Thứ Ba, 5 tháng 5, 2020

Việt Thi: Ngô Chi Lan (Bài viết: Đỗ Chiêu Đức) & Thơ dịch: Mailoc

Góc Việt Thi : 
                 NGÔ CHI LAN 

                  Inline image                                
                         TỨ THỜI THI

     Ngô Chi Lan 吳 芝 蘭 (1434-?) còn có tên là Nguyễn Hạ Huệ, tự là Quỳnh Hương, tên tục là Ngô Thị Hĩm, là một nữ sĩ dưới triều vua Lê Thánh Tông trong lịch sử Việt Nam. Theo Toàn Việt Thi Lục bà là người làng Phù Lỗ (nay thuộc huyện Kim Anh, Phúc Yên), vợ ông Phù Thúc Hoành (người làng Phù Xá cũng thuộc huyện ấy, làm quan đến Đông Các Đại Học Sĩ). 
    Bà thiên tư thông minh, có tài văn chương, được vua Lê Thánh Tông phong làm Phù Gia Nữ Học Sĩ, ban hiệu là Kim Hoa Nữ Học Sĩ, dạy các cung nữ học. Mỗi khi yến tiệc, vua thường sai làm thơ, chỉ thoắt chốc là bà làm xong ngay, không cần phải sửa chửa gì cả. Năm ngoài 40 tuổi bà mất, táng ở cánh bãi Tây Nguyên. Để tỏ lòng tiếc thương và ngưỡng mộ bà, nhân dân Phù Lỗ đã dựng đền thờ với tên đề “Kim Hoa Nữ Học Sĩ”. Ngôi đền đó hiện nay được đặt ngay trên nền nhà ở ngày xưa của gia đình bà.

         Ngô Chi Lan chỉ có một tập thơ duy nhất là Mai Trang Tập 梅 莊 集 (Tập thơ Vườn Mai). Dưới đây là những bài TỨ THỜI THI rất đặc biệt và độc đáo của bà. 

         * ĐẶC BIỆT vì 4 bài đều là Thất Ngôn Bát Cú, nhưng lại không phải là thơ Đường Luật.
         * ĐỘC ĐÁO vì 4 bài đều chia làm hai VẬN : 4 câu đầu gieo vần TRẮC, 4 câu sau gieo vần BẰNG.

         Đỗ Chiêu Đức đã tôn trọng theo ý của nữ sĩ, nên trừ bài diễn Nôm bằng Lục bát ra, tất cả đều được Diễn Nôm 4 câu đầu gieo vần TRẮC; và 4 câu sau gieo vần BẰNG.
                                                                                                                      杜紹德                                                                                Đỗ Chiêu Đức
                   ....................................................................................

1. Tứ Thời Thi : XUÂN TỪ.

    春詞                             XUÂN TỪ

初 晴 薰 人 天 似 醉,     
Sơ tình huân nhân thiên tự túy,
艷 陽 樓 臺 浮 暖 氣。    
Diễm dương lâu đài phù noãn khí. 
 簾 柳 絮 度 鶯 梭,    
Cách liêm liễu nhứ độ oanh thoa,
繞 檻 花 鬚 穿 蝶 翅。    
Nhiễu hạm hoa tu xuyên điệp xí.
階 前 紅 線 日 添 長,   
 Giai tiền hồng tuyến nhựt thiêm trường.
粉 汗 微 微 沁 綠 裳。  
 Phấn hạn vi vi tẩm lục thường. 
小 子 不 知 春 思 苦,    
Tiểu tử bất tri xuân tứ khổ, 
傾 身 含 笑 過 牙 牀。    
Khuynh thân hàm tiếu quá nha sàng.

        Inline image

* Chú Thích :
   - Sơ Tình 初 晴 : là nắng mới, chỉ nắng của mùa xuân sau ba tháng mùa đông lạnh lẽo.
   - Huân Nhân 薰 人 : là Hanh người, là Làm cho con người cảm thấy ấm áp.
   - Diễm Dương 艷 陽 : là Ánh nắng đẹp, trời nắng rất đẹp đẽ.
   - Oanh Thoa 鶯 梭 : Các con chim oanh len lỏi trong cành liễu như con thoi.
   - Nhiễu Hạm 繞 檻 : là Lòng vòng ở dưới mái hiên.
   - Giai Tiền 階 前 : là Trước thềm.
   - Phấn Hạn 粉 汗... câu 6 : Mồ hôi rịn ra phấn dồi thấm nhè nhẹ vào tà áo xanh.
  
* Nghĩa Bài Thơ :
                                Thơ  Mùa Xuân
        
      - Nắng mới ấm áp hanh người làm cho trời cũng tựa như đang say,
      - Lâu đài chìm trong nắng đẹp cũng chan hòa vẽ ấm áp.
      - Trên cành tơ liễu cách rèm bên ngoài chim oanh len lỏi trong các cành liễu tựa con thoi.
      - Bay vòng dưới mái hiên con bướm bị các tua hoa xuyên qua cánh.
      - Những vệt nắng như những sợi chỉ hồng trước thềm làm cho ngày như dài thêm ra.
      - Mồ hôi rịn ra phấn dồi thấm nhè nhẹ vào tà áo xanh.
      - Chàng tuổi trẻ kia không biết được sự nhớ nhung trong mùa xuân là khổ tâm như thế nào (mùa xuân là mùa đoàn tụ mà phải xa nhau nhớ nhau), nên mới...
      - Nghiêng mình cười mĩm mà đi qua giường ngà (như chẳng có việc gì xảy ra !)

         Nằm trên giường ngà để nhớ người tình xa trong mùa xuân ấm áp tràn đầy nhựa sống thì còn gì khổ tâm và ray rức hơn nữa.  Tâm sự và nỗi lòng nầy làm cho ta nhớ đến nàng thiếu phụ có chồng là quan to, nên mỗi buổi sáng mùa xuân, lúc đôi lứa đang mặn nồng và ấp yêu nhất, thì lại  phải dậy sớm để đi chầu vua, bỏ mặc gối chăn thơm phức và nàng vợ trẻ. Bài thơ "Vị Hữu" của Lý Thương Ẩn như sau:

               Vị hữu vân bình vô hạn kiều,              
                爲 有 雲 屏 無 限 嬌, 
               Phụng thành hàn tận phạ xuân tiêu.    
                鳳 城 寒 盡 怕 春 宵. 
               Vô đoan giá đắc kim qui tế,             
               無 端 嫁 得 金 亀 婿, 
               Cô phụ hương khâm sự tảo triều .       
              辜 負 香 衾 事 早 朝 .

Có nghĩa :
                   Vì có bình phong đẹp lắm mầu
                   Kinh thành hết lạnh, sợ canh thâu
                   Khéo xui lấy được ngài quan lớn
                   Phụ bạc gối chăn, sớm phải chầu!
   Lục Bát :
                   Bình phong đẹp đẽ yêu kiều
                   Phụng thành đông hết, xuân tiêu đêm dài
                   Vô duyên lấy phải quan ngài
                   Gối chăn bỏ hết mặc ai,… đi chầu !

                   Inline image

* Diễn Nôm :
                               THƠ XUÂN

                  Nắng mới hanh người trời túy lúy,
                  Lâu đài nắng đẹp ấm xuân khí.
                  Ngoài rèm tơ liễu rộn oanh ca,
                  Bướm lượn vờn hoa tua rách xí.
                  Vệt nắng trước thềm ngày chẳng nhanh,
                  Mồ hôi hòa phấn thấm bào xanh.
                  Trẻ con nào biết xuân nhung nhớ,
                  Cười mĩm nghiêng mình lại dạo quanh!
    Lục bát :
                  Hanh người nắng mới trời say,
               Nắng lên ấm đẹp lâu đài thêm xuân.
                  Ngoài rèm oanh hót liễu xanh,
             Xuyên hoa cánh bướm lượn quanh hiên nhà.
                  Trước thềm vệt nắng dài ra,
              Mồ hôi rịn phấn thấm tà áo xanh.
                  Trẻ trung nào biết xuân tình,
           Thản nhiên cười mĩm nghiêng mình lướt qua!
                                                    

2. Tứ Thời Thi : HẠ TỪ.

      夏詞                               HẠ TỪ 

風 吹 柳 花 紅 片 片,    
Phong xuy liễu hoa hồng phiến phiến, 
佳 人 閒 打 鞦 韆 院。    
Giai nhân nhàn đả thu thiên viện. 
傷 春 背 立 一 黄 鶯,    
Thương xuân bối lập nhất hoàng oanh, 
惜 景 哀 啼 雙 紫 燕。    
Tích cảnh ai đề song tử yến. 
停 針 無 語 翠 眉 低,    
Đình châm vô ngữ thúy mi đê ,
倦 倚 紗 窗 夢 欲 迷。    
Quyện ỷ sa song mộng dục mê. 
却 怪 捲 簾 人 喚 起,    
Khước quái quyển liêm nhân hoán khởi, 
香 魂 終 不 到 遼 西。    
Hương hồn chung bất đáo Liêu Tê (Tây).
  
     Inline image
        
* Chú Thích :
    - Thu Thiên 鞦 韆 : là Cái Đu; nên ĐẢ THU THIÊN 打 鞦 韆 là Đánh Đu. 
    - Thương Xuân 傷 春 : là Đau xót vì mùa xuân đã đi qua.
    - Bối Lập 背 立 : là Đứng xây lưng lại.
    - Tích Cảnh 惜 景 : là Tiếc cảnh xuân đà hết.
    - Ai Đề 哀 啼 : là Tiếng chim hót bi ai, buồn thảm. Nếu từ nầy dùng cho người thì có nghĩa là "Khóc lóc một cách thảm thiết".  
    - Quyện Ỷ 倦 倚 : Mõi mệt mà vựa vào... SA SONG 紗 窗 : là Cửa sổ có màn che.  
    - Khước Quái 却 怪 : Lại trách rằng... QUÁI là Động từ có nghĩa : Trách móc. 
    - Hương hồn 香 魂 : là cái Hồn thơm, chỉ Hồn của phái nữ. Của phái nữ thì CÁI GÌ cũng thơm cả, kể cả hồn phách. (Mời đọc bài Tạp ghi và Phiếm luận: "HƯƠNG trong Truyện Kiều" sẽ rõ.) 
    - Liêu Tây 遼 西 : Tên một quận xưa nằm ở phía tây của Liêu Hà thuộc tỉnh Liêu Ninh hiện nay, nhưng lại là vùng biên tái ngày xưa. 

* Nghĩa Bài Thơ :
                                THƠ  MÙA HÈ
       Gió thổi hoa liễu từng mảnh từng mảnh đo đỏ bay bay. Người đẹp rảnh rỗi nên chơi đánh đu ở trong sân nhà. Vì thương xót cho mùa xuân đã đi qua nên một con oanh còn kêu trên cành liễu và hai con én tía còn tiếc cảnh xuân mà cất tiếng líu lo buồn bã. Nàng ngừng mũi kim thêu đôi mày biếc cúi thấp xuống, mỏi mệt tựa vào màn nhiễu của song cửa chập chờn trong giấc mộng. Chỉ trách ai đó đã đến cuốn rèm làm cho nàng giật mình tỉnh giấc, nên mộng hồn rốt cuộc vẫn không thể đến được xứ Liêu Tây nữa rồi.

       Đọc bài thơ nầy làm cho ta nhớ đến bài kệ của Thiền sư Thích Trung Nhân đời Tống 宋 .释 中 仁 là:

                 二 八 佳 人 刺 繡 遲,    
                Nhi bát giai nhân thích tú trì, 
                 紫 荊 花 下 囀 黃 鸝。  
               Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng li. 
                 可 憐 無 限 傷 春 意, 
               Khả lân vô hạn thương xuân ý, 
                 盡 在 停 針 不 語 時。  
              Tận tại đình châm bất ngữ thì! 
Có nghĩa :
                Thêu thùa lơ đễnh giai nhân,
                Dưới cành hoa tím chim oanh hót chào.
                Thương thay xuân sắc dạt dào,
                Ngừng kim lặng lẽ biết bao ý tình!

       Hai câu chót của bài thơ lại làm cho ta nhớ đến bài "Y Châu Ca 伊 州 歌" của Kim Xương Tự 金 昌 绪(Có bản cho là Xuân Oán 春 怨 của Cáp Gia Vận 亦 作 蓋 嘉 運)đời Đường:

  打 起 黃 鶯 兒,   Đả khởi hoàng oanh nhi,
  莫 教 枝 上 啼。   Mạc giao chi thượng đề.
  啼 時 驚 妾 夢,   Đề thời kinh thiếp mộng,
  不 得 到 遼 西。   Bất đắc đáo Liêu Tê (Tây).           
 Có nghĩa :
                Đuổi đi con chim hoàng oanh,
                Đừng để trên cành cất tiếng hót vang.
                Giật mình thiếp tỉnh mộng vàng,
                Liêu Tây khó đến thăm chàng đêm nay!  

 





Ngồi ở cảnh mùa hè, mà lại cứ nhớ tiếc cảnh mùa xuân. Bài thơ có tựa là HẠ TỪ (Thơ mùa Hạ) nhưng đúng ra là một bài thơ THƯƠNG XUÂN (Thương cảm cho mùa Xuân) thì đúng hơn.

*Diễn Nôm :
                              HẠ TỪ
    
         Lấm chấm liễu hồng bay phất phới,
         Người đẹp đánh đu lòng phơi phới.
        Thương cảm oanh vàng một tiếng kêu,
        Đôi chim én liệng buồn hè tới.
        Dừng kim nín lặng nhíu mày xanh,
       Tựa màn song cửa mộng hồn quanh.
       Trách kẻ kéo rèm làm tỉnh giấc,
       Liêu Tây chẳng thể đến cùng anh.
    Lục bát :
                   Liễu hồng bay rụng phất phơ,
             Đánh đu người đẹp vẩn vơ vườn nhà. 
                   Thương xuân một chú oanh già,
             Một đôi chim én la đà tiếc xuân.
                   Dừng kim nín lặng tần ngần,
            Tựa song hồn mông lâng lâng cỏi nào.
                   Trách ai kéo tỉnh giấc đào,
           Liêu Tây rốt cũng không sao gặp chàng!   
                                            
            
3. Tứ Thời Thi : THU TỪ
            
          秋詞                               THU TỪ

  清 商 浮 空 澄 霽 景,   
 Thanh thương phù không trừng tể cảnh,
 霜 信 遙 將 孤 雁 影。  
 Sương tín diêu tương cô nhạn ảnh. 
十 丈 蓮 殘 玉 井 香,    
Thập trượng liên tàn ngọc tỉnh hương, 
三 更 楓 落 吳 江 冷。    
Tam canh phong lạc Ngô giang lãnh. 
飛 螢 夜 度 碧 闌 干,   
 Phi huỳnh dạ độ bích lan can,
衣 薄 難 禁 剪 剪 寒。  
 Y bạc nan câm tiễn tiễn hàn. 
聲 斷 洞 簫 凝 立 久,  
Thanh đoạn động tiêu ngưng lập cữu, 
瑤 臺 何 處 覓 驂 鸞 ?    
Dao đài hà xứ mịch tham loan?

         Inline image
* Chú Thích :
    - Thanh Thương 清 商 : THANH là Trong, THƯƠNG là Một trong Ngũ Âm : Cung, Thương, Giốc, Trủy, vũ. THƯƠNG có giọng thê lương bi thiết, nên gọi là Thanh Thương. Ở trong bài mượn để chỉ tiếng gió thu hiu hắt. 
    - Trừng Tể 澄 霽 : TRỪNG là trong vắt. TỂ là Trời vừa tạnh mưa, nên TRỪNG TỄ là Trời quang mây tạnh.
    - Sương Tín 霜 信 : là Tin Sương. Mỗi năm cứ gần đến tiết Sương giáng thì có chim nhạn bay đến trước để báo tin, nên thấy nhạn bay đến là biết sắp có sương rơi. Lâu dần, Tin Sương chỉ còn có nghĩa chỉ "Tin Tức" mà thôi. Như trong Truyện Kiều tả cô Kiều nhớ nhà lúc ở lầu Ngưng Bích: "Tin Sương luống những rày trông mai chờ".
    - Cô Nhạn 孤 雁 : là Con nhạn cô độc.
    - Ngọc Tỉnh 玉 井 : là Giếng Ngọc. Theo truyền thuyết, trên núi Thái Hoa có giếng ngọc, trong giếng có bạch liên ngàn cánh. Người nào ăn được hoa sen trắng ngàn cánh nầy có thể lên tiên. Trong bài thơ CỔ Ý của Hàn Dũ đời Đường có câu: "Thái Hoa phong đầu ngọc tỉnh liên, Hoa khai thập trượng ngẫu như thuyền 太 华 峰 头 玉 井 莲, 花 开 十 丈 藕 如 船", vì thế NGỌC TỈNH còn gọi là BẠCH LIÊN TRÌ 白 莲 池 là "Giếng hoa sen trắng".
    - Phi Huỳnh 飛 螢 : là Những con đom đóm lập lòe đêm thu.
    - Nan Câm 難 禁 : Khó mà cấm, Khó tránh khỏi, Không ngăn được...
    - Tiễn Tiễn Hàn 剪 剪 寒 : Từng trận từng trận gió lạnh.
    - Ngưng Lập 凝 立 : là Ngưng đọng lại, Đứng một chỗ.
    - Dao Đài 瑤 臺 : là Lầu cao được dát ngọc, thường dùng để chỉ chỗ tiên ở.
    - Tham Loan 驂 鸞 : THAM là Xe ba ngựa kéo. LOAN là Chim Loan. THAM LOAN có nghĩa Cởi Chim Loan lên tiên dạo chơi.

* Nghĩa Bài Thơ :
                            THƠ MÙA THU
        Tiếng gió thu se sắt như cung thương rít trong cảnh từng không trong vắt khi trời quang mây tạnh. Nhìn bóng nhạn cô đơn mà mong ngóng tin sương. Hoa sen trắng đã tàn nhưng củ sen mười trượng trong giếng ngọc vẫn tỏa hương. Canh điểm ba nửa đêm lá cây phong rụng xuống làm cho nước sông Ngô chợt lạnh thêm. Những con đom đóm ban đêm bay vào lan can bằng đá xanh biếc. Áo mỏng nên không ngăn nổi từng trận từng trận gió lạnh. Tiếng tiêu ngọc đà chấm dứt hèn lâu mà người vẫn còn tần ngần đứng đó. Biết chim tham loan ở đâu mà tìm để cởi về Dao Đài cho đây ?
                   
                    Inline image
* Diễn Nôm :
                        THU TỪ
               Gió thu se sắt tầng xanh ngắt,
               Cánh nhạn tin sương trời trong vắt.
               Mười trượng sen tàn giếng tỏa hương,
               Ba canh phong rụng sông lạnh ngắt.
               Đêm về đom đóm lượn lan can,
               Gió thổi áo the rét ngập tràn.
               Lặng ngắt tiêu thiều thanh đứt đoạn,
               Dao đài tìm chốn cởi tham loan.
   Lục bát :
               Gío thu hiu hắt trời quang,
               Tin sương cô nhạn vút ngang lưng trời.
               Sen tàn hương tỏa nơi nơi,
               Ngô giang phong rụng nước trôi lạnh lùng.
               Lan can đóm lượn đêm nhung,
               Áo the từng trận lạnh cùng gió thu.
               Tiêu thiều lặng ngắt từ lâu,
               Dao Đài muốn đến phải cầu tham loan.
                                       

4. Tứ Thời Thi : ĐÔNG TỪ.

    冬 詞                             ĐÔNG TỪ

寶 爐 撥 火 銀 瓶 小,    
Bảo lô bát hỏa ngân bình tiểu, 
一 杯 羅 浮 破 清 曉。    
Nhất bôi La Phù phá thanh hiểu. 
雪 將 冷 意 透 疎 簾,    
Tuyết tương lãnh ý thấu sơ liêm, 
風 遞 輕 冰 落 寒 沼。    
Phong đệ khinh băng lạc hàn chiểu. 
美 人 金 帳 掩 流 蘇,    
Mỹ nhân kim trướng yễm lưu tô, 
紙 護 雲 窗 片 片 糊。    
Chỉ hộ vân song phiến phiến hồ. 
暗 裏 挽 回 春 世 界,    
Ám lý vãn hồi xuân thế giới,
一 株 芳 信 小 山 孤.      
Nhất chu phương tín tiểu sơn cô.

        Inline image

* Chú Thích :
    - Bảo Lô Bát Hỏa 寶 爐 撥 火 : là Bươi lửa (than) trong các lò nhỏ (qúy).
    - Nhất Bôi La Phù 一 杯 羅 浮 : Một ly rượu La Phù.
    - Thanh Hiểu 清 曉 : Buổi sáng trong lành.
    - Sơ Liêm 疎 簾 : là Bức rèm thưa.
    - Hàn Chiểu 寒 沼 : Đầm (ao) nước lạnh.
    - Kim Trướng 金 帳 : là Cái mùng bằng chỉ kim tuyến.
    - Lưu Tô 流 蘇 : Cái viền mùng có tua đẹp.
    - Ám lý 暗 裏 : Trong âm thầm. Trong lặng lẽ.
    - Nhất Chu Phương Tín 一 株 芳 信 : là do câu thơ của Tô Đông Pha đời Tống: "Niên niên phương tín phụ hồng mai 年 年 芳 信 负 红 梅". Có nghĩa: Mỗi năm cái cây mang lại tin thơm là đều dựa vào hồng mai cả. Ý chỉ mỗi năm báo tin thơm (tin của mùa xuân sắp đến) đều là nhờ vào hồng mai cả! Còn dân miền Nam Việt Nam ta thì chỉ biết có mai vàng báo tin xuân mà thôi, cũng như dân Miền Bắc, hễ cứ "Mỗi năm hoa đào nở" là biết xuân về Tết đến ngay!

* Nghĩa Bài Thơ :
                                Thơ Mùa Đông
        Khều lửa trong cái lò qúy để cho cái bình bằng bạc nho nhỏ ở trên, hâm lên một chung rượu La Phù để phá tan cái lạnh của một buổi sớm mai trong lành. Tuyết đem cái ý lạnh thấm qua bức màn thưa bên song của và gió lạnh đã đưa những làn băng mỏng rơi trên mặt ao lạnh. Cái màn bằng kim tuyến của người đẹp có tua viền đẹp đẽ phủ quanh. Trong khi bên cửa sổ chỉ che đậy bằng những mảnh giấy ván bằng hồ. Trong âm thầm cái thế giới của mùa xuân đang được vãn hồi, khi tin thơm của cây hồng mai đang trổ bông trên ngọn núi cô đơn nho nhỏ.

        Inline image
  
* Diễn Nôm :
                          ĐÔNG TỪ

               Bình bạc than hồng bên lò nhỏ,
               La Phù một chén trời sáng tỏ.
               Tuyết đem hơi lạnh thấm rèm thưa,
               Gió bấc đưa băng ao đóng bó.
               Người đẹp màn vàng phủ nhiễu tô,
               Bên song cản gió giấy thoa hồ.
               Âm thầm thế giới xuân hồi phục,
               Một cội mai hồng nở núi cô.
   Lục bát :
               Lò hồng bình bạc lửa reo,
            La phù một chén sáng theo nhau về.
               Tuyết rơi lạnh thấm màn the,
            Gió đưa băng mỏng phủ che mặt hồ.
               Trướng vàng người đẹp nhiễu tô,
             Giấy hoa chắn gió song hồ căm căm.
               Hồi xuân thế giới âm thầm,
            Một cành mai đỏ trổ bông báo điềm !

       Trên đây là TỨ THỜI THI đủ bốn mùa XUÂN HẠ THU ĐÔNG của nữ sĩ Ngô Chi Lan, một nữ tài danh thi nhân Việt nam dưới thời Hậu Lê, Trịnh Nguyễn.
       Xin được giới thiệu cùng tất cả các Thầy Cô, Các Thân Hữu trong Vườn Thơ Thẩn cùng tất cả các em học sinh thần mến; nếu có cảm hứng, xin cùng dịch cho vui!
                        Nay kính,
                     Đỗ Chiêu Đức
                         杜紹德
                     04-30-2020 
               
                                                            ***** 
       Mailoc xin phỏng dịch

                  TỨ THỜI THI
Xuân: 
         Trời như say ánh dương tỏa ấm
          Đẹp lâu đài vương vấn nắng hanh
          Phất phơ rèm liễu thoi oanh
          Hoa dồi phấn bướm loanh quanh mơ màng.
          Ngày dài ra tơ vàng óng ánh
          Mồ hôi lụa ướt đẫm hương bay
          Xuân sầu trẻ dại nào hay
          Giường ngà ghé mắt thơ ngây cợt cười.
                   Mailoc phỏng dịch

HẠ :
           Lựu hồng tươi gió lồng phất phới
          Xiêm người đẹp chấp chới trên đu.
          Hoài Xuân én réo vi vu
          Hoàng anh tiếc cảnh bùi ngùi chúa Xuân
          Lặng đường kim bâng khuâng mày nhíu
         Tựa song buồn thiu thỉu mộng say
         Giật mình rèm cuốn trách ai
         Hồn em chưa kịp Liêu Tây bên người.
                       MaiLoc phỏng dịch

THU :
          Trời xanh lơ hơi may hiu hắt
          Tin sương về lác đác nhạn bay.
          Sen tàn giếng ngọc hương phai
          Trời khuya lá rụng lạnh đầy sông Ngô
          Đóm lập loè ngọc tô rèm quạnh
          Rét từng cơn mỏng mảnh áo hàn 
          Lầu tiêu im bặt mênh mang
          Đài Dao nào biết dấu loan xanh mờ!
                        MaiLoc phỏng dịch

ĐÔNG :
          Lửa hồng nhúm, hương xông bình bạc
          Rượu tiêu sầu hương ngát ban mai
          Lọt rèm tuyết lạnh song cài
          Gió xao băng rụng trải dài mặt ao.
          Nhà người đẹp gấm thao trướng bạc
          Cửa văn phòng hồ phất gió ngăn
          Thần xuân như đã âm thầm
          Núi sâu một nhánh mai vàng vừa khai!
                    MaiLoc phỏng dịch
                       4-30-2020





Không có nhận xét nào: