố Sự: Lúc Hán Vũ Đế Lưu Triệt còn làm thái tử, bà trưởng công chúa muốn gả con gái cho, mới ướm hỏi: "Lấy được A Kiều thì có thích không?"  Triệt đáp: "Nếu lấy được A Kiều, thì sẽ đúc nhà vàng cho nàng ở.. Qủa nhiên, sau nầy khi lấy A Kiều và đã lên làm vua, Hán Vũ Đế bèn xây nhà vàng cho Hoàng Hậu A Kiều ở. Trong Truyện Tây Sương cũng đánh giá cao Thôi Oanh Oanh bằng hai câu:

                        Trộm nghe nàng kẻ hồng nhan,
                     Dọn phòng KIM ỐC, vây màn tố sa.

       Hay như trong Truyện Kiều, mặc dù ghen tức với Thúy Kiều, nhưng Hoạn Thư vẫn tán thưởng trước tài năng và sắc đẹp của nàng:

                         Ví chăng có số giàu sang,
                  Giá nầy dẫu đúc NHÀ VÀNG cũng nên!

            
      Từ đầu bài viết đến giờ, ta đề cập đến bảy cái NHÀ:
        - Nhà Thông chỉ người cha.
        - Nhà Huyên chỉ người mẹ.
        - Nhà Băng chỉ người mai mối.
        - Nhà Trình chỉ nhà của Trình Di, chỉ trường dạy về Nho học.
        - Nhà Huỳnh chỉ Trường học ngày xưa.
        - Nhà Lan chỉ các gia đình có đạo đức.
        - Nhà Vàng chỉ nhà làm bằng vàng cho người đẹp ở.
      Với truyền thống sử dụng từ NHÀ trong văn chương văn học, cho đến ngày hôm nay từ NHÀ vẫn còn đắc dụng trong ngôn ngữ nói và viết của tiếng Việt Nam ta ở tất cả các mặt, như:

     * Chỉ chính quyền là :  Nhà nước, Nhà quan ...
     * Chỉ xã hội là : Nhà từ thiện, Nhà hảo tâm ...
     * Chỉ nghề nghiệp là : Nhà buôn, Nhà thầu ...
     * Chỉ địa điểm là : Nhà thương, Nhà trường ...
     * Chỉ chuyên môn là : Nhà thiết kế, Nhà tạo mẫu ...
     * Chỉ tình trạng gia đình là : Nhà Giàu có, Nhà Khá giả ...
     * Chỉ Kinh doanh là : Nhà hàng, Nhà Bank... 
        ...................................

      Thường thì từ NHÀ luôn chỉ một phương diện nào đó vượt trội hơn người, chỉ có...

      Nhà Văn, Nhà Giáo, Nhà Báo là... Nhà Nghèo mà thôi!

                                                   Đỗ Chiêu Đức