LỄ GIÁNG SINH DƯỚI NHÃN QUAN CỦA MỘT NGƯỜI NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ
GS Nguyễn Lý-Tưởng
Lễ Giáng Sinh là
kỷ niệm ngày Đức Chúa Giêsu, Đấng sáng lập Kitô giáo, sinh ra ở nước Do Thái,
cách nay 2013 năm. Đây là một biến cố trọng đại, không những có ảnh hưởng đến
người Kitô hữu mà còn ảnh hưởng đến toàn thể nhân loại. Nhiều tác phẩm văn chương,
nghệ thuật, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, v.v. trên thế giới đều lấy cảm hứng từ
biến cố nầy. Ngày nay, không một dân tộc nào trên thế giới mà không biết đến
ngày lễ Giáng Sinh. Lễ Giáng Sinh thường gọi là Lễ Noel là do chữ Emmanuel ở
trong Kinh Thánh, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, gọi tắt là Nuel hay
Noel. Người Mỹ gọi lễ nầy là Christmas.
Kinh Thánh là một
pho sách cổ của người Do Thái gồm có 2 phần: Kinh Thánh Cựu Ước và Kinh Thánh
Tân Ước.
-Kinh Thánh Cựu Ước
(lời giao ước cũ) ghi chép lại các sự kiện liên quan đến tôn giáo, luật pháp,
phong tục, văn hoá, lịch sử,v.v. của người Do Thái trước khi Đức Chúa Giêsu
sinh ra.
-Kinh Thánh Tân Ước
(lời giao ước mới) là sách ghi chép lại cuộc đời và những lời giảng dạy của Đức
Chúa Giêsu (tức là những tư tửơng, giáo lý của Người).
Khi đọc Kinh
Thánh, người ta thấy có nhiều sự kiện liên quan đến lịch sử Do Thái và lịch sử
nhân loại, nhất là trong phần Cựu Ước. Nhưng mục đích của người viết Kinh Thánh
không phải để ghi chép lịch sử, cũng không nhằm trình bày và chứng minh các sự
kiện liên quan đến khoa học, mà chính là nhằm mục đích đạo đức, tôn giáo: loan
báo sự mạc khải của Thiên Chúa cho dân tộc Do Thái nói riêng, và cho nhân loại
nói chung, về “ơn cứu chuộc con ngừơi” do chính Thiên Chúa thực hiện và các
giới răn của Thiên Chúa buộc nhân loại phải tuân giữ (tức 10 giới răn).
Danh từ “mạc
khải” gồm có hai chữ “mạc” và “khải” ghép lại. “Mạc” theo nghĩa chữ Hán là cái
màn che, “Khải” là mở ra. Vậy “mạc khải” nghĩa là mở bức màn che ra để cho mọi
người được biết những gì che dấu bên trong, tỏ cho biết những điều bí mật.
Người đầu tiên
viết Kinh Thánh là Moise, tiếng Việt phiên âm là Mai Sen, Môi Sen, Môi Se,v.v. ông
là ngừơi đã được Thiên Chúa chọn để lãnh đạo cuộc đấu tranh với vua Pharaon, đưa
dân Do Thái ra khỏi đất Ai Cập cách nay vào khoảng 3300 năm. Ông đã viết phần đầu
của Kinh Thánh gọi là sách “Sáng Thế Ký”. Theo các nhà thần học và kinh thánh
học thì ông được Thiên Chúa soi sáng, mạc khải cho biết để viết ra phần nầy.
Cũng có thể hiểu rằng những điều ông ghi chép đã được truyền từ đời nọ đến đời
kia trong dân tộc Do Thái trứơc ông. Sau khi ông mất, có nhiều người tiếp tục
viết Kinh Thánh cho đến ngày nước Do Thái bị xóa tên (khoảng năm 70 đến 80 thế
kỷ thứ I sau Công nguyên). Phần đó gọi là Kinh Thánh Cựu Ước.
Phần Kinh Thánh
gọi là Tân Ước (lời giao ước mới) do các học trò của Chúa Giêsu viết về cuộc đời
và những lời giảng dạy của Người. Họ là những chứng nhân trực tiếp hoặc gián
tiếp (được nghe bà Maria, Mẹ của Đức Chúa Giêsu kể lại). Bốn vị đó là Mathieu,
Macco , Luca và Gioan (John). Ngoài ra còn có sách Tông Đồ Công Vụ (hoạt động
của các Tông Đồ của Chúa Giêsu) do Paul (Phaolô) viết, kể lại công cuộc truyền giáo của ông vào thế
kỷ thứ I và sách “Khải Huyền” (hay Khải Thị) do Gioan viết.
Kinh Thánh Cựu Ước
(lời giao ước cũ giữa Thiên Chúa và tổ tiên người Do Thái) có loan báo về một Đấng
Cứu Thế, gọi là Đức Kitô, sẽ đến trong dân tộc Do Thái để thực hiện ơn cứu độ
của Thiên Chúa đối với nhân loại sau khi tổ tông loài người là Adam và Eva phản
bội lại Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng nên mình. Những lời tiên tri nói về cuộc
đời của Đấng Cứu Thế do các tiên tri (ngôn sứ) đã được ghi chép trong Kinh
Thánh Cựu Ước. Thời gian của Cựu Ước là thời gian mong đợi, trông chờ Đấng Cứu
Thế đến. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa nói với nhân loại qua các tiên tri (ngôn
sứ).
Tân Ước là lời
giao ước, lời hứa của Thiên Chúa đối với tổ tiên người Do Thái đã được thực hiện: đó là sự giáng sinh của Đức Kitô.
Trong Tân Ước, Thiên Chúa trực tiếp nói với nhân loại qua Đức Kitô, con của
Ngài.
Cuộc đời của Đức
Kitô trong Tân Ước đã diễn ra đúng như lời tiên tri trong Cựu Ước nói về Người.
Do đó, Cựu Ước và Tân Ước có liên quan mật thiết với nhau. Cựu Ước là đi tìm và
Tân Ứơc là gặp đựơc.
“Tiên tri” hay
“Ngôn sứ” là những người lãnh đạo tinh thần, lãnh đạo tôn giáo của người Do
Thái. Lúc đầu, dân tộc Do Thái không có các vị lãnh đạo chính trị hay quân sự.
Toàn dân chỉ theo một tôn giáo duy nhất, chỉ thờ Đấng Tạo Hoá duy nhất, ngừơi
Do Thái gọi Đấng đó là Gia Vê hay Giê-Hô-Va, nghĩa là Đấng Toàn Năng (tức Thượng
Đế hay Thiên Chúa). Thiên Chúa đã chọn những vị tiên tri hay ngôn sứ và qua
những vị ấy, để truyền dạy cho dân riêng của Ngài (tức dân Do Thái). Thiên Chúa
đã ban cho các vị ấy được quyền làm những việc lạ lùng để dân chúng tin. Người
tiên tri đầu tiên là Mai Sen. Những người kế vị sẽ được chọn theo ý của Thiên
Chúa và do vị tiên tri tiền nhiệm truyền đạt lại. Tiên tri chọn một vị tứơng để
chỉ huy quân đội, bảo vệ dân khi có chiến tranh. Về sau, người Do Thái đòi hỏi
phải có một vị vua như các dân tộc khác nên tiên tri thay mặt Thiên Chúa để
chọn vua cho dân: như trường hợp tiên tri Samuel chọn Saule làm vua Do Thái, sau đó lại chọn David
thay Saule. Từ David trở về sau thì cha truyền con nối: như David truyền ngôi
cho con là Salomon. Vua lo việc chính trị, tiên tri lo việc tôn giáo.
Theo các sách
tiên tri được ghi lại trong Kinh Thánh Cựu Ứơc thì Đức Kitô sẽ sinh ra bởi một
trinh nữ thuộc dòng vua David. Người sẽ ra đời trong cảnh nghèo hèn. Người sẽ
sinh ra ở Bêlem là một tỉnh nhỏ của nứơc Do Thái. Người sẽ đi rao giảng Tin
Mừng về “ơn cứu độ”. Để chứng minh Người là con Thiên Chúa uy quyền, Người sẽ
làm nhiều phép lạ cho kẻ điếc được nghe, kẻ mù được thấy, kẻ câm đuợc nói, ngừơi
tàn tật, người đau ốm được lành, kẻ chết được sống lại,v.v. Người sẽ bị bắt, bị
nhục hình, chết và sống lại… Đó là tóm tắt những điều Kinh Thánh đã nói về Người.
Qua Kinh Thánh Cựu Ước, chúng ta biết đuợc
dân tộc Do Thái bắt nguồn từ tổ phụ của họ là Abraham, cách nay chừng 4000 năm.
Abraham sinh ra
Isaac bởi vợ chính thức là Sara.
Ngoài Isaac,
Abraham cũng có nhiều con trai với các nàng hầu, những người nầy không được xem
là “chính thống” vì không phải là con “bởi lời giao ước” nghĩa là Đấng Cứu Thế
sẽ không sinh ra bởi dòng dõi của những người nầy.
Isaac có 2 người
con trai sinh đôi là Esau và Jacob. Esau không xứng đáng nên Jacob đuợc làm trưởng
nam và Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra bởi dòng dõi Jacob.
Trong một giấc mơ
huyền bí, Jacob đã được đổi tên là Israel. Ông có 12 người con trai, sau nầy
con cháu của họ lập thành 12 tỉnh của nước Do Thái.
Nước Do Thái (hay
là nước Israel) là do tên của Jacob (tức Israel) tổ tiên của họ.
Người con thứ 11
của ông Israel là Giuse (Joseph) bị anh em bán cho thương nhân Ai Cập, về sau đã
trở thành tể tứơng của nứoc nầy. Sau trận đói xảy ra cho toàn vùng, anh em của
ông đã di cư vào Ai Cập.
Giuse là người đã
có công cứu dân Ai Cập khỏi nạn mất mùa, đói khát kéo dài 7 năm liền. Sau khi
Giuse chết, người Ai Cập đã vong ân, bắt con cháu của ông làm nô lệ cho họ.
Thiên Chúa đã
chọn Mai Sen làm lãnh tụ dân Do Thái, đứng ra đấu tranh với vua Pharaon, để đem
dân Do Thái ra khỏi Ai Cập và về miền đất hứa Canaan là nơi Thiên Chúa đã hứa cho tổ tiên họ là Abraham.
Họ đã đi qua biển
đỏ (Hồng Hải) và trải qua đoạn đừơng dài 40 năm, qua sa mạc… và phải chiến đấu
với nhiều dân tộc khác mới đến được đất hứa.
Những ngừơi sinh
bởi dòng máu của Jacob tức Israel đã trở thành dân tộc Do Thái.
Những con cháu
Abraham nhưng không bởi dòng máu Jacob, đã trở thành các dân tộc lân cận với nước
Do Thái và thù nghịch với Do Thái. Từ Abraham đến ngày nay khoảng 4000 năm.
Từ Mai Sen đến
ngày nay khoảng từ 3300 đến 3500 năm.
Cách nay khoảng
3000 năm, Do Thái đã trở nên cừơng thịnh dứơi triều đại của David. Ông là một
anh hùng dân tộc, giải phóng xâm lăng. Ông cũng
là một thi sĩ, nhạc sĩ, một nhà đạo đức và là một tiên tri. Ông đã để
lại nhiều lời tiên đoán về cuộc đời của Đấng Cứu Thế, nhất là về cuộc khổ nạn
của Người. Ông đựơc sử sách gọi là “tiên tri”, “thánh vương”, v.v.
Con của David là
Salomon, được gọi là “người khôn ngoan nhất thiên hạ vào thời đó” đã làm cho Do
Thái trở nên cường thịnh nhất trong vùng, nhờ sự khôn ngoan, thông thái và tài
lãnh đạo. Trong đời ông không có chiến tranh xảy ra.
Sau Salomon thì
nứơc Do Thái dần dần suy yếu và bị các dân tộc lân cận xâm lấn.
Khoảng 587 trước
công nguyên, quân Babylon chiếm nước Do Thái và bắt dân Do Thái đem về Babylon
làm nô lệ cho họ. Sử gọi là “Thời kỳ lưu đày Babylon” kéo dài 49 năm.
Trước thời kỳ bị
lưu đày, trong dân tộc Do Thái xuất hiện nhiều tiên tri, kêu gọi dân chúng phải
ăn năn, hối cải, từ bỏ thói hư nết xấu để trở về đời sống đạo đức. Nếu không,
họ sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt.
Trong thời kỳ bị
lưu đày tại Babylon, lời kêu gọi dân ăn năn hối cải lại càng thống thiết hơn,
và dân Do Thái càng mong đợi Đấng Cứu Thế đến…
Theo họ, Đấng Cứu
Thế được nói đến trong Kinh Thánh sẽ là một lãnh tụ chính trị, quân sự để đánh đuổi
xâm lăng, cứu dân tộc mình thoát vòng nô lệ và tái lập đế qúôc Do Thái như thời
David và Salomon. Nhưng theo lời tiên tri của David và các tiên tri khác sau
David, thì Đấng Cứu Thế là Con Thiên Chúa, Người sẽ sinh ra trong cảnh nghèo
hèn, và Người sẽ chịu khổ hình để cứu chuộc tội lỗi cho nhân loại, để nhân loại
khỏi bị phạt và được trở nên con của Thiên Chúa, được hưởng phứơc thiên đàng
vĩnh cửu.
Khoảng 539 trứơc
công nguyên, một biến cố lịch sử đã xảy ra, vua nứơc Ba Tư là Kyrô thắng đế
qúôc Babylon. Người Do Thái bị lưu đày được trở về quê hương của mình.
Khoàng 533 trứơc
công nguyên, Alexandre đại đế đã làm cho nước Hy Lạp cừơng thịnh. Quân Hy Lạp
chiếm được cả Âu Châu và tràn sang tận Ấn
Độ. Do Thái nằm trong vùng đất thuộc đế qúôc Hy Lạp. Sau khi Alexandre chết, đế qúôc Hy Lạp dần
dần suy tàn. Đế qúôc La Mã mạnh lên và đánh thắng Hy Lạp.
Trứơc khi kéo
quân vào Do Thái, La Mã kêu gọi Do Thái liên minh với họ để chống lại Hy Lạp.
Sau khi thắng Hy Lạp rồi, La Mã đem quân chiếm đóng Jerusalem và cai trị Do
Thái vào năm 63 trứơc Chúa Giêsu giáng sinh.
Đức Chúa Giêsu
giáng sinh trong hoàn cảnh dân tộc Do Thái đang sống dứơi chế độ nô lệ của đế
qúôc La Mã. Theo Kinh Thánh thì Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra tại một tỉnh nhỏ là Bê
Lem. Nhưng đã đến gần ngày sinh rồi mà bà Maria, mẹ Đức Chúa Giêsu vẫn còn ở tại Nazaret,
cách Bê Lem chừng vài trăm cây số. Một biến cố
đã xảy ra để ứng nghiệm lời tiên tri: hoàng đế La Mã là Augustus Ceasare
ra lệnh kiểm tra dân số. Mọi người phải trở về nguyên quán để khai tên vào sổ
hộ tịch. Thế là ông Giuse phải đem bà Maria đang mang thai, lên đừơng trở về Bê
Lem, là nơi sinh quán của mình. Đức Chúa Giêsu đã sinh ra tại Bê Lem đúng như
các tiên tri đã ghi chép. Những di tích về thời đại Đức Chúa Giêsu hiện nay vẫn
còn được bảo vệ.
Các nhà sử học và
khảo cổ học đã minh xác về Đức Chúa Giêsu là một nhân vật có thật trong lịch sử
nhân loại. Các chứng tích như: hang đá Bê Lem, nơi Người sinh ra, ngôi nhà
Ngừoi ở tại Nazaret, dinh quan Tổng trấn Ponce Pilastre nơi Ngừơi bị xét xử,
những giọt máu ở cầu thang (hiện nay ngừơi ta dùng những tấm kính úp lên trên để
bảo vệ), ngôi mộ, thập giá khổ hình, khăn liệm có in mặt của Ngừơi (hiện để ở
thành Turin), đồi Calvario, nơi Người chịu chết, núi Olivete, nơi Người lên
trời trứơc mặt các môn đệ và dân chúng (hiện còn dấu chân in sâu vào đá)… cũng
như lời Người giảng dạy, tư tưởng và giáo lý của Ngừơi. Những bản Kinh Thánh cổ
được viết trên da bằng tiếng Aram (Do Thái), tiếng Hy Lạp và La tinh (La
Mã), v.v. hiện còn lưu giữ cho đến ngày nay… Ông Daniel Rops, thuộc Hàn Lâm Viện
Pháp, đã nghiên cứu và công bố nhiều điều xác minh về cuộc đời Đức Chúa Giêsu. Ngoài ra còn có hàng ngàn nhà nghiên cứu khác thuộc các giáo hội: Công Giáo,
Tin Lành, Chính Thống,v.v. hoặc thuộc các huynh hướng tự do khác ngoài Giáo
hội, cũng đã xác nhận những điều được nhắc đến trong Kinh Thánh về Đức Chúa
Giêsu là đúng.
Ngày sinh và năm
sinh của Đức Chúa Giêsu đã được thế giới chọn làm niên lịch mới gọi là lịch
công nguyên (ère chrétienne) hay là Dương lịch, lấy năm Ngừơi sinh ra làm năm
thứ nhất, đến nay đã 2013 năm.
Kitô giáo là do
những người Do Thái, học trò của Đức Chúa Giêsu, trứơc hết truyền bá cho chính
người Do Thái, sau đó mới truyền sang
các dân tộc khác… Nhưng có một số người Do Thái ngày nay vẫn còn trông đợi Đấng
Cứu Thế như tổ tiên của họ trong thời Cựu Ước. Những người nầy chỉ thừa nhận
Kinh Thánh Cựu Ước mà không tin vào Tân Ước.
Đối diện với
Jerusalem có một ngọn núi nhỏ tên là Sion, nơi đó có ngôi mộ của David, từ 3000
năm nay. Người Do Thái xem đó là nơi linh thiêng của họ. Trên ngôi mộ này, từ xưa
tới nay có một ngọn lửa hằng cháy sáng mãi. Danh từ Sionit hoặc “chủ nghĩa
sionit” là do chữ Sion mà ra, có nghĩa là Do Thái muốn trở lại thời đại huy
hoàng của David và Salomon. Họ cứ nghĩ rằng Đấng Cứu Thế là một lãnh tụ chính
trị kiểu David hay Salomon. Họ suy nghĩ theo tinh thần thế tục chứ không theo
tinh thần siêu nhiên của tôn giáo. Do đó, họ vẫn chờ đợi và chưa gặp được Đấng
Cứu Thế đích thực.
Đêm Giáng Sinh
còn được gọi là “Đêm Hoà Bình”, đêm mà thiên thần ca hát:
“Vinh danh
Thiên Chúa trên trời;
Bình an dứơi
thế cho người thiện tâm”
Ngày xưa ở Việt Nam, dù trong thời chiến
tranh, hai bên đều đề nghị “hưu chiến” trong đêm Giáng Sinh. Đêm Noel là đêm
vui mừng cho cả nhân loại, không phân biệt tôn giáo, dân tộc hay thành phần xã
hội. Mọi gia đình đều vui mừng vì đây là ngày vui của mọi người từ trẻ em cho đến
ngừơi lớn: nào cây thông, ông già Noel, những món quà, những cánh thiệp, những
lời chúc tụng tốt đẹp dành cho nhau, tiệc tùng, ca hát, v.v. Riêng người Kitô
hữu thì đến nhà thờ dự Thánh Lễ, kỷ niệm Chúa Giáng Sinh… Những ngừơi khác cũng đi
chơi, đi xem cho biết lễ nghi phong tục, hoà mình vào niềm vui chung của “đêm
hòa bình”.
Chúng tôi xin kính
chúc qúy vị một đêm Noel trong hoà bình, yêu thương… trong tình yêu của Thiên
Chúa đến với nhân loại. Ngừơi đã đến trong nghèo khó, trần truồng, rét lạnh, từ
chối tất cả những tiện nghi sang trọng, giàu có của thế gian. Chúng ta đến với
Chúa, tức là đến với tình yêu và hoà bình chân thật, thì cũng phải bỏ lại tất
cả những đam mê vật chất, những dục vọng đê hèn của trần thế và chỉ có tâm hồn
trong sạch, thiện chí, mới gặp được Ngừời.
GS Nguyễn Lý-Tưởng
2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét