Góc Đường Thi :
GIANG TUYẾT, NGƯ ÔNG
Liễu Tông Nguyên
LIỄU TÔNG NGUYÊN 柳 宗 元(773-819), tự là Tử Hậu 子 厚,người đất Hà Đông, nên còn gọi là Liễu Hà Đông 柳 河 東. Ông là nhà chính trị, nhà tư tưởng, nhà văn học, và là nhà thơ của buổi Trung Đường. Ông là một trong Đường Tống Bát Đại Gia 唐 宋 八 大 家 (Tám người giỏi văn thơ nhất đời Đường và đời Tống), là dòng dõi thế phiệt hiễn hách mấy đời, tuổi trẻ đã đậu đạt hiển vinh, thanh vân đắc ý. Ông từng tham gia cải cách tân chính với Vương Thúc Văn. Cải cách thất bại, ông bị biếm đi làm Tư Mã ở Vĩnh Châu, lại bị giám sát, cuộc sống ngột ngạt. Mười năm sau lại bị biếm đi làm Thứ Sử Liễu Châu và mất ở nơi đây. Hưởng dương 46 tuổi. Để lại một tập Thơ, Truyện, Luận "Liễu Hà Đông Tập 柳 河 東 集".
Bài thơ GIANG TUYẾT được Liễu Tông Nguyên làm trong khoảng thời gian bị biếm ở đất Vĩnh Châu (805-815). Năm Vĩnh Trinh Nguyên niên đời Đường Thuận Tông (805) khi cùng với Vương Thúc Văn phát động phong trào Cải Cách đổi mới, áp chế thế lực của hoạn quan bên trong và chế ngự nổi loạn của các Phiên trấn bên ngoài. Nhưng thế lực phản động quá mạnh nên phong trào cải cách thất bại. Ông bị biếm làm Tư Mã Vĩnh Châu, tiếng là bị biếm, thực ra là đi đày, còn bị quản chế bởi các quan lại địa phương, ông như bị giam lỏng; nhưng với tinh thần bất khuất và ý chí kiên cường, ông luôn phản kháng lại với mọi hình thức. Bài thơ Giang Tuyết cũng là một trong những biểu hiện phản kháng không khuất phục của ông thông qua thi ca. Ta hãy đọc và nghiền ngẫm bài thơ thì sẽ rõ...
江 雪 GIANG TUYẾT
千 山 鳥 飛 絕, Thiên sơn điểu phi tuyệt,
萬 徑 人 蹤 滅。 Vạn kính nhân tung diệt.
孤 舟 蓑 笠 翁, Cô chu toa lập ông,
獨 釣 寒 江 雪。 Độc điếu hàn giang tuyết !
柳 宗 元 Liễu Tông Nguyên
* Nghĩa bài thơ :
TUYẾT RƠI TRÊN SÔNG
Ngàn núi chim đã bay tuyệt mù mất hút cả rồi; Muôn lối đi ngỏ ngách cũng bặt tăm không một bóng người, chỉ còn lại có một ông lão áo tơi nón lá trên một chiếc thuyền cô độc lẻ loi đang buông cần câu trên dòng sông tuyết rơi lạnh lẽo!
Cái tinh thần bất khuất phản kháng của Liễu Tông Nguyên được thể hiện qua hình ảnh đơn độc của một ông câu kiên cường vẫn buông cần trên sông tuyết, bất chấp cái lạnh lẽo hoang vắng của cảnh trí tuyết rơi, trong khi chim muông và người bộ hành đều vắng bóng! Đọc bài này làm cho ta nhớ đến bài thơ hiếm hoi của Tú Xương bày tỏ nỗi niềm tâm sự của mình với dân với nước:
ĐÊM DÀI
Sực tỉnh trông ra ngỡ sáng loà
Đêm sao đêm mãi thế ru mà?
Lạnh lùng bốn bể ba phần tuyết
Xao xác năm canh một tiếng gà
Chim chóc hãy còn nương cửa tổ
Bướm ong chưa thấy lượn vườn hoa
Nào ai là kẻ tìm ta đó
Đốt đuốc mà soi kẻo lẫn nhà!
* Diễn Nôm :
GIANG TUYẾT
Ngàn núi chim bay hết,
Muốn lối dấu người tiệt.
Áo lá chiếc thuyền câu,
Buông cần trên sông tuyết !
Lục bát :
Ngàn non chim mỏi cánh bay,
Vắng tanh muôn lối chẳng ai đi về .
Buông câu sông tuyết sơn khê,
Áo tơi nón lá tư bề một ông !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Sau đây là bài thơ NGƯ ÔNG 漁 翁 của ông làm cũng trong thời gian bị đày ở Vĩnh Châu; mặc dù thất ý trong chính trường ông vẫn tỏ cao nhã trong cuộc sống với bản chất cao khiết của mình chứ không bi quan yếm thế. Ta hãy đọc bài thơ NGƯ ÔNG của ông sau đây sẽ rõ...
漁 翁 NGƯ ÔNG
漁 翁 夜 傍 西 巖 宿, Ngư ông dạ bạng tây nham túc,
曉 汲 清 湘 燃 楚 竹。 Hiểu cấp thanh Tương nhiên Sở trúc.
煙 銷 日 出 不 見 人, Yên tiêu nhật xuất bất kiến nhân,
欸 乃 一 聲 山 水 綠。 Ải nãi nhất thanh sơn thủy lục.
回 看 天 際 下 中 流, Hồi khan thiên tế há trung lưu,
巖 上 無 心 雲 相 逐。 Nham thượng vô tâm vân tương trục!
* Chú thích :
- Ngư Ông 漁 翁 : NGƯ 漁 có ba chấm Thủy 氵bên trái, có nghĩa là Cái gì đó thuộc về Cá hay có liên quan đến Cá; nên NGƯ ÔNG là Ông lão đánh bắt cá; NGƯ THUYỀN là thuyền dùng để đi bắt hoặc câu cá...
- Dạ Bạng 夜 傍 : BẠNG là bên cạnh, nên DẠ BẠNG là Cạnh đêm, có nghĩa là Gần tối, là Hoàng hôn, là Chạng vạng tối.
- Tây Nham 西 巖 : NHAM là hòn núi, tảng đá lớn. TÂY NHAM là Ngọn núi phía tây.
- Cấp 汲 : là Múc nước.
- Yên Tiêu 煙 銷 : YÊN ở đây chỉ khói sương trên sóng nước, nên YÊN TIÊU là Khói sương trên sóng nước tan đi.
- Ải Nãi 欸 乃 : Từ thượng thanh chỉ tiếng "kẽo kẹt" của mái chèo khi xoay chèo lướt tới.
- Tương Trục 相 逐 : TƯƠNG là Với nhau; TRỤC là rượt đuổi, nên TƯƠNG TRỤC là Đuổi bắt nhau.
* Nghĩa Bài thơ :
ÔNG LÃO ĐÁNH CÁ
Ông lão đánh cá lúc gần tối thì tá túc qua đêm ở bên bờ núi tây. Buổi sáng thì múc nước trong của dòng sông Tương rồi nấu bằng tre của đất Sở. Khi mặt trời lên, lúc khói sóng tan đi thì cũng chẳng thấy bóng một người nào cả. "Kẽo kẹt" một tiếng thuyền lại lướt đi giữa non xanh nước biếc. Quay nhìn dòng nước chảy tận phía chân trời xa xa ở hạ lưu, chỉ thấy trên núi cao các đám mây như vô tình cứ rượt đuổi nhau mãi tận bên trời.
Vui với cuộc sống giản dị, nhàn nhã thanh cao với non xanh nước biếc, xuôi thuyền trên sông để ngắm núi xanh mây trắng mà lãng quên thế sự.
* Diễn Nôm :
NGƯ ÔNG
Đêm xuống ngư ông trọ núi tây,
Nước Tương tre Sở sáng là đây.
Nắng lên sương khói mờ nhân ảnh,
Kẽo kẹt chèo buông sóng nước đầy.
Quay nhìn mút mắt theo dòng chảy,
Đầu núi đuổi nhau trắng những mây !
Lục bát :
Ngư thuyền đêm trọ núi tây,
Nước Tương tre Sở sáng ngày loay hoay.
Khói tan nắng đẹp sương phai,
Non xanh nước biếc thuyền ai kẽo-cà...
Quay đầu mặt nước xa xa,
Núi xanh mây trắng bay qua bên trời !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Hẹn bài viết tới !
杜 紹 德
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét