Thứ Ba, 9 tháng 7, 2024

Chữ Nghĩa Làng Văn - Ngộ Không Phí Ngoc Hùng

           Chữ Nghĩa Làng Văn 

Ngộ Không Phí Ngoc Hùng


“Chữ nghĩa làng văn” đôi khi chỉ là một chữ, cụm từ, đoạn văn cô đọng, diễn nghĩa, diễn giải một áng thơ văn hoặc một thể tài nào đó. Những trích dẫn được góp nhặt qua sách vở, trên mạng lưới của nhiều tác giả thành danh hay khuyết danh, không ngoài góc nhìn tận tín thư bất như vô thư. Ấy là chưa kể nhiều từ ngữ, đề mục trong bộ sưu tập đang còn trong vòng nghi vấn, cần phải thẩm định lại nếu có thể được với những bậc thức giả văn kiến súc tích. Những phụ chú, dẫn chứng hay giai thoại do người viết kể lại, với chủ quan, khách quan chỉ cách nhau một sợi tóc. Vì vậy người sưu tầm không đặt ra “sai” hay “đúng”, vì cái sai hiện tại có thể là cái đúng ở một thời điểm nào khác. Xin chân thành cảm tạ và cáo lỗi những tác giả đã đóng góp bài vở trong sưu tập này, nhưng vì phương tiện eo hẹp nên người sưu tầm không thể thỉnh ý tác giả trước khi đăng tải – Ngộ Không Phí Ngọc Hùng.


***


Cửa tứ

Câu : ‘’Chết một cửa tứ’’

Cửa tứ nói trại đi là... ‘’cửa tử’’

(Bút Chì – Làng Văn)



Chữ là nghĩa

Quốc hiệu Champa (Chiêm Thành) có nghĩa là hoa sứ.

(theo tiếng Ấn Độ)



Hai "cô hàng" đầu tiên của làng Tân nhạc Việt Nam

(Nhạc sĩ Canh Thân)


Cái tên Canh Thân cho ta thấy cách đặt tên rất Việt Nam, song buổi giao thời nhập nhằng đã làm nên một Canh Thân rất Tây. Ông là tác giả của các bản nhạc vui tươi, nhộn nhịp như “Đi với tôi đến chốn trời xa”, “Túi đàn”, “Khúc ca mùa hè”…, Cô hàng cà phê là ca khúc nổi tiếng nhất của ông. Mặc dù sáng tác không nhiều nhưng cái tên Canh Thân vẫn được nhiều người yêu mến và nhớ đến. Ông là thành viên của nhóm Đồng Vọng cùng với Hoàng Quý, Phạm Ngữ, Tô Vũ, Văn Cao (thành lập năm 1953), theo xu hướng nhạc hùng có nội dung ca ngợi đất nước, ca ngợi truyền thống anh hùng của dân tộc.

(Nhạc sĩ Lê Văn Thương)



Nhân văn Giai phẩm với những hệ luỵ

Phùng Cung

Tôi mến và phục Phùng Cung ngay từ khi được đọc truyện Con ngựa già của chúa Trịnh (1) đăng trên báo Nhân Văn. Trong tất cả các bài văn, bài thơ in trên tờ Nhân Văn, trong các tập giai phẩm Mùa Xuân, Mùa Thu, Mùa Đông, tôi thấy “Con ngựa già của chúa Trịnh” là đặc sắc nhất, về nghệ thuật cũng như về nội dung. Nó vừa thâm trầm, vừa tinh tế đúng như con người anh.

Văn nghệ sĩ, trí thức, toàn bộ dân tộc, giống như con ngựa già của Chúa Trịnh, bị đảng gắn vào hai bên mắt hai cái lá đa bằng da, chỉ được nhìn thẳng một hướng hạn hẹp, trời mây, sông núi hoa lá không được thấy gì hết.

Mùa đông năm 1970, tôi rời Yên Bái lúc bốn giờ sáng. Sau 18 tiếng đồng hồ vừa đi ca nô, đi xe tải, xe lửa, chen chúc nhau trong một toa đen kín mít, nhầy nhụa phân lợn, tay bị khóa số 8 khóa từng cặp hai người một, đoàn tù chúng tôi tới trại Phong-Quang khoảng mười giờ tối, người nào cũng nôn mửa rũ rượi, kiệt lực. Ngồi xếp hàng trên sân đất, dưới mưa bụi, gió buốt, nghe điểm danh, nghe cán bộ quát nạt, huấn thị, rồi giúp mấy anh tù tự giác khám xét hành lý toàn đồ giẻ rách, hôi hám. Tới tận gần 12 giờ đêm, chúng tôi mới được phân chia vào các phòng.


Các anh nói Phùng Cung cũng ở trại này, đang nằm bệnh xá vì bị lao phổi. Mắt tôi sáng lên. May quá rồi, thế là tôi sắp được chuyện trò với anh, người tôi mến phục đã lâu mà chưa được biết mặt. 


Vài hôm sau, tôi lảng vảng xuống bệnh xá tìm anh. Đó là giờ tù đang chia cơm, chiều hôm ấy lại ăn tươi, có “mều ngạnh(thịt trâu) nên việc chia bôi rất vất vả, mất nhiều thời gian. Thịt chia riêng, xương chia riêng, da chia riêng, nước đong từng thìa. Tất cả đều phải cân bằng một loại cân tự tạo, nhưng độ nhậy có lẽ chẳng kém gì cân tiểu ly. Chia xong lại phải viết tên từng người vào những mẩu giấy nhỏ, gập lại, trộn lẫn lộn, rồi đặt bên cạnh từng bát, mỗi phần không quá một lạng. Đọc đúng tên ai, người đó lấy bát đó. Tù nhân đứng vòng trong, vòng ngoài, “góp ý” cho người được cử ra chia, thường là người có uy tín, trung thực, không lèm nhèm. Mấy chục bệnh nhân ở bệnh xá cũng đương xúm xít tham dự công việc chia chác thiêng liêng đó, trừ mấy người hấp hối. Tôi nhìn tất cả họ, từng khuôn mặt một. Không ai có vẻ là Phùng Cung cả. Tôi vòng ra phía sau bệnh xá. Một người trung niên mặc áo bông, đứng trước cây ớt chỉ thiên, nhưng đầu lại ngẩng nhìn lên nền trời xám nặng, nét mặt xám nhợt, bất động. 

Phùng Cung đây rồi! Tôi đoán vậy, và bước lại gần, khẽ hỏi:

- Xin lỗi, có phải anh Cung không?

(Gặp Phùng Cung trong Hoả Lò – Nguyễn Chí Thiện)


 (1) Phùng Cung viết “Con Ngựa Già của Chúa Trịnh” là để ám chỉ Nguyễn Tuân (nguồn: Trần Duy)



222 Chữ nghĩa làng văn xóm chữ  

Năm 1953, tôi học đệ thất trường Chu Văn An Hà Nội, năm 1954 di cư vào Sài Gòn học ba năm đệ lục, đệ ngũ, đệ tứ trường Nguyễn Trãi. Sau kỳ thi trung học đệ nhất cấp tôi lại trở về trường Chu Văn An năm 1957 học ba năm cuối cùng đệ tam, đệ nhị, đệ nhất, và rời trường năm 1960. Lớp đệ tam B2 nằm ở lầu hai ngay cầu thang. Cứ mỗi lần kẻng báo hiệu giờ học thì cả thầy lẫn trò đều cùng từ dưới nhà leo cầu thang lên lầu. 


Một tuần hai ba lần tôi bước sau thầy Vũ Khắc Khoan, dáng người thấp nhưng vạm vỡ, khuôn mặt như tượng đồng, mái tóc hơi gợn sóng. Thầy không dạy lớp tôi, nhưng tôi đoán thầy chẳng bao giờ cười. Cứ mỗi lần đi sau thầy trên cầu thang, tôi lại nghĩ  “Đây là ông Thần Tháp Rùa.” 


Trong tập truyện Thần Tháp Rùa có truyện Trương Chi, trong Trăm Hoa có truyện “Con Ngựa Già của Chúa Trịnh” tác giả Phùng Cung. Quả thật hồi đó tôi chỉ lờ mờ thấy hình như hai truyện này có một điểm nào đó giống nhau mà không thể nào nêu ra được. Hai tác giả sống ở hai miền dưới hai chế độ tương khắc tương tranh, cả hai không quen biết nhau mà sao tư tưởng gặp nhau. Từ đó về sau, cứ mỗi lần nhớ đến thầy Khoan là tôi liên tưởng đến Phùng Cung nhưng tôi vẫn chưa hiểu được sự giống nhau về tư tưởng; cho đến khi sau 1975 thì mọi sự sáng tỏ.


(Nhớ thầy Vũ Khắc Khoan - Ðào Ngọc Phong)


Vũ Khắc Khoan sinh ngày 27.2.1917 tại Hà Nội. Mất ngày 12.9.1986 tại Minneapolis, Hoa Kỳ.

Tác phẩm: Kịch: Hậu Trường, Giao Thừa, Thần Tháp Rùa, Thành Cát Tư Hãn, Ga Xép, Ngộ Nhận, Thằng Cuội Ngồi Gốc Cây Đa (Lộng ngôn), Mơ Hương Cảng (tùy bút)



Trần gian vốn là mộng

Ngoảnh nhìn cuộc đời như giấc mộng
Được mất bại thành bỗng chốc hóa hư không



Nhà thơ Hữu Loan, lần gặp mặt

Một ngày gặp gỡ. Bữa trưa uống một trận bia. Chiều đưa ông thăm chơi đó đây. Buổi tối ghé một quán vườn, rất đông anh em. Sáng hôm sau ông ghé tôi. Chúng tôi cùng uống cà phê, ăn sáng. Nhà tôi ngay đường Nguyễn Huệ nên nhà hàng Givral cũng gần. Vào quán, ông đầy vẻ ngỡ ngàng. Xem thực đơn, ông nói, “Tôi không biết gọi gì, anh gọi dùm”.

Tôi gọi cho ông ly cà phê sữa, bánh mì vuông, một đĩa thịt nguội, patê, xúc xích. Lúc này tôi cũng đang túng thiếu, nhưng tiếp ông phải “bề thế” tí chút. Chẳng lẽ mấy mươi năm ông nhai củ mỳ ngoài Bắc, giờ này tôi mời ông mấy củ khoai lang trộn bo bo!


Tôi nhường ông ngồi ghế bên trong, nhìn ra đường, quang cảnh góc đại lộ Lê Lợi và Tự Do. “Sàigòn nó to rộng thế đấy”.  Bên kia là Continental khách sạn thuộc loại cổ nhất Sàigòn, nhà Hát Tây [tòa nhà Hạ Nghị Viện thời Cộng Hòa], khách sạn Caravelle. Ông mãi nhìn cảnh đẹp bên ngoài, lại nhìn đĩa thịt nguội. Chừng không muốn ăn. Tôi giục ông ăn chút gì kẻo đói bụng.

Ông nói:

“Anh cho tôi nhìn một hồi đã. Bao nhiêu năm tôi mới thấy cái món lạ lùng này”. Ông ăn một cách khó khăn. Chừng từ lâu không quen với dao nĩa. Tôi bèn gọi một đĩa tương tự, rồi bốc mà ăn, ý nói ông cùng bốc mà ăn.


Nhìn ông, tôi lại nhớ nước mắt của ông buổi sáng hôm qua. Lúc trò chuyện, tôi nói nhỏ với Thúy V. “Em nên ngâm bài Màu Tím Hoa Sim của chính Hữu Loan để tặng ông”.

Trong quán có cây đàn ghi-ta. Vũ D. đệm đàn. Tô Kiều Ngân rút cây sáo trúc “nhà nghề”, dìu giọng người ngâm thơ. Giọng Thúy V. mượt mà, khá trữ tình. Nghe ngâm thơ của mình, từ mấy mươi năm bị chế độ cấm phổ biến trên đất Bắc….

Hữu Loan ngậm ngùi. Bất ngờ ông bật tiếng khóc.

(Cung Tích Biền)



Trần gian vốn là mộng

Tất bật hơn thua rồi cũng bỏ
Thong dong tự tại vậy mà vui



Chém treo ngành 

Thuật chém treo ngành của Nguyễn Tuân khiến tôi lại nhớ đến thuật xử sóc xiên của Thổ Nhĩ Kỳ khi cai trị Nam Tư hồi thế kỷ thứ 18 trong cuốn tiểu thuyết bất hủ Cầu Sông Drina (Il est un pont sur le Drina) của nhà văn Nam Tư Ivo Andrich viết năm 1945, được giải Nobel văn chương năm 1961.


Họ trói kẻ tử tù bắt nằm xuống đất rồi lấy một cây cọc vót nhọn đầu bịt sắt đóng từ hậu môn đóng lên. Tên đao phủ là một tay rất thiện nghệ, hắn đóng rất khéo khiến cho mũi nhọn nằm giữa xương sống và các bộ phận trọng yếu như tim, gan, phèo, phổi… nó không đụng vào xương sống và các bộ phận ấy để khiến cho tên tử tội phải chết ngay. Hắn đóng từ từ cho cọc lên đến tận cổ mà tội nhân vẫn còn sống. Khi ấy chúng đem dựng cọc nơi bờ sông, nạn nhân phải chịu đau đớn hai ngày sau mới chết.


Ivo Andrich cũng như Nguyễn Tuân đã tả chân kỹ lưỡng những nghệ thuật giết người kinh hoàng khủng khiếp ấy. 

“Lúc quan công sứ ra về, khi lướt qua mười hai cái đầu còn dính vào cổ người chết quỳ kia, giữa sân pháp trường sắp giải tán, nổi lên một trận gió lốc xoáy rất mạnh. Thường những lúc xuất quân bất lợi, tưởng cơn gió lốc cuốn gẫy ngọn cờ súy, cũng chỉ mạnh được thế thôi. Trận gió soắn hút cát, bụi lên, xoay vòng quanh đám tử thi. Bấy giờ vào khoảng giữa giờ thân.”


Lối hành văn cổ kính, chịu ảnh hưởng của truyện Tam Quốc, Tây Hán Chí… Bố cục ngắn gọn, sống động khiến cho Chém Treo Ngành trở thành tùy bút nổi bật nhất trong Vang Bóng Một Thời, đã được coi như một trong những áng văn tuyệt diệu nhất.

(Đọc “Chém Treo Ngành” của Nguyễn Tuân – Trọng Đạt)


Trần gian vốn là mộng

Ta cứ tưởng trần gian là cõi thật
Thế cho nên tất bật đến bây giờ



Võ Thị Hảo vầng trăng mồ côi - 1

Vũ Ðiệu Ðiạ Ngục là vũ điệu của bà mẹ điên, dơ tay với cầu vồng mà nhẩy. "Ðỏ lên trời đó con ơi". Bà tìm trên khung trời đỏ áu tội lỗi hình dáng người con gái đã chết. Con bà, trong quãng thời gian ngắn ngủi tạm trọ cuộc đời, thất nghiệp triền miên, đã hành nghề bán máu nuôi thân, cho đến khi "cạn vốn". Tự tử.

Và Rừng Cười, là cái cười méo mó man dại của chiến tranh, của những cô gái Trường Sơn mà "những dòng nước khe màu đen xanh thớ lợ đã dần dà vặt trụi tóc họ". Ở đây không có liệt oanh, liệt sĩ, chỉ tuyền rừng với người vượn lõa thể, vừa cười vừa khóc, tay dứt tóc xé quần xé áo. Ở đây chỉ có những nụ cười sằng sặc quánh đặc lá cây của "những người đàn bà vác cày, cầm súng, đi lấp hố bom", "bị buộc phải trở thành đàn ông". Và người con gái duy nhất may mắn sót lại của rừng cười sẽ mãn kiếp bị loại khỏi vòng tình ái, chỉ sống với những giấc mơ triền miên về mái tóc đã bị rừng già cướp giật: "từ trong đám tóc rối ấy lẩy ra hai giọt nước mắt trong veo và rắn câng như thủy tinh, đập mãi không vỡ". 

(Thụy Khuê)


Tiểu sử
Võ Thị Hảo sinh năm 1956  tại Diễn Châu, Nghệ An
Tác phẩm

Biển Cứu Rỗi – Vũ Điệu Địa Ngục

Người Sót Lại Của Rừng Cười – Dã Nhân

Dạ Tiệc Quỷ



Trần gian vốn là mộng

Trăm năm nhìn xuống đời mộng ảo
Khoảnh khắc nhìn lên ngộ lẽ trời



Võ Thị Hảo vầng trăng mồ côi - 2

12 truyện ngắn, 12 mảnh đời nghiền nát đẫm máu, khiếp đảm mà viết cứ dửng dưng như không, như chơi, như đùa. Cái đáng ngại của thế hệ này là thế. Thế hệ ba đời chổng mông chờ chồng, từ bà đến cháu. "Thế hệ chúng con đi đến tận cùng nên nhiều khi tàn nhẫn". Thế hệ "hoãn chết" hay "cho vào cối giã cũng không chết".

Nụ cười bật ra chỉ vì "cô thấy buồn buồn ở nách như bị ai cù, và cô bật tiếng cười". Dưới mắt họ, thiên nhiên cũng một sòng quỷ khốc, khát máu, thèm xương, không khác con người: "hoàng hôn chậm chạp thè chiếc lưỡi đỏ liếm lên vạt đồi tranh", "rừng cười đã no nê máu và nước mắt". Họ truy tố những kẻ "lạm dụng ánh sáng để làm điều sằng bậy" và dồn đêm tối cho những kẻ bất hạnh, mù loà. Họ phanh phui thủ đoạn "thổi linh hồn vào nhiều thân xác" bằng những "bài ca kỳ dị chẳng tốn hơi sức bao nhiêu", để tạc nên những hình nộm gỗ "có hàm răng trắng sáng loé lên trên khuôn mặt đầy nhựa cây đen nhẻm".


Thế hệ ấy, nhìn về quá khứ của "cả một đất nước rùng rùng ra trận, chân đi dép lốp, tay cầm súng, ngực đeo những lá thư. Những trang văn nói về thư, bay cùng những lá thư thất lạc và không thất lạc, có người nhận và không còn người nhận cứ bay đầy trời như lá rụng. Và trong đó, tôi mới thấy rõ tôi, vàng bủng, đang chạy, đưa một phong thư lên miệng mút mút và hô "xung phong" trước khi ngã xuống." (Máu Của Lá, trang 65).

(Thụy Khuê)


Trần gian vốn là mộng

Giã từ cõi mộng điêu linh

Tôi về buôn bán với mình phôi pha
(Bùi Giáng)



Nhân văn Giai phẩm với những hệ luỵ 

Nguyễn Hữu Đang - 1

Chúng tôi lại tiếp tục đi lên phía Bắc. Đến Đoan Hùng. Lúc đó chưa có cầu. Chúng tôi vẫn phải ngồi bó gối trong cũi xe ngựa kéo. Để tránh sự chú ý, họ lùa chúng tôi vào đường mòn cạnh đường, ở đó có một trường học. Các em học sinh và các thầy cô tò mò ra xem lũ tù trong cũi xe. Họ chỉ trỏ xì xào. Nguyễn Hữu Đang hỏi: "Các cháu có biết Cao Bá Quát không?". 

Qua phà chúng tôi đến ngủ tạm trại giam Tuyên Quang. Lệnh: Không được cởi xích tay. Qua một đêm không thể nào mà ngủ được. Thằng muốn đi ỉa đi đái, phải đánh thức thằng tù đang ngủ dậy. 4 giờ dậy đi tiếp. Kiểm số tù lần cuối là ông đeo kính đen, mở cái cặp đen lấy tập hồ sơ hỏi anh Đang câu hay chữ gì đó, làm tôi nghĩ đến chuyện "Chữ Người Tử Tù" của Nguyễn Tuân trong “Vang Bóng Một Thời." 


Chúng tôi được đưa về trại tù Cổng Trời Cắn Tỷ (1958 Nguyễn Hữu Đang bị bắt, năm 1973, được trả về theo diện “Ðại xá chính trị phạm trong hiệp định Paris”). Hôm ấy, rét làm đông nước. Ở mái nhà nước đóng thành băng. Cứ lạnh âm “zê-rô” độ là họ gọi đi xà lim. Xà lim là một cái quan tài bằng đất dầy một mét, cùm răng cá sấu cắn chân không bao giờ được mở, và có khi bị bỏ đói cho đến chết. Quản giáo Nhân đã từng tuyên bố vào mặt chúng tôi: "Cái sống chết của các anh ở trong tay chúng tôi. Đừng có mơ tưởng hão huyền gì. Cho dù có động trời, động đất xảy ra, thì trước khi chuyện đó đến với các anh, nó phải tới cái trại đặc biệt này. Nghe cho rõ mà nhớ lấy. Trước khi mọi điều vin vông, vin tưởng mà các anh mong đợi xảy ra, thì các anh đã không còn ở cõi đời này nữa, các anh đã là những cái xác chết rồi". 


Chúng tôi nghe và cũng hiểu đúng như vậy. Cho nên, động đất, chiến tranh ai chết. Mặc. Với chúng tôi: Stalin chết, John Kennedy bị bắn, Ngô Đình Diệm chết, Kroutchov bị hạ bệ, chả có gì quan trọng cả. 

(tù Cổng Trời Cắn Tỷ 72 người, còn lại sống chừng 11 người)

(Cổng Trời Cắn Tỷ – Kiều Duy Vĩnh)



Trần gian vốn là mộng

Có gì mà lấy làm vui
Chỉ là một giấc mộng vùi trăm năm



Nhân văn Giai phẩm với những hệ luỵ

Nguyễn Hữu Đang - 2

- Để em đạp xe ra chợ mua cái gì về ăn...
- Thôi khỏi cần, chú về chơi hôm nay là rất gặp may. Sáng nay tôi vừa chế biến được một mẻ thức ăn, ngon vô địch. Chú nếm rồi sẽ biết. Cơm cũng có sẵn rồi. Tôi nấu lúc sáng, ủ vào lồng ủ rơm, còn nóng nguyên. À, tôi lại có cả rượu cho chú, rượu cam xuất khấu hẳn hoi, quà của Hội Nhà Văn gửi biếu vào dịp Tết năm ngoái... Tôi chỉ mới mời mấy thầy giáo mấy chén, còn đủ cho chú say sưa suốt mấy ngày ở chơi.


Anh xăng xái lấy chùm chìa khoá buộc chung với chùm lục lạc, mở khoá tủ tìm chai rượu. Tôi liếc mắt nhìn vào mấy ngăn tủ. Những xấp quần áo cũ nát để lẫn với những chồng báo, giấy má, sách vở ố vàng. Ngăn dưới cùng để rất nhiều chai lọ, vỏ đồ hộp, vỏ bia lon, và nhiều chồng các loại vỏ bao thuốc lá. *

(* vỏ bao thuốc lá để đổi cóc, nhái của trẻ con, để ăn)


Tôi chỉ những chồng vỏ bao thuốc lá, hỏi:
- Anh chơi sưu tập vỏ bao thuốc lá à? Thế mà em không biết. Trên nhà em, các bạn đến chơi, hút các loại thuốc lá ngoại hảo hạng, vỏ bao vất lung tung, vợ em ngày nào cũng phàn nàn vì phải dọn nhặt đem đốt.
Anh kêu lên:
- Thế có tiếc không. Lần này chú về trên đó nhớ dặn cô ấy, có vỏ bao thuốc lá ngoại cứ cất giữ cho anh Đang, càng nhiều càng tốt. Nó là hàng đối lưu của tôi đấy...

Tôi ngắm nhìn bao quát căn nhà độc thân của anh, hỏi:
- Hơn mười lăm năm qua anh đã sống ở gian buồng này à?
- Ngày tôi mới về xã, tôi sống ở trại lợn của Hợp Tác Xã. Chẳng là cán bộ xã cũng thông cảm hoàn cảnh khó khăn của tôi, nên đề nghị ra đó trông coi giúp như nhân viên của trại. Ở đó có một gian nhà kho cũng thoáng mát, tôi có thể ăn ở, đọc sách, viết lách kết hợp với việc trông coi trại. Mỗi mùa Hợp Tác Xã trả công điểm mấy chục cân thóc, mấy chục cân rơm làm chất đốt. Số thóc, rơm này tôi không phải dùng đến, trong mấy năm tiết kiệm được hai tạ ba thóc, hai trăm cân rơm cho bà con vay. Ngoài ra, vào dịp tết Hợp tác xã bồi dưỡng thêm ít thóc nếp, đem lên Hà nội biếu các chú. 


Anh lôi dưới gầm giường ra một cái xô tôn thủng đáy đặt lên miệng xô miếng gỗ dán:
- Đây là bàn ăn - Anh giới thiệu, và vần tiếp ra hai cái vại muối dưa sứt miệng - còn đây là ghế ngồi. Bà con nông dân nghèo mà phí phạm thế đấy. Hai cái vại còn tốt thế này mà đem quẳng bụi tre... tôi nhặt về cọ rửa sạch sẽ lật đít lên, làm thành cái ghế ngồi vừa vững chãi lại vừa mát. Chú ngồi thử mà xem, có khác gì ngồi trên đôn sứ đời nhà Minh.

(Ngọn tre vật vã cuối đông – Phùng Quán)


Trần gian vốn là mộng

Đêm qua mộng lại thật gần
Đừng lay tôi nhé hồng trần mong manh



Tập di cảo Những Tâm Sự của Tố Hữu - 1

Gần đây có nghi vấn văn học về Nguyễn Khải phản tỉnh đưa ra tuỳ bút Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất. Giống như Chế Lan Viên qua Di Cảo Thơ trong đó có bài thơ Cái Bánh Vẽ

Tố Hữu cũng vậy với tập di cảo Những Tâm Sự của Nhà Thơ Tố Hữu lúc cuối đời do Nhật Hoa Khanh cuộc phỏng vấn Tố Hữu.


Nhắc đến các văn nghệ sĩ Nhân văn Giai phẩm bị đánh tơi bời như Trần Dần, Nguyễn Hưu Đang, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Cung, Phùng Quán, Hữu Loan, Quang Dũng, sau khi khen từng người cùng những tác phẩm của từng người, Tố Hữu nhận xét: 

“…Tất cả 6 anh đều góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng một nền văn học Việt Nam giàu tính hiện thực, tính phê phán, tính hiện đại và tính truyền thống. Tất cả 6 anh đều bền bỉ tiến bước dưới ngọn cờ cách mạng. Tất cả 6 anh đều là những nhà văn nghệ luôn luôn giữ vững phẩm vàng đạo đức của người cầm bút. Tất cả 6 anh đều xứng đáng được trao tặng những giải thưởng cao quý và những huân chương cao quý…”. (trg 34. Lời tâm sự)


***

Qua cuộc chống nhóm Nhân Văn Giai Phẩm do chính Tố Hữu viết, với tiêu đề: “Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại Nhân văn Giai phẩm trên mặt trận văn nghệ”, đã in thành sách, nhà xuất bản Văn Hoá, 1958, trong Thư Viện Quốc Gia. Nhận định tổng quát về Nhân Văn Giai Phẩm, Tố Hữu đã viết:

“…Lật bộ áo Nhân văn Giai phẩm thối tha, người ta thấy ra cả một ổ phản động toàn những gián điệp, lưu manh, trốt-kít, tư sản phản động, quần tụ trong những tổ quỷ với những gái điếm, bàn đèn, sách báo chống cộng, phim ảnh khiêu dâm” (trg 9. Sđd).

(Nhật Hoa Khanh)


Trần gian vốn là mộng

Ngày sẽ hết và tôi không ở lại
Tôi sẽ đi và chưa biết đi đâu
Tôi sẽ tiếc thương trần gian này mãi mãi
Vì nơi đây tôi sống đủ vui sầu
(Bùi Giáng)



Tập di cảo Những Tâm Sự của Tố Hữu - 2


Với Hoàng Cầm, Tố Hữu… tâm sư: 

“…Bên kia sông Đuống đồng nghĩa với sự bất tử. Chỉ riêng Bên kia sông Đuống cũng đủ đưa Hoàng Cầm lên đài danh dự. Tôi (Tố Hữu) đã đọc Kiều Loan trong 3 thời điểm khác nhau sau giải phóng miền Nam. Cả 3 lần, tôi đều chỉ có một ý nghĩ: Sau giải phóng Miền Nam đến nay chưa ai dựng kịch Kiều Loan là một thiếu sót lớn. Chúng ta biết: Trong khoảng 60 năm nay, Hoàng Cầm có mấy chục tác phẩm thuộc nhiều loại hình nghệ thuật.

Tôi đặc biệt cảm ơn nghệ sĩ Hoàng Cầm về những lời phê bình sắc sảo, chính xác và chân thành của anh bốn mươi năm trước đây đối với tập thơ Việt Bắc…”


Tuy nhiên Hoàng Cầm phê bình sắc sảo, chính xác về tập thơ Việt Bắc, Hoàng Cầm đã chê thơ Tố Hữu thiếu chất sống thực tế, "nhạt nhẽo", "hời hợt", chỉ "lởn vởn” ở bên ngoài chứ không đột phá vào một khía cạnh nào của tâm hồn, những câu văn “đèm đẹp" "rủ rỉ” một lát rồi thôi, chỉ thấy những hình ảnh chung chung, gặp bất cứ ở chỗ nào, khi ca tụng lãnh đạo thì "đao to búa lớn", bài "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” giống như “một vại nước to”, “tràn đầy”, “loãng quá”.

(Nhật Hoa Khanh)



Tản mạn về tiếng Việt 

Chúng tôi xin bàn rộng ra với những điệp ngữ khác. Trước tiên hãy giới hạn trong phạm vi ngũ sắc. Dường như có luật bất thành văn là khi muốn tạo một điệp âm cho một từ ở vần trắc, thì không nhắc lại y nguyên từ đó, mà phải đổi từ trước thành vần bằng


Vì thế, không nói đỏ đỏ, mà phải nói đo đỏ. Đỏ thì có nhiều sắc độ khác nhau như: Đỏ sẫm, đỏ chói, đỏ chót, đỏ lòm, đỏ rực, đỏ ối, và đo đỏ, tức chỉ hơi đỏ mà thôi.


Trắng. Điệp âm của trắng là trăng trắng. Trắng cũng có rất nhiều độ: trắng tinh, trắng toát, trắng ngần, trắng bạch, trắng hếu, trắng dã, trắng trẻo, trắng phau, trắng phau phau, trắng ngà 

(Minh Võ)



Văn hóa… ẩm thực

Dồi lợn

Tới đây viết về cách làm lòng lợn. So với các món nhậu phổ biến khác, làm lòng lợn tương đối đơn giản, ngoại trừ món “dồi”. Viết một cách ngắn gọn, tất cả mọi thứ tim, gan, thận, lá lách, dạ dày, tràng, cổ hũ, lòng non (ruột non) chỉ cần rửa sạch rồi bỏ vào nồi luộc, có cần lưu ý chăng là dạ dày, tràng, lòng non đừng luộc kỹ quá, ăn sẽ bị dai. Chỉ có món dồi là khó. Thực ra, nguyên tắc làm dồi lợn hầu như dân Bắc Kỳ nào cũng biết, nhưng không phải ai làm cũng đạt, cũng ngon. Có thể viết đây là món công phu nhất trong lòng lợn, và cũng là món mà qua đó thực khách có thể đánh giá trình độ tay nghề và bí quyết của chủ quán.


Nhớ ở ngoài Bắc, trong gia tộc của người viết có ông bác họ làm dồi và đánh tiết canh nổi tiếng, nhà nào ngả lợn cùng đều nhờ ông đảm trách hai món ấy. Hiện nay, vì lòng già (ruột già) của heo Mỹ, heo Úc không thể sử dụng (có đường kính quá lớn), cho nên nếu có điều kiện, phương tiện làm dồi, người ta đều làm theo kiểu miền Nam, tức là vỏ dồi làm bằng lòng non (ruột non)..

(Thiên Lôi miệt dưới)



Vì sao “Dạ cổ hoài lang” ra đời? 

Theo đoàn hát được vài năm, lúc này Cao Văn Lầu tuổi đã ngoài 21, cha mẹ bắt ông về cưới vợ. Vâng lệnh cha mẹ, ông lấy cô Trần Thị Tấn, một cô gái nết na, chất phác ở miệt biển Bạc Liêu. Sau đám cưới, suốt ba năm trời quần quật kham khổ, người vợ gầy héo không thể sinh con. Theo tục xưa: “Tam niên vô tử bất thành thê”, một quan niệm của lễ giáo phong kiến khắc nghiệt khiến cho nhiều đôi lứa chia lìa. Vợ chồng Cao Văn Lầu không nằm ngoài quan niệm ấy, khi mẹ ông bảo: “Con hãy liệu mà kiếm vợ khác để nối dõi tông đường...”. 

Như mọi ngày, vợ chồng Cao Văn Lầu vẫn vào rừng mò củi, xúc tép để mưu sinh. Đến trưa, củi đầy ghe mà tép cũng nhiều. Hai vợ chồng dọn cơm lên mũi ghe, bất chợt vợ ông nghẹn ngào: “Má không cho mình ở với nhau nữa. Thôi anh cưới vợ khác, em về với mẹ cha em”. Nói xong vợ chồng gục đầu nức nở.


Chiều hôm ấy, vợ chồng đưa nhau ra bìa ruộng, ôm nhau khóc, đến chạng vạng buộc lòng phải chia tay. Cao Văn Lầu thấy vợ chỉ ôm theo gói quần áo cũ, ông liền lấy khăn rằn quấn cổ đội lên đầu cho vợ ra đi. Tay lau nước mắt, chân bước thất thểu ra đồng như đi về nơi vô định. Sau khi vợ đi rồi, ông như người mất hồn. Một hôm ông sang nhà nhạc phụ tìm vợ, mới biết vợ ông không trở về. Lòng càng hoang mang, tìm khắp nơi nhưng hình bóng người vợ hiền vẫn bặt tin. Suốt một năm ròng chẳng biết vợ ở đâu, ông đành ôm sầu nuốt lệ. Cứ mỗi khi chiều xuống xách đờn ra bìa ruộng, nơi vợ chồng ly biệt. Nhìn ra đồng mà hình dung bóng vợ thất thểu giữa trời đêm. Ông gãy đờn theo tâm trạng của vợ lúc ấy, hết Xuân Nữ đến Nam Ai rồi Trường Tương Tư mà lòng chẳng vơi chút sầu thương.

(Trích nguồn : Mekongculture/Thuan)



Tình dục trong làng văn xóm chữ

Hồng diện đa dâm thủy


Ðến câu "chân em dài" đưa đến "không biết mỏi", rồi "má hồng em lại nổi" chuyển sang "nước lụt mông mênh", và "lưng thon thon" để "cắm sào em đợi", đã liên hệ đến mấy câu thơ xem tướng ở trên:

Chân em dài đi không biết mỏi
Má hồng em lại nổi
đồng mùa nước lụt mông mênh
Lưng thon thon cắm sào em đợi
Ðào giếng sâu rồi
đứng lấp vội đầu xanh


Cuối cùng là những câu kết thúc bài thơ:

Lý lý ơi khát khô cả giọng
Tình tình ơi chớ động mành thưa
Chìa vôi quệt gió hững hờ
Bờ ao sáo tắm bao giờ... hở em ?


Câu chuyện giữa tôi và nhà thơ Hoàng Cầm còn tiếp tục, anh hẹn tôi đến để có dịp nói thêm về câu chuyện tình dục trong thơ anh.

(Khuyết danh)



Tìm lại tam cúc

Dễ thường gần bảy chục năm tôi không nhìn lại được cây bài tam cúc. 

Những ngày Hà Nội, mỗi dịp Tết đến, lũ trẻ chúng tôi cùng những người lớn trong gia đình gầy bàn tam cúc đón xuân. Tết ngày đó nằm trong những cây bài giản dị. Bộ bài tam cúc chỉ có 32 quân gồm tướng, sĩ, tượng, xe, pháo, mã, tốt. Mỗi loại có đen và đỏ. 


Đỏ trên chân đen. Tướng có tướng đen và tướng đỏ, dân chơi tam cúc gọi là tướng ông và tướng bà. Sĩ cũng có Sĩ đen và sĩ đỏ. Thường gọi lá sĩ đen và sĩ điều. Tượng hay tịnh có hai lá vẽ hình con voi và gọi là tượng thâm và tượng hồng. Xe, pháo, mã, tốt. Trong bộ bài chỉ có tướng có một lá đen và một lá đỏ, tốt có năm tốt đen và năm tốt đỏ, các loại khác đều có bộ đôi đen và đỏ.


Tam cúc là một loại bài dễ đánh, nam phụ lão ấu đều có thể ngồi vào chiếu bài được hết. Đây là một thú tiêu khiển trong ngày Tết kéo mọi người trong gia đình ngồi cạnh nhau. Hiếm khi thấy đánh tam cúc ở ngoài đường. Đầu đường xó chợ chỉ có bài tây ba lá, xúc xắc dưới ba cái bát cốt mà mắt người khác để lấy tiền. Trong Nam, có thêm môn bầu cua cá cọp là trò chơi ngoài đường phổ biến nhất, chỉ dựa vào hên xui may rủi.

(Song Thao)



Phụ bản

Các bạn vào lứa “sáu bảy bó” ở miền Nam chắc hẳn vẫn còn nhớ Lucky Luke, nhân vật Cao bồi Miền Tây “Wild Wild West” bắn súng còn nhanh hơn… cái bóng của mình. Cha đẻ của Lucky Luke là họa sĩ người Bỉ, Maurice de Bevere (1923-2001), còn có biệt danh là Morris. (Lucky Luke “ra chào đời” năm 1947)


Cũng họa sĩ truyện tranh người Bỉ, Georges Rémi với bộ truyện tranh Tintin. Bức tranh cho trang bìa gốc của truyện tranh Tintin 'The Blue Lotus' (Lotus Bleu) (1936).


Tấm hình minh họa, vẽ bằng mực Ấn Độ, bột màu gouache và màu nước (water color), cho thấy Tintin mặc trang phục kiểu Trung Quốc, ngồi trong một cái vại/bình với chú chó Snowy đang nhìn mặt con rồng.

 



Những cuốn truyện tranh xoay quanh những cuộc phiêu lưu của Tintin đã lần đầu tiên được ra mắt độc giả vào năm 1929, sau đó, nhân vật này còn xuất hiện trong 24 tác phẩm truyện tranh khác. Tác giả Georges Remi, thường được biết đến với bút danh Hergé, đã qua đời vào năm 1983.

(nguồn Tổng hợp)



Tết Mậu Thân bốn mươi năm sau (1968-2008)

Một tác giả khác, Douglas Pike, trong “The Viet Cong Strategy of Terror” ghi nhận: Ngày 26 tháng 2, những nạn nhân của Tổng Tiến Công Tổng Nổi Dậy được tìm thấy đầu tiên là 170 xác người chôn ở sân trường trung học Gia Hội. Trong vài tháng sau đó gần 1200 xác người khác tìm thấy ở 18 mồ chôn tập thể rải rác trong tỉnh.

Bẩy tháng đầu năm 1969, chính quyền Miền Nam lại tìm thêm được 800 xác người chôn ở đồi các quận Phú Thứ, Hương Thuỷ, Vĩnh Lộc, Nam Hoà. 19 tháng 9, số nạn nhân bị thảm sát tăng cao khi chính quyền phát hiện thêm mồ chôn tập thể dân Phú Cam ở khe Đá Mài. Ngày mồng 5 Tết, khoảng 400 dân đang tị nạn tại nhà thờ đã bị Việt Cộng đem đem đi gọi là “cải tạo” nhưng đã bị thảm sát sau đó.

Tháng 11, 1969 một mồ chôn tập thể khác tìm thấy ở Phú Thứ có ít nhất 300 nạn nhân và con số có thể lên đến cả ngàn người.


Ở một góc riêng mình, Gareth Porter trong bài “The 1968 ‘Hue massacre’” đăng trên “Indochina Chronicle,” số 33 ngày 24 tháng 6, 1974, phủ nhận những con số của Douglas Pike và nguyên nhân của những mồ chôn tập thể tìm thấy ở Huế và vùng phụ cận. Bằng lời chứng của Alje Vennema, bác sĩ giám đốc bệnh viện trị lao phổi của Canada ở Quảng Ngãi cho đến tháng 8, 1968 có mặt tại các cuộc kiểm tra mồ chôn tập thể, Porter cho rằng số xác người chôn ở sân trường Gia Hội ít hơn số liệu của chính quyền Miền Nam đưa ra.


(Trần Giao Thủy)



Bức tượng “Thương Tiếc”

Khi cuộc chiến leo thang khốc liệt, năm 1966 Nghĩa Trang Quân Đội tại Hạnh Thông Tây, Gò Vấp, bắt đầu không còn đủ đất để các tử sĩ VNCH yên nghỉ. Chính phủ nền Đệ Nhị Cộng Hòa của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu phải tính đến việc thành lập một nghĩa trang mới và địa điểm được lựa chọn nằm dọc theo phía tay trái của xa lộ Biên Hòa (nay là xa lộ Hà Nội) nếu từ hướng Sài Gòn đi Biên Hòa.


(Bức tượng “Thương Tiếc”, nặng 10 tấn, cao hơn 6m, được đặt tại cổng vào Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa)


Điêu khắc gia, Đại Úy Nguyễn Thanh Thu, được lệnh Tổng Thống Thiệu lên đường đi Phi Luật Tân để nghiên cứu mô hình xây dựng Nghĩa Trang Quân Đội Hoa Kỳ tại Manila (American Cemetery in Manila), được coi là một nghĩa trang đẹp nhất Á châu. 



(Nghĩa trang Quân đội Hoa Kỳ tại Manila. Hình tác giả chụp tại thủ đô Manila) 


Năm 2003, tôi đã có dịp đến Phi Luật Tân và viếng Nghĩa trang Hoa Kỳ tại thủ đô Manilla [1]. Nghĩa trang có tên American Cemetery, đây là nơi chôn cất thi hài quân nhân Mỹ và Đồng Minh đã nằm xuống trong cuộc chiến ở Thái Bình Dương vào thời Thế Chiến Thứ Hai.


Nghĩa trang nằm trên một khu đất rộng 615,000 mét vuông, trồng cỏ xanh rì vây quanh là những hàng cây rợp bóng mát. 17,206 ngôi mộ chiến sĩ được đánh dấu bằng các thập tự giá và xếp hàng thẳng tắp như một đội quân thầm lặng. Điểm xuyết cho nghĩa trang là một vài tượng đài kỷ niệm ghi những dòng chữ tưởng nhớ công ơn những vị anh hùng “vị quốc vong thân”.

(Nguyễn Ngọc Chính)


Nguyễn Ngọc Chính chào đời ngày 19/6/1946, ở Vĩnh Yên. 1953 di cư vào Đà Lạt. Anh nguyên là một cựu sĩ quan QLVNCH, khóa 4/68 Thủ Đức. Năm 1969, mãn khóa anh tùng sự tại trường Sinh Ngữ Quân Đội. Sau 30 tháng 4, anh đi “cải tạo(Trảng Lớn, Tây Ninh). Khi thóat khỏi tù, anh không tìm cách vượt biên hoặc rời đất nước theo diện HO. Anh chọn ở lại, cũng nhờ vậy, chúng ta đọc được những dòng ký ức Hồi ức một đời người“, đằm thắm tình quê, tình đất, tình người của anh. 



Chúng tôi đau đớn báo tin…

Trước kia gia đình theo đạo Công giáo thường viết:

Chúng tôi đau đớn báo tin…, câu này thì phải đi trước sự bất hạnh, một khổ đau, một sự buồn khổ. 

Nhưng ngay câu sau đó lại là câu:

“Chồng, cha chúng tôi được Chúa gọi về ngày…”


Viết như thế, ai cũng nghĩ việc làm của Chúa gây sự đau khổ não cho gia đình người quá cố.

(Chữ nghĩa chúng ta – Bùi Bảo Trúc)

Khấp báo…

Thế rồi cuối đoạn cáo phó còn thêm câu: “Tang gia đồng khấp báo”. Khấp là khóc. Khóc thì phải khổ đau lắm. Tại sao đổ cho Chúa đã gây ra đau khổ cho gia đình đến nỗi phải khóc (đồng khấp) mà “đau đớn” thông báo tin về sự ra đi của người thân trong gia đình.

(Chữ nghĩa chúng ta – Bùi Bảo Trúc)



Kịch tác gia Trần Lê Nguyễn

Chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, quân nhân lên cầm quyền. Chế độ quân nhân muốn báo chí vào khuôn vào phép, không được nói lên điều dở điều chướng tiêu cực của nhà nước, đặt ra một số điều lệ bắt nhà báo phải tuân theo.

Tôi nhớ một buổi họp báo của một ông tướng cầm quyền ở phủ thủ tướng. Ông tướng họp báo nói lên điều lợi điều hại gì đó. Ra luật lệ kinh khủng lắm. Buổi họp báo chiều hôm ấy chỉ một mình ông tướng nói, chẳng một nhà báo nào đứng lên đặt câu hỏi. Rồi một nhà báo lớn tuổi, tôi nhớ là ký giả Tô Văn đứng dậy vỗ tay, lây lan sang hàng mấy chục ký giả khác cũng đứng dậy vỗ tay theo. Chấm dứt cuộc họp báo. Các nhà báo ra về trên lối đi có hai hàng lính cận vệ ghìm súng. Chúng tôi coi cuộc họp báo ấy như pha, như không có, qua sự chứng kiến của những nhà báo nước ngoài. Cuộc họp báo chỉ có thế thôi, nhưng đã nói lên thật nhiều, thực tế chẳng ký giả nào nói gì.

Tôi đã sống qua những kỷ niệm ấy, tôi trang trọng nghề nghiệp mình. Sau năm 1975, anh em đồng nghiệp của tôi xảy đàn tan nghé. Tôi còn lại trên đất nước quê hương, dù còn yêu nghề lắm nhưng không hòa nhập được. Có muốn cũng đành chịu. Lý do tại sao tôi cũng đã nói rồi nên không nói lại, tôi đành gác cây bút lên một thời gian dài, để tìm đường tự cứu sống mình và gia đình.

Đến tuổi già hết sức lao động, chòm xóm có đưa giấy mời vào hội phụ lão, từ mấy năm nay, nhưng tôi vẫn chưa tham gia, vì tôi nghĩ tôi không có thì giờ ngồi đánh cờ với các cụ, hay đi dự những cái gọi là quan hôn tang tế gì đó trong chòm xóm. Hoặc phải viết một bài điếu văn theo đơn đặt hàng, vì tôi cũng có chút chữ nghĩa viết được ra câu ra cú, xài tàm tạm vậy. 

(Nguyễn Thụy Long)


***


Phụ đính I


40 Năm hải ngoại - Một nén hương - Cho những nhà văn

nhà thơ đã khuất núi 

(Danh sách cập nhật tới tháng 6/2017 – Nhật Tiến biên soạn 

Tổng hợp từ nhiều nguồn)

 

Trần Hồng Châu

Thi sĩ Trần Hồng Châu tức Giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, sinh năm 1921, tại Hưng Yên, mất năm 2003 tại California. Học tại Trung học Khải Định, Huế (1936-1943) rồi Đại Học Luật Hà Nội cho tới năm 1945.

Xuất ngoại: Học Đại Học Sorbonne, Paris, đậu Cử nhân Văn Chương năm 1950, và Tiến Sĩ Văn Chương Quốc Gia (Doctorat d’Etat) năm 1955. Tốt nghiệp Viện Cao Đẳng Quốc Tế Học thuộc Đại Học Luật Khoa Paris (Institut des Hautes Études Internationales de la Faculté de Droit), Paris, 1952.

Tốt nghiệp Trung Tâm Âu Châu Học thuộc Đại Học Nancy (Université de Nancy) Pháp quốc, 1957.


Về nước năm 1957, gia nhập ban giảng huấn Đại Học Văn Khoa Saigon, phụ trách các môn Văn Chương Pháp và Văn Chương Việt Nam. Đồng thời cũng giảng dậy tại Đại Học Sư Phạm Saigon, Học Viện Quốc Gia Hành Chính và Viện Đại Học Huế. Được bầu Khoa Trưởng Đại Học Văn Khoa Saigon từ 1965 đến 1969.


Giáo sư biệt thỉnh về Văn Chương Pháp và Văn Chương, Văn Hoá Việt Nam tại Southern Illinois University trong thời gian 1970-1974. Thành viên của Ủy Ban Điển Chế Văn Tự và Ủy Ban Soạn Thảo Từ Điển Bách Khoa Việt Nam (1968-1970). 


Xây Dựng Và Phát Triển Văn Hoá Giáo Dục, (biên khảo, phê bình), Lửa Thiêng, Saigon, 1970.
Thành Phố Trong Hồi Tưởng (tùy bút), Los Angeles,1991.
Nửa Khuya Giấy Trắng (thơ), Thanh Văn, Los Angeles, 1992.
Nhớ Đất Thương Trời (thơ), Thế Kỷ, Los Angeles, 1995.
Để Tưởng Nhớ Nguyễn Du (thơ), Viện Việt Học, 2002
Tuyển tập Trần Hồng Châu (thơ, tùy bút, tiểu luận), 2004


***


Phụ đính II


Đi tìm mộ Thâm Tâm - 1

Như ta đã biết, sau này Thâm Tâm đi theo kháng chiến. Ông là Thư Ký Toà Soạn báo Vệ Quốc Quân có trụ sở đóng tại vùng căn cứ kháng chiến thuộc tỉnh Cao Bằng. Theo các tài liệu trong hồi ức của bạn bè, Thâm Tâm là một người làm báo tận tuỵ, rất có trách nhiệm trước công việc, trước bạn đọc. Chỉ một cái địa danh in sai trên bản in thử mà ông đã băng rừng gần chục cây số qua suối lũ, hổ rừng đe doạ để sửa. 


Ông mất vì bệnh sốt rét rừng. Cũng là do làm việc quá sức, ăn uống kham khổ, lại khí hậu khắc nghiệt mà ra cả. Đồng đội ông kể lại rằng khi phát hiện ra Thâm Tâm bị ốm thì đã vội cáng nhà thơ về trạm xá của đơn vị cách chừng một ngày đường đi bộ để điều trị, tiếc thay trên đường nhà thơ đã lặng lẽ tắt thở, không kịp trăng trối điều gì. Lúc ấy vào rạng sáng một ngày thu sương trên núi rừng Việt Bắc - 18.8.1950.

(Văn Giả)


Đi tìm mộ Thâm Tâm - 2

Người viết bài này đã cùng thân nhân gia đình Thâm Tâm và một số nhà văn nhà thơ khác của tỉnh Cao Bằng cất công đi tìm mộ nhà thơ Thâm Tâm. Thật kỳ công. Khung cảnh nơi đây đã khác hẳn. Năm mươi năm vật đổi sao dời. Khi xác định được đúng ngôi mộ rồi, thì hài cốt nhà thơ đã được bốc dỡ, di dời về nghĩa trang huyện Quảng Hoà. Nhưng tiếc thay, về tới đây, khi chưa kịp gắn bia mộ, sơ đồ mộ chí còn trong túi hồ sơ, thì chẳng may trong vụ tháng 2/1979, hồ sơ bị những kẻ ngoại bang đốt sạch. 


Vậy là ngôi mộ Thâm Tâm hiện giờ không rõ đích xác ngôi mộ nào. Khi Thâm Tâm mất, hành trang chẳng có gì. Sau này gia đình nhà thơ được đơn vị trao lại một chiếc ba lô, trong đó còn một vài thứ gồm mấy trang ghi chép có tính chất nhật ký, cuốn Đại đội Kim Sơn của tác giả mới in, một bài tham luận tại Đại hội văn nghệ, sáu bức ảnh chụp hình nhà thơ và các bạn văn nghệ kháng chiến, một chiếc bút máy và một cái thìa nhỏ. Tất cả chỉ có thế. Bà quả phụ Thâm Tâm lâu nay vẫn đặt chiếc thìa nhỏ đó lên ban thờ linh hồn Thâm Tâm, như một kỷ vật thân thương duy nhất còn giữ được. Tuy nhiên, còn có một thứ hành trang vô giá mà Thâm Tâm để lại đó là các áng văn thơ.

(Văn Giả)








Không có nhận xét nào: