NGÔI SAO LẠ, MỘT THOÁNG BẮT GẶP TRONG NỀN VĂN CHƯƠNG CÔNG GIÁO
Nguyễn Đức Cung
Trong tù CS tôi cũng đã có chút kỷ niệm về “ngôi sao lạ”. Đó là lễ Giáng Sinh năm 1980, ở trại tù Nam Hà (Hà Nam Ninh) tôi cùng một người bạn, anh Phạm Tấn Mới, nay ở Texas, làm một đèn ngôi sao phải mất một tháng (vì phải tìm giấy màu và tre) dấu trên trần nhà buồng giam kẻo bọn “chó vàng” biết, và tối Noel lấy đèn xuống treo vào ngọn điện của buồng giam, buồng số 7…
1.-Về ngôi sao lạ trên không.
“Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Vidimus stellam ejus in oriente et venimus adorare Eum” Mát-thêu 2: 1-2).
Khi định nghĩa về văn chương, học giả Phan Kế Bính đã cho biết : “văn là vẻ đẹp, chương là vẻ sáng”, vậy thì thiên văn 天 文 sau những danh từ kép như thiên nhiên, thiên tượng, thiên thể, thiên quốc, thiên mệnh v.v… sẽ phải được định nghĩa như là vẻ đẹp của trời đất, mà đẹp nhất trong mùa giáng sinh đối với người Kitô Hữu đó là hiện tượng ngôi sao lạ được Thánh sử Mát-thêu nói tới trong sách Tin Mừng của ngài.
Ngôi sao lạ là một hiện tượng phổ biến trong nền văn chương Ki-Tô Giáo nhất là từ khi Thánh Phanxicô Khó Khăn có sáng kiến làm hang đá vào dịp Lễ Giáng Sinh từ thế kỷ XII và sau đó lan tràn khắp thế giới.
Tại Giáo Phận Huế có Linh Mục Sảng Đình Nguyễn Văn Thích (1891-1978) là người có nhiều tài năng, nhất là làm thơ. Trong tập thơ Sảng Đình Thi Tập của Ngài có bài thi “Ngôi Sao Lạ” nhưng cũng hát được theo điệu Đăng Đàn Cung vốn là phần nhạc khi cử quốc thiều của Triều Nguyễn (Thanh Tịnh xb, California, USA, 2001, trang 112-114).
Trong cuốn ĐỨC GIÊ-SU, CUỘC ĐỜI VÀ THỜI ĐẠI, viết bằng tiếng Anh (Jesus and His times) của sáu tác giả người Mỹ, Charles Bricker, Lionel Casson, Charles Flowers, Wendy Murphy, Bryce Walker, Bernard Weisberger do Nguyễn Ước dịch, có viết rằng: “Khi Đức Giê-su ra đời, chúng ta được kể về Các Nhà Chiêm Tinh – (còn gọi là nhà thông thái, đạo sĩ, hoặc theo truyền khẩu, ‘các vua’) – “từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem, và hỏi: ‘Đức Vua dân Do Thái mới sinh ra hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt. 2:1-2) Mát-thêu không diễn tả đầy đủ ngôi sao mà Các Nhà Chiêm Tinh đi theo, ngoài việc mô tả nó là một hiện tượng lạ lùng. Nó là ngôi sao chuyển động thẳng phía trước Các Nhà Chiêm Tinh và dừng lại ngay trên ngôi nhà Đức Giê-su ở. Những nhà khảo cứu bằng chứng lịch sử thấy chẳng có gì ăn khớp. Không có chỉ dấu nào về một ngôi sao chỗi lớn xuất hiện cách tự nhiên vào thời Đức Giê-su ra đời, dù người ta có thể thấy sao chỗi nổi tiếng Ha-lây vào năm 12 trước C.N. Nhiều sao chỗi xuất hiện suốt lịch sử theo chu kỳ đều đặn đáng tin nhưng hiếm khi xảy ra chuyện chúng có vẻ báo điềm lạ hoặc điềm xấu.” (Nhà xb. Văn hóa Thông tin, 2003, trang 45). Đọc tiếp đoạn dưới, các tác giả này viết tiếp: “Một số người suy đoán Mát-thêu, vốn không phải chiêm tinh gia, đã có thể dễ dãi diễn tả hiện tượng đặc biệt đó cách giản dị là “một ngôi sao”. (trang 46).
Quả thật, các tác giả người Mỹ trên đây đã hời hợt không biết Mát-thêu đưa ra tín hiệu nào về “một ngôi sao”, nhưng các nhà chú giải Kinh Thánh của Công Giáo, Chính Thống Giáo hay Tin Lành chắc chắn là phải biết ý nghĩa của ba chữ “một ngôi sao” là muốn nói điều gì.
Trong sách The Catholic Study Bible, các nhà chú giải Kinh Thánh đã viết: “Chúng tôi đã thấy ngôi sao của ngài: đây là một niềm tin cũ mang tính phổ quát là một ngôi sao mới đã xuất hiện vào thời có một đấng thống trị sinh ra. Mát-thêu cũng trích dẫn câu chuyện của Balaam trong Cựu Ước, người đã nói tiên tri rằng “một ngôi sao sẽ xuất hiện từ Gia-cóp” (Dân số, 24, 17), mặc dầu ở đó ngôi sao không có nghĩa là một hiện tượng thiên văn mà chỉ một ông vua.” (Oxford University, 2006,trang 1254).
Trong cuốn The Orthodox Study Bible, các học giả Kinh Thánh đã viết về Ngôi Sao Lạ như sau: “Ngôi sao nói lên ý nghĩa quan trọng khác thường của việc hạ sinh Chúa Cứu Thế Hài Nhi. Trong thời cổ đại ngôi sao tượng trưng cho một vị thần, một quân vương được thần hóa (Dân số 24:17). Ngôi sao này là dấu hiệu của chính Đấng Messia, có nghĩa là ánh sáng Người sẽ soi chiếu trên thế gian.” (Nhà xb. Thomas Nelson Publishers, Nashville, Tennessee, 1993, trang 6).
2.-Những người thấy Ngôi Sao Lạ.
Balaam là một tiên tri ngoại giáo mà cũng nói trước về sự sinh hạ của Đấng Cứu Chuộc qua “ngôi sao lạ”, thì việc ba nhà chiêm, đạo sĩ hay ba vua ở phương Đông nhờ ánh sao chỉ đường mà có thể tìm tới thờ lạy Hài Nhi Giê-su quả là một biến cố mang ý nghĩa trọng đại.
Theo từ nguyên, Magi là tiếng Hy lạp có nghĩa là các nhà thông thái, các đạo sĩ hay ba vua theo truyền thống của Hòa Lan, Đức và kể cả Việt Nam. Tại các quốc gia Âu Châu lễ ba vua được tổ chức rất lớn. Các nhà thông thái này là những người có thể xuất phát từ Ba Tư, Babylon hay Ả-rập đến bái lạy trẻ Giê-su là Đấng Thiên Sai. Tiếng Hy lạp dùng trong Mát-thêu chỉ các nhà thông thái được dịch ra tiếng Anh là các nhà chiêm tinh. Dõi theo một ngôi sao, họ từ phương Đông tìm đến Bethlehem với các lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược. Tại sao họ đến từ phương Đông? Đọc trong Cựu Ước chúng ta thấy Abraham là tổ phụ dân Do Thái, được Thiên Chúa gọi từ miền Ur tức phía đông đất nước Do Thái hiện nay, rồi đi tới một miền đất mới. Khi tổ phụ Abraham ra đi khoảng thế kỷ 18 trước C.N, bà con của ông còn lại ở vùng Ur rất nhiều cho nên các nhà chiêm tinh có thể là hậu duệ của Abraham trong nhiều sắc dân ở phương Đông. Tổ phụ Abraham từ Ur tiến lên phía bắc dọc theo sông Euphrates qua Larsa, Erech hoặc Nippur tới Babylon lên Sippar… rồi hướng về phía tây đi tới đất Canaan. Một vài câu chuyện truyền thống cũ đã nối kết các nhà chiêm tinh này với Zoroaster và truyền thống này còn tồn tại khi khoảng năm 614 quân đội xâm lăng Ba Tư chừa lại Thánh đường Giáng Sinh của Giáo đoàn Thánh Justinian mà không triệt phá vì ở đó có một thánh tích là trang phục Ba Tư của một trong ba nhà chiêm tinh được cất giữ ở đó. Nhà thần học Tertullian của thế kỷ thứ hai nhắc nhở các nhà chiêm tinh như là những vị vua và đến thế kỷ thứ sáu thì truyền thống này được phổ biến rộng rãi. Nhà thần học Origen trong thế kỷ thứ ba cho rằng các vị vua đó là những nhà thông thái, cho đến thế kỷ thứ sáu họ được gắn cho các tên là Caspar, Melchior, và Balthasar. Trong thời Trung Cổ, các nhà chiêm tinh này được coi như là các vị thánh và các thánh tích của họ được Frederick Barbarossa đưa về Giáo đường Cologne năm 1162 (Theo Who’s Who In The Bible của Joan Comay và Ronald Brownrigg, 1971, trang 262).
Ý nghĩa của ba lễ vật vàng (gold), nhũ hương (frankincense) và mộc dược (myrrh) được các nhà chiêm tinh dâng lên Chúa Hài Nhi mang nhiều yếu tố cao cả đặc biệt: vàng, tượng trưng cho uy quyền của vị quân vương, nhũ hương chỉ sự thánh thiêng thơm ngát chốn cung điện, và mộc dược tượng trưng phẩm liệu ướp xác người quyền quý khi họ mất. Nhưng đây là những lời tôi giải thích theo một số kiến thức đọc được trong sách vở trước đây. Một lối giải thích khác có chỗ hay hơn và thấm nhuần mùi đạo vị hơn sẽ được gặp thấy ở sau.
Trong một bộ sách của Maria Valtorta nhan đề tiếng Ý là Il Poema Dell’ Uomo-Dio, bản tiếng Anh đề là The Poem Of The Man-God, và bản tiếng Pháp có tên L’Évangile tel qu’il m’a été révélé, Linh mục Nguyễn Phương (1921-1997) trong thời gian ở tại nhà hưu dưỡng Dòng Đồng Công (Missouri) dịch bộ sách đồ sộ này ra tiếng Việt có tên Người Thần Truyện Thánh, và Nt. Phạm Thị Hùng, CMR cũng có dịch ra tiếng Việt dựa trên bản tiếng Pháp và đã được in ở Việt Nam năm 2007 với cái tên Tin Mừng như đã mặc khải cho tôi (in năm 2008).
Trước hết xin lưu ý quý độc giả rằng bộ sách Người Thần Truyện Thánh của Maria Valtorta mà Linh mục Nguyễn Phương dịch là Maria Vân Tước Tử được viết do chính Chúa Giê-su, Mẹ Maria và một thiên thần đọc cho Chị ấy viết, cho nên những đoạn chúng tôi trích dẫn dưới đây rút ra từ bộ sách đã được mặc khải, đã đưa Maria Valtorta trở thành một nhà nhiệm khải nổi danh khắp nơi. Sau đây là một vài nét sơ lược về tiểu sử của Chị.
Maria Valtorta (1897-1973) là một nhà mạc khải tư có tiếng trên thế giới trong thế kỷ 20. Chị sinh ngày 14-3-1897 tại Caserta, nước Ý, chỗ thân phụ là một đội trưởng kị binh đang phục vụ, và mất ngày 12-10-1961. Học lực của Valtorta bình thường, từ 1917 đến mùa hè 1920 làm nữ y tá trong các bệnh viện. Năm 1929 gia nhập phong trào Công Giáo Tiến Hành. Ngày 01 tháng 7 năm 1930, Valtorta dâng mình làm nạn nhân cho phép công thẳng Chúa và được Chúa nhậm lời nên chị bị đau đớn triền miên. Từ năm 1934 đến 1961 chị bị liệt giường cho đến khi chết. “Từ năm 1943 đến 1951, Maria Valtorta đã viết tay hơn 15,000 trang giấy (120 tập vở). Chị ta viết một mách (không chuẩn bị, không phác thảo, không hề sửa chữa, và cũng không đọc lại xem mình đã viết gì. Tác phẩm của chị ta gồm những bức tranh mô tả cảnh vật (tả như Chị ta thấy và nghe được) và những bản văn viết theo lối viết chính tả (theo lời đọc của Chúa Giê-su, Đức Trinh-nữ, và một vị thiên thần). Thể văn trong các chỗ mô tả và các bài chính tả khác nhau một cách rõ rệt. Tại đây chúng ta chứng kiến được sự kiện này, là kết quả, tức là tác phẩm, dường như vượt quá khả năng của nguyên nhân, tức là Maria Vân-tước-tử” (Gabriel M. Roschini, La Vierge Marie dans l’oeuvre de Maria Valtorta, Linh mục Nguyễn Phương dịch Đức Trinh-Nữ trong di bút của Maria Vân-tước-tử, bản dịch tiếng Việt của Vân-Tước Thư-Xá, 1994, trang 6). Đây là một bộ sách đồ sộ về lượng cũng như về phẩm, và trước khi chưa được phổ biến, các vị có liên hệ đến bộ sách như Cha Andrea M. Cecchin, Tu-viện Trưởng Dòng Phụ tá Đức Mẹ, Corrado Berti và Romualdo M. Megliorini, thần học gia, trong buổi hội kiến riêng ngày 26 tháng 2, 1948, đã được Đức Giáo Hoàng Piô XII khuyến khích: “ Hãy xuất bản sách này ra, đã viết làm sao in ra làm vậy. Ai đọc vào sẽ hiểu”. Ngày nay bộ sách của Maria Valtorta được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.
3.- Một mặc khải về Chúa Hài Nhi qua Ngôi Sao Lạ.
Sau đây chúng tôi sẽ sử dụng bản in của Nữ tu Phạm Thị Hùng vì đã được in dựa trên bản tiếng Pháp để nói về các sự kiện liên quan đến “ngôi sao lạ”, “ba vị đạo sĩ”, cùng các “lễ vật” đã được đề cập ở trên.
“Tôi thấy gia tăng ánh sáng ban đêm chiếu xuống từ bầu trời đầy sao lấp lánh và rất đẹp ở phía đông. Ánh sáng rất mạnh và rất lớn đến nỗi nó như ở rất gần, giống như những bông hoa trên bầu trời bằng nhung mà người ta có thể đến rờ vào nó. Tôi ngước mắt lên để tìm cái nguồn làm gia tăng ánh sáng này. Tôi thấy một ngôi sao lớn khác thường, giống như một vầng trăng nhỏ, đang tiến đi trên bầu trời của Bétlem. Những ngôi sao khác như mờ đi để nhường lối cho nó, giống như những kẻ theo hầu một bà hoàng, vì ánh sáng của nó trổi vượt, tựa như làm chúng biến mất. Từ quả cầu giống như một viên lam ngọc khổng lồ, được soi sáng ở trong ruột bởi một mặt trời, phát ra những luồng sáng, trong đó trổi vượt là ánh sáng lam ngọc, hòa tan với mầu vàng của hoàng ngọc, mầu xanh của bích ngọc, mầu sáng của miêu ngọc, ánh đỏ máu của hồng ngọc, và các lấp lánh êm dịu của tử ngọc. Tất cả các đá quí của trái đất đều ở trong giải sáng đang di chuyển mau lẹ trên trời, dợn sóng giống như nó sống động. Nhưng mầu sắc trội hơn cả là mầu lam ngọc lạt và sáng của Thiên Đàng. Trông như nó mưa xuống từ trái cầu của vì sao, nó chiếu xuống và phủ mầu xanh biếc cho các nhà cửa, đường phố, đất đai Bétlem, cái nôi của Vị Cứu Tinh.” (Maria Valtorta, Tin Mừng như đã mặc khải cho tôi, Nt. Phạm Thị Hùng dịch, Quyển thứ nhất, Nhà xb. Tôn Giáo, 2008, trang 246).
Tiếp đây là chân dung và phong thái của các nhà chiêm tinh chuẩn bị trước khi bước vào kính bái Chúa Hài Nhi, theo lời tường thuật của Maria Valtorta (viết theo lời đọc của Chúa Giê-su) mà trong bản dịch này dịch giả viết là nhà đạo sĩ:
“Trong khi các đầy tớ tiến lại chỗ dành cho các đoàn du mục và các con vật, ba Đại Nhân Vật xuống khỏi các con vật dành riêng của họ mà một người đầy tớ dắt tới một nơi khác, họ đi bộ về phía căn nhà. Ở đó, họ quỳ gối, trán chạm đất và hôn cát bụi. Đó là ba nhân vật quyền thế, theo như y phục của họ chỉ cho biết. Một người nước da rất sậm, vừa xuống khỏi con lạc đà, ông liền bao phủ toàn thân trong một chiếc áo lụa trắng tuyệt vời. Trên trán ông có một vòng đai bằng kim quí. Ở thắt lưng ông là chiếc giây lưng đắt tiền, ở đó có dắt một con dao hay cái kiếm mà bao có trang trí các hạt ngọc. Hai người kia cũng xuống khỏi con ngựa tuyệt trần. Một ông mặc vải sọc rất đẹp mà mầu vàng nổi bật. Y phục này được làm giống như một loại áo dài, có một chiếc nón và một sợi giây, hình như tất cả là một mảnh liền bằng sợi vàng, vì nó trang trí bằng các đường thêu chỉ vàng. Người thứ ba mặc một chiếc áo lụa thùng thình, để ló ra chiếc quần rộng và dài túm lại ở cổ chân. Ông khoác một chiếc khăn rất mỏng, giống như một mảnh vườn đầy hoa, vì nó được trang trí toàn bộ bằng những mầu sắc rất tươi. Trên đầu ông cuốn khăn, được giữ bằng một sợi giây xích bằng miêu ngọc và kim cương.
Sau khi đã tôn kính căn nhà, nơi Vị Cứu Tinh cư ngụ, họ đứng dậy và đi tới nhà dành cho đoàn du mục, nơi các đầy tớ đã gõ cửa để xin mở.
(Thị kiến dừng lại ở đây, rồi sau ba tiếng đồng hồ, lại tiếp tục với cảnh các nhà đạo sĩ thờ lạy Chúa Giêsu).
Đây là lúc ban ngày. Mặt trời rực rỡ trên trời vào lúc sau trưa. Một người đầy tớ của các Đạo Sĩ băng qua công trường và đi lên chiếc cầu thang nhỏ của căn nhà nhỏ. Anh ta vào. Anh ta ra. Anh ta trở về quán trọ.
Ba nhà Đạo Sĩ ra, mỗi người có người đầy tớ riêng theo sau. Họ băng qua công trường. Số người ít oi qua lại quay mặt nhìn các nhân vật oai vệ đi qua rất từ từ và trang trọng. Từ lúc người đầy tớ vào tới lúc ba nhà Đạo Sĩ vào, có khoảng thời gian độ một khắc đồng hồ. Điều đó cho phép các người trong nhà chuẩn bị đón khách.
Những người này bây giờ ăn vận còn sang trọng hơn là đêm hôm trước: Lụa là rực rỡ, vàng ngọc sáng chói. Một chòm lông đắt giá lốm đốm những vảy quí lấp lánh trên đầu của ông có quấn khăn. Một trong những người đầy tớ mang một chiếc rương có cẩn khắp chung quanh, mà các đồ trang điểm bằng kim loại đều là vàng cẩn. Người thứ hai mang một chiếc cúp được làm cách rất tinh tế, được đậy bằng một cái nắp hoàn toàn bằng vàng chạm trổ. Người thứ ba mang một thứ bình rộng và thấp, cũng bằng vàng, có nắp đậy hình kim tự tháp mà ở trên đỉnh có một viên kim cương. Những vật này hẳn là nặng, vì các người đầy tớ mang cách khó lòng, nhất là người mang chiếc rương. Ba người lên cầu thang và vào. Họ vào trong một phòng mà từ ngoài đường, người ta phải đi ra lối sau nhà để vào. Người ta nhận thấy mảnh vườn nhỏ qua chiếc cửa sổ mở ra phía sau cho mặt trời. Các người chủ nhà đang đứng đó để nhìn: Một người đàn ông, một người đàn bà, và ba hay bốn đứa trẻ trong khoảng giữa tuổi của hai người trên.
Maria ngồi ôm con trong lòng, Giuse đứng bên cạnh. Nhưng cô đứng dậy ngay và cúi mình khi thấy ba nhà Đạo Sĩ vào. Cô mặc toàn trắng. Cô rất đẹp trong y phục trắng đơn giản, bao phủ từ cổ tới bàn chân, từ vai tới cổ tay tinh tế. Rất đẹp với đầu tóc quấn các bím vàng vòng quanh như triều thiên, với khuôn mặt mà sự cảm động phủ cho một lớp mầu hồng rõ hơn, với đôi mắt mỉm cười dịu dàng, với chiếc miệng mở ra để nói: “Thiên Chúa ở với các ngài”. Ba nhà Đạo Sĩ ngây ra một lát, rồi họ tiến lên, họ quì phục dưới chân cô và xin cô ngồi.
Họ thì không, họ không ngồi, dù Maria mời. Họ vẫn quì gối và ngồi trên gót chân. Ba người đầy tớ ở đàng sau và cũng quì gối. Tất cả họ đều ở ngay sau cửa. Họ để ba vật mà họ mang theo ở trước mặt và họ chờ.
Ba nhà Đạo Sĩ nhìn ngắm chú bé. Tôi thấy chú có vẻ độ từ chín tháng tới một năm, vì chú rất tỉnh táo và phốp pháp. Chú ngồi tựa vào ngực mẹ. Chú mỉm cười và nói líu lo với giọng chim nhỏ. Chú cũng mặc toàn trắng như má, với đôi xăng-đan tí xíu ở chân. Y phục đơn giản: một áo dài nhỏ, từ đó lú ra các bàn chân lúc lắc, đôi bàn tay mũm mĩm muốn rờ vào tất cả, và nhất là khuôn mặt nhỏ rất đẹp với đôi mắt mầu xanh dương đậm trong sáng; cái miệng núm đồng tiền ở hai bên khi chú cười nhe ra mấy chiếc răng nhỏ. Các lọn tóc giống như bụi vàng, vì chúng bóng và mịn như tơ.
Người Đạo Sĩ lớn tuổi nhất nói nhân danh tất cả. Ông giải thích cho Maria rằng họ đã thấy, vào một đêm của tháng mười hai trước, một vì sao đã thắp sáng lên trên trời với vẻ rực rỡ khác thường. Các bản đồ trời không hề bao giờ có vì sao này hay báo hiệu nó. Tên nó không được biết tới. Nó không có tên. Được sinh ra từ lòng Thiên Chúa, nó đã nở hoa để nói cho loài người một sự thật có phước, một bí mật của Thiên Chúa. Nhưng loài người không lưu tâm, vì linh hồn họ chìm trong bùn. Họ không nhìn lên Thiên Chúa và không biết đọc những lời Người viết ra - Nguyện chúc Người muôn đời – bằng những thiên thể bằng lửa trên bầu trời.
Họ đã thấy ngôi sao và đã cố gắng để hiểu tiếng nói của nó.
Tự nguyện từ bỏ một ít giấc ngủ mà trước đây họ đã chấp nhận cho cơ thể họ. Họ quên ăn để vùi đầu vào việc nghiên cứu hoàng đới, sự giao hội của các hành tinh; thời gian, các mùa, các tính toán về thời gian cổ xưa và các phối hợp về thiên văn, đã nói cho họ tên và sự bí mật của ngôi sao. Tên của nó là “Messi”. Bí mật của nó là: “Đấng Messi đến trong thế giới”. Và họ đã ra đi để thờ lạy Người. Người nọ không hề biết gì về những người kia. Băng qua núi, sa mạc, thung lũng, sông ngòi, đi trong đêm, họ đã đi về phía Palestin, vì ngôi sao đi về hướng này. Mỗi người, từ ba điểm khác nhau trên trái đất, đều đi về hướng này. Rồi họ gặp nhau ở phía bên kia biển Chết. Ý Thiên Chúa đã hội tụ họ ở đó, và cùng nhau, họ tiến lên phía trước. Họ hiểu nhau, mặc dù mỗi người vẫn nói tiếng của mình. Họ hiểu và có thể nói những ngôn ngữ của các nước mà họ đi qua, bởi phép lạ của Thiên Chúa.
Cùng nhau họ đi về Jêrusalem, vì Đấng Messi là Vua của Jêrusalem, vua của người Do-Thái. Nhưng ngôi sao biến mất ở trên trời của thành phố này. Họ cảm thấy con tim họ vỡ ra vì đau đớn. Họ tự xét mình xem có phải vì họ bất xứng với Thiên Chúa. Nhưng lương tâm của họ bảo đảm cho họ. Họ liền tìm đến vua Hêrôđê để hỏi xem Vua Do-Thái sinh ra trong lâu đài nào để họ đến thờ lạy Người. Nhà vua liền tụ họp các thủ lãnh của các thầy cả, các luật sĩ để hỏi xem Đấng Messi sinh ra ở đâu, và họ trả lời ông: “Tại Bétlem xứ Juđa”.
Họ đi về phía Bétlem và ngôi sao lại hiện ra trước mắt họ. Nó đã rời Thành Thánh, và tối hôm qua, nó đã gia tăng vẻ rực rỡ của nó. Tất cả bầu trời đều được đốt cháy. Rồi ngôi sao dừng lại, thu thập ánh sáng của các ngôi sao khác vào các luồng sáng của nó và chiếu xuống trên căn nhà này. Họ liền hiểu là trẻ Thiên Chúa sinh ra ở đây. Bây giờ họ thờ lạy Người, dâng cho Người các tặng phẩm hèn mọn của họ, và hơn tất cả, họ dâng cho Người quả tim của họ, sẽ không bao giờ ngừng chúc tụng Thiên Chúa vì ơn Người đã ban cho họ, và họ yêu mến Con của Người mà họ được nhìn thấy trong một nhân tính thánh thiện. Rồi họ trở về cho Hêrôđê biết, vì ông cũng muốn thờ lạy Người.
“Đây cùng một trật: Vàng là thứ thích hợp với một vị Vua, đây là Nhũ hương , thích hợp với Thiên Chúa; và đây, ôi Mẹ, đây là mộc dược, vì con Mẹ sinh ra là Thiên Chúa nhưng cũng là người, trong thân xác của Người và trong cuộc sống làm người, Người sẽ biết cái cay đắng của định luật không thể tránh được của sự chết. Tình yêu của chúng con không muốn nói những lời này, và nghĩ rằng thân xác Người sẽ muôn đời giống như Thần Trí Người. Nhưng ôi Bà! Nếu sự nghiên cứu của chúng con, nhất là nếu tâm hồn chúng con không lầm, thì con Bà là Vị Cứu Tinh, là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, và vì thế, để cứu thế giới, Người phải mang trên mình Người mọi khốn nạn của thế gian, mà một trong các hình phạt là sự chết. Chất nhựa này để cho giờ đó, để xác thịt thánh của Người không phải biết tới sự hư thối, và bảo trì nó nguyên vẹn tới giờ sống lại. Chớ gì do những của này, Người nhớ đến chúng con và cứu các tôi tớ của Người, bằng cách ban Nước của Người cho chúng. Lúc này, để được thánh hóa, xin Mẹ là Mẹ Người, ban con nhỏ của Mẹ cho tình yêu của chúng con, để nhờ được hôn chân Người, phúc lành của Trời xuống trên chúng con”. (Maria Valtorta, Tin Mừng như đã mặc khải cho tôi, (bản dịch đã dẫn, trang 245-248).
Và như một lời kết…
Đoạn cuối của chương 56 của bộ sách của Maria Valtorta miêu tả sự giã từ của ba nhà đạo sĩ và Thánh gia như sau: “Bây giờ chủ cũng như đầy tớ, tất cả đều ở trên yên. Họ ra lệnh khởi hành. Ba người cúi xuống tới sát cổ con vật của họ để chào lần chót. Giuse cũng cúi mình, Maria cũng vậy. Và Mẹ lại cầm tay Giêsu để vẽ một cử điệu từ biệt và chúc lành.”
Nguyễn Đức Cung
Philadelphia 19-12-2020
Houston 23-12-2021
(Trích từ tác phẩm Sử Trung Tùy Bút sắp xuất bản)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét