Thứ Bảy, 31 tháng 5, 2025

TÔI VẪN …. - Thơ Songquang và Thơ Họa


             

     TÔI VẪN ….

( Trường thiên tứ tuyệt)

Tôi vẫn đi tìm chốn ổn yên

Dù cho rừng núi hoặc bưng biền

Thấy đời lắm chốn còn vui sống

Trông cảnh nhiều nơi ít muộn phiền


Tôi vẫn thường đi cạnh cuộc đời

Dẫu cho sóng gió giữa trùng khơi

Hay là mưa bão trên dòng nước

Để biết niềm đau của đất trời

 

Tôi vẫn mơ ngày đất nước tôi

Tự do ,hạnh phúc đến muôn người

Việt Nam tan biến đời tăm tối

No ấm dân nghèo hết tả tơi

 

Tôi vẫn mong tìm một chữ yêu

Hồn thiêng sông núi đẹp bao nhiêu

Thấy đàn cò trắng trên đồng ruộng

Lẫn sáo diều bay giữa ráng chiều

Songquang

 20250521

 

Thơ Họa:

      TÔI MUỐN

Tôi muốn thái bình cảnh sống yên

Từ xuôi đến ngược lẫn ao biền

Mọi nhà sung túc vui an lạc

Muôn nẻo an khang hết não phiền.

 

Tôi muốn cho em hạnh phúc đời

An nhàn, cuộc sống mãi vui khơi

Như dòng nước mát nuôi cây cỏ

Tựa ánh dương hồng quyện biển trời.

 

Tôi muốn là em mãi của tôi

Là niềm ao ước của muôn người

Dịu dàng, bác ái luôn chân thật

Trong sáng, thiện lương dẫu áo tơi!

 

Tôi muốn cùng em trọn cuộc yêu

Bởi đời ngắn ngủi chẳng nhiều nhiêu

Giàu sang, nghèo khổ cùng tâm thuận

Sánh bước bên nhau đến xế chiều.

     LAN

(22/05/2025)

 

      TÔI MUỐN

Tôi muốn mỗi ngày được sống yên

Xuống bưng lùa vịt thả trong biền

Lai rai xị đế chiều an tịnh

Ngắm ruộng cò bay chẳng não phiền

 

Tôi muốn lánh xa biển lận đời

Sóng triều tang hải lụy ngàn khơi

Xuồng nan mỏng mảnh ao hồ phận

Được sống yên vui thuận ý  trời

 

Tôi muốn thoát hồn khỏi xác tôi

Để không ràng buộc xác thân người

Vào nơi táng tận lương tâm mãi

Tựa kiếp bù nhìn mặc áo tơi

 

Tôi muốn trọn đời vẹn nghĩa yêu

Phù sa tưới tẩm ruộng phì nhiêu

Gió thơm hương lúa miền quê Mẹ

Bát ngát đồng xanh rực nắng chiều

Lý Đức Quỳnh

   22/5/2025

 

DÂU BỂ TRẦM LUÂN

Dâu bể trầm luân ai được yên,

Gian truân khổ hải trải sông biền.

Đường đời nhơn loại hơn thua mãi,

Bảo tố dập dồn phải muộn phiền .

             xxx

Kiếp sống bấp bênh giữa sóng đời,

Con đường Đạo đức dặm ngàn khơi.

Nhân gian ảo vọng tranh vương bá,

Vũ khí tối tân phủ khắp trời.

            xxx

Đất nước Việt Nam quê của tôi,

Chiến tranh khóc hận biết bao người.

Anh hùng dân tộc ngăn xâm lược,

Giải ách đói nghèo rách tả tơi.

             xxx

Độc Lập tự do vạn dân yêu,

Giang sơn gấm vóc đẹp phì nhiêu.

Hòa Bình thống nhât cờ phơi phới.

Một giải non sông đẹp nắng chiều.

Mỹ Nga

    21/05/2025 ÂL, 24/04/ẤT TỴ.

 

       TÔI MONG

Tôi mong thế giới mãi bình yên

Từ chốn sơn lâm đến bãi biền

Hết cảnh xâm lăng và áp bức

Xa điều lo lắng, nỗi ưu phiền.

 

Tôi mong mọi chốn ở trên đời

Đồi núi, ruộng đồng lẫn biển khơi

Khí hậu ôn hòa, mưa nắng thuận

Thiên nhiên tươi đẹp dưới ơn trời.

 

Tôi mong quyến thuộc, bạn bè tôi

Ai cũng an vui trọn kiếp người

Hạnh phúc, ấm no tròn ước nguyện

Không người đói lả, kẻ te tơi.

 

Tôi mong san sẻ trọn tình yêu

Có được bao nhiêu tặng bấy nhiêu

Gởi khắp thế gian, người mọi chốn

Trong từng khoảnh khắc sáng, trưa, chiều.

  Sông Thu

( 22/05/2025 )

 

    ÔN LẠI THỜI GIAN

Bao năm tạm sống chốn bình yên,

Bận rộn xa xôi khắp mọi miền.

Tuổi trẻ thời xưa trai vạn dặm,

Chiến tranh gieo ác trãi ưu phiền.

 

Tuổi già giờ chẳng khổ lo đời,

Nhớ lúc leo thuyền vượt biển khơi.

Lặn lội bôn ba xa bỏ nước,

Tìm nơi nương náo nguyện ơn trời.

 

Thời gian giờ có một mình tôi,

Chẳng trách trời cao chẳng oán người.

Nghĩ phận hẩm hiu trưa sớm tối,

Một mình cô quạnh bóng te tơi.

 

Còn chi mà nhớ đến người yêu,

Nhắc để mà chi khổ lụy nhiều.

Tuổi hạc giờ tìm thơ xướng họa,

Bạn bè vui vẻ sáng trưa chiều.

                        *

Âm thầm hiên đón gió hiu hiu!!!

HỒ NGUYỄN

  (22-5-2025)

 

        TÔI HẰNG

Tôi hằng tìm kiếm nẻo bình yên

Tránh chốn đao binh, cảnh võ biền

Mà vẫn hoài trông đời khốn khổ

Đâu đâu cũng ngập nỗi buồn phiền

 

Tôi hằng rong ruổi khắp trần đời

Từ núi rừng xanh xuống biển khơi

Để thấu niềm đau người lẫn vật

Trầm luân vật lộn dưới gầm trời.

 

Tôi hằng mơ ước thấy quê tôi

Hạnh phúc, tự do đến mọi người

Nhân phẩm, nhân quyền mau tái hiện

Cuộc đời thăng tiến hết sầu tơi.

 

Tôi hằng mơ ước thấy tình yêu

Nẩy trổ muôn nơi, yêu thật nhiều

Để trái tim hồng nồng ấm mãi

Đắm say tha thiết khúc ca chiều.

CAO BỒI GIÀ

  22-5-2025


         CỨ NGỠ

Cứ ngỡ về vườn chúng để yên

Cất chòi ngay mảnh ruộng đầu biền*

Nào ngờ bọn héng ưng gây chuyện

Súng ống hăm he rắc rối phiền

 

Cứ ngỡ xuôi chèo dựng lại đời

Xuống ghe cùng chiến hữu ra khơi

Te tua sóng vật hơn tuần lễ

Ói mửa rên la thấu tận Trời

 

Cứ ngỡ bầu sinh ngữ của tôi

Giúp cho lây lất chốn quê người

Không dè vốn liếng "ăn đong" ấy

Chẳng đỡ cho thân bớt nát tơi

 

Cứ ngỡ muôn đời chẳng thể yêu

Cắm đầu cày cuốc mất giờ nhiều

Năm qua tháng đến dài vô tận

Gặp lại người xưa lúc quá chiều

Nông gia hai lúa

miệt vườn New Jersey 24 tháng 5,2025

*Ruộng đầu biền: mảnh ruộng nằm sát hương lộ. Nay hầu hết đã thành những khu xóm dân cư mới.


           AN CƯ

An cư lạc nghiệp cũng chưa yên

Thất thủ Sài Gòn mãi võ biền

Thấy cảnh đàn em ham hố sống

Nghe đời rạn nứt mới ưu phiền

 

An cư học hỏi cũng yêu đời

Nhớ lại thời gian vượt biển khơi

Đã biết tang thương trên sóng nước

Cho hay khổ hải cuối chân trời

 

An cư phải nghĩ đến quê tôi

Mơ ước tự do đến triệu người

Xứ sở thanh bình không bão tố

Gió hoà mưa thuận há mang tơi

 

An cư khỏe mạnh với tình yêu

Cẩm tú non sông cảnh đẹp nhiêu

Thẳng cánh cò bay trên ruộng lúa

Sáo diều phiêu lãng ráng mây chiều

       MAI XUÂN THANH

   Silicone Valley, May 24, 2025

 

         TÔI ĐÃ…

Tôi đã tìm về sống thật yên

Nơi này đất cõi bưng miền biền

Mật khu chống giặc thời chinh chiến

Nay cảnh thanh bình chẳng nhiễu phiền

 

Tôi đã an tâm hội nhập đời

Cùng vui san sẻ khắp ngàn khơi

Hòa mình ngày tháng duyên không đợi

Hạnh phúc chứa chan thấu ngất trời

 

Tôi đã không còn thắc mắc tôi

Mà gieo trải nghiệm ngập tình người

Quê hương mới chính là nguồn cội

Dân tộc anh hùng dẫu đói tơi

 

Tôi đã thầm mơ xưa tiếng yêu

Sông dài biển rộng đất phì nhiêu

Bà ba quần lãnh dáng quê điệu

Em vẫn luôn mưa sáng nắng chiều.

Hải Rừng

25/5/2025

 

      NHỜ TRỜI

Nhờ trời tạm sống xứ bình yên

Lặng lội bao năm khắp xã biền

Nhớ lại thuở xưa ngày sợ hãi

Sau cơn thịnh nộ nhận ưu phiền

                       xx

Kiếp người trở lại ở trên đời

Thử thách bôn ba lội biển khơi

May mắn cặp bờ thuyền lướt sóng

Ơn trên gia hộ cứu nhờ Trời

                       xx

Đêm dài thao thức ngẫm buồn tôi

Như giấc chiêm bao giống mọi người

Khủng khiếp chiến tranh thù gục ngã

Tranh dành mảnh đất xén bời tơi

                        xx

Tôi vẫn trong tim tổ quốc yêu

Núi non hùng vỹ ruộng phì nhiêu

Bà con cày cấy mùa vui hát

Nhớ quá quê hương nắng nhạt chiều ..

 Yên Hà

24/5/2025

 

         TÔI ĐÃ …

Tôi đã một thời sống thật yên

Đơn sơ hạnh phúc cạnh sông biền

Hằng ngày lên tỉnh cùng  bè bạn

Kinh sử luyện trao chẳng nhiễu phiền

 

Tôi đã chuyên tâm suốt một đời

Dẫu cho gian khổ chẳng sầu khơi

Gắng công đèn sách ơn cha mẹ

Toại ước công danh nợ biển trời

 

Tôi đã nhủ lòng nói với tôi

Quê hương bổn phận của từng người

Cùng nhau bảo vệ không hờ hững

Chung sức  gìn lưu chẳng rã tơi

 

Tôi đã có lần nói tiếng yêu

Việt Nam sông núi đất phì nhiêu

Rạng ngời cô gái trên đê vắng

Nón lá che nghiêng dưới nắng chiều

    Hưng Quốc

                                 Texas 5-24-2025


       CHIỀU

Thất thập qua rồi thân chẳng yên

Vì sao mãi chịu những ưu phiền?

Đã qua nửa kỷ còn đeo đẳng

Bởi gánh trên vai tiếng "Võ Biền".


Một thời lang bạt giữa vùng khơi

Sống kiếp tha hương hơn nửa đời

Cố gắng bòn thương nơi xứ lạ

Gom bao nỗi nhớ tận phương trời.


Lận đận vẫn còn bám víu tôi

Nghe lời vun bón của bao người

Nên thân chẳng bỏ , vì thương cảm

Bởi thế mang hoài mảnh áo tơi.


Vấn lòng tình đó có còn yêu

Đem chất lên vai được bấy nhiêu

Thừa thãi xin nhường cho bạn trẻ

Vì mình tuổi đã bước sang chiều.

2025-05-31

  Võ Ngô














 







 






TÌM HIỂU Ý NGHĨA ĐỨC NHÂN TRONG LUẬN NGỮ CỔ NGHĨA CỦA ITÔ JINSAI (Bài 11) (Nguyễn Sơn Hùng dịch)

 

TÌM HIỂU Ý NGHĨA ĐỨC NHÂN TRONG LUẬN NGỮ CỔ NGHĨA CỦA ITÔ JINSAI (Bài 11)

                                              Nguyễn Hiến Lê:Nhà văn,Dịch giả 1912-1984


Đức nhân trong chương 17 Dương Hóa
Tác giả: Nguyễn Sơn Hùng

Phàm lệ

  • Dịch là của Nguyễn Hiến Lê.
  • Chú thích và Bàn thêm là của Jinsai.
  • Các hạng mục khác là của người dịch.

CHƯƠNG 17 DƯƠNG HÓA

Bài 17.1 Đối với bậc thánh nhân dù không thích đối tượng cũng vẫn ứng xử theo đúng lễ nghĩa.

Dương Hóa dục kiến Khổng tử, Khổng tử bất kiến; qui Khổng tử đồn. Khổng tử thời kỳ vô dã nhi vãng bái chi. Ngộ chư đồ. Vị Khổng tử viết: “Lai, dự dữ nhĩ ngôn”. Viết: “Hoài kỳ bảo nhi mê kì bang, khả vị nhân hồ?” Viết: “Bất khả. Hiếu tòng sự nhi cức thất thì, khả vị trí hồ?” Viết: “Bất khả. Nhật nguyệt thệ hỹ, tuế bất ngã dự”. Khổng tử viết:“Nặc. Ngô tướng sĩ hỹ.”

陽貨欲見孔子,孔子不見,歸孔子豚。孔子時其亡也,而往拜之,遇諸塗。謂孔子曰:來,予與爾言。曰:懷其寶而迷其邦,可謂仁乎?曰:不可。好從事而亟失時,可謂知乎?曰:不可。日月逝矣,歲不我與!孔子曰:諾,吾將仕矣。

Dịch

Dương Hoá muốn gặp Khổng tử, nhưng Khổng tử không đến thăm y, nên y biếu Khổng tử một con heo sữa (luộc chín). Khổng tử rình lúc Dương Hoá đi vắng, lại nhà y tạ ơn. Không ngờ trên đường về gặp y. Y gọi Khổng tử: “Lại đây, tôi muốn nói chuyện với ông”. Rồi nói: “Giấu tài đức quý báu mà không cứu nước đang mê loạn, có thể gọi là người nhân được không?” (Khổng tử làm thinh). Dương Hoá nói tiếp: “Không gọi là nhânđược. Muốn ra làm quan mà nhiều lần bỏ lỡ cơ hội, có thể gọi là trí được không?” (Khổng tử lại làm thinh). Dương Hoá lại nói tiếp: “Không gọi là trí được. Ngày tháng trôi qua, tuổi chẳng đợi ta”. Khổng tử nói: “Vâng. Tôi sẽ ra làm quan.”

Chú thích

  1. “Dương Hóa dục… Khổng tử đồn.” Dương Hóa là gia thần của Quý thị, tên là Hổ. Dương Hóa giam chủ nhân là Quý Hoàn Tử vào chỗ kín không cho ra ngoài để thực hiện chính trị nước Lỗ theo ý riêng. Người nước Lỗ kính phục Khổng tử từ trước. Dương Hóa gọi Khổng tử đến với mục đích để Khổng tử đến chào hỏi, với ý định nâng cao trọng lượng bản thân với người đời. Tuy nhiên Khổng tử không đến. Theo quy định của lễ, khi đại phu tặng đồ vật cho người sĩ, nếu như người sĩ không có thể bái nhận lễ vật ở tại nhà mình thì phải đến nhà của đại phu để tạ lễ ở ngoài cổng.

Do đó, Dương Hóa cố ý chờ dịp Khổng tử vắng nhà, gửi heo đến tặng với mục đích để phu tử đến chào hỏi mình.

  • “Khổng tử thời kỳ… vãng bái chi.”Khổng tử không muốn gặp Dương Hóa nên chờ lúc Dương Hóa không ở nhà để đến tạ lễ.
  • “Ngộ chư… khả vị nhân hồ?” Viết: “Bất khả.”“Đồ” là con đường đi. “Hoài kỳ bảo nhi mê kì bang”ý nói “giữ kính đạo đức trong lòng mà không cứu giúp quốc gia đang lúc loạn lạc”. “Nhân” là loại đức lan rộng, phổ biến khắp mọi nơi trong thiên hạ.
  • “Hiếu tòng sự nhi… khả vị trí hồ?” Viết: “Bất khả.”“Cức”là lập đi lập lại nhiều lần. “Thất thì” là bỏ lỡ dịp tốt để thực hiện sự việc.
  • “Nhật nguyệt… tướng sĩ hỹ.” Theo Chu thị (Chu Hy) ““Tướng” là tiếng dùng để chỉ trạng thái sắp thành như vậy ở thời điểm hiện tại nhưng chưa chắc chắn là như vậy”.

Giải thích

Bài này ghi lại việc “Trọng Ni (Khổng tử) không làm chuyện cực đoan”(Mạnh Tử viết: “Trọng Ni bất vi dĩ thậm giả.”, Bài 10 chương 8 Ly Lâu hạ, Mạnh Tử)để khuyên dạy người học nên ứng xử quyền biến (không nên cố chấp mà linh động) việc đời. Đạo vốn là thứ có thể thông dụng mọi nơi, bất cứ chỗ nào trên thế giới. Tuy nhiên nếu tất cả đều khó có thể thực hiện một cách cao thượng thì không thể gọi là đạo. Nói tổng quát, nếu là người có chí hướng thì gấp rút muốn thực hiện cho bằng được, nếu là người có khí lực thì hành động kịch liệt. Chỉ có bậc thánh nhân thì đạo của họ rộng lớn, đức của họ cao dày, nên đối với sự việc trong thiên hạ không có việc nào là thật tốt, không có việc nào là thật xấu một cách cực đoan, họ tự nhiên ứng xử quyền biến, không có việc gì mà họ ứng xử không thích nghi.

Bàn thêm

Trong cựu chú (Luận Ngữ Tập Chú của Chu Hy) viết “Việc Khổng tử không đi gặp (Dương Hóa) là nghĩa (đúng với đạo lý). Khổng tử đi chào đáp lại là đúng lễ. Việc chờ đối tượng vắng nhà để đi đáp lễ là cách ứng xử sau khi đã nắm rõ ý tưởng suy nghĩ của đối tượng. Gặp giữa đường mà không lẫn tránh là bởi vì không có ý định tuyệt giao. Trả lời nội dung đối tượng hỏi là do tính cách công bình vô tư của đạo lý. Trả lời nhưng không giải thích là do khiêm tốn chứ không phải nghẹn lời.” Tôi nghĩ rằng nội dung giải thích trên có lý. Tuy nhiên, đối với sự vĩ đại của đức thánh nhân (Khổng tử), việc lấy từng chữ, từng câu trong lời nói của họ mà nghị luận thì giống như căn cứ vào các tiêu chuẩn chi tiết nhỏ nhoi mà quan sát sự to lớn bao la của cả trời, lấy một nắm đất nhỏ mà muốn suy diễn ra cả mặt đất. Càng bới móc tìm kiếm chi tiết thì càng cách xa với chân ý!

Nhận xét”

  1. Nội dung tán thưởng thánh nhân trừu tượng trong Giải thích không cụ thể nên không có tính thuyết phục.
  2. Nếu chú giải của Chu Hy cho chữ “tướng” đúng thì cách dịch “Tôi sẽ ra làm quan.” của cụ Lê không nói lên được ý này.


Bài 17.5 Người có đức nhân là người thực hiện 5 điều: cung kính thận trọng, khoan dung độ lượng, được người tin cậy, cần mẫn siêng năng, giúp đỡ và thực hiện ơn huệ với người khác.(Phương pháp để có đức nhân: trả lời của Khổng tử đối với Tử Trương)

Tử Trương vấn nhân ư Khổng tử. Khổng tử viết: “Năng hành ngũ giả ư thiên hạ, vi nhân hĩ” – “Thỉnh vấn chi”. Viết: “Cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Cung tắc bất vũ, khoan tắc đắc chúng, tín tắc nhân nhiệm yên, mẫn tắc hữu công, huệ tắc túc dĩsử nhân.”

子張問仁於孔子。孔子曰:能行五者於天下,為仁矣。請問之。曰:恭,寬,信,敏,惠。恭則不侮,寬則得眾,信則人任焉,敏則有功,惠則足以使人。

Dịch

Tử Trương hỏi Khổng tử về đạo người. Khổng tử đáp: “Làm được năm đức trong thiên hạ thì gọi lànhân”. Tử Trương nói: “Xin thầy cho con biết năm đức ấy”. Khổng tử đáp: “Cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Cung kính thì không bị khinh nhờn, khoan hậu thì được lòng mọi người, thành tín thì được người tín nhiệm, cần mẫn thì thành công, từ huệ thì sử dụng được người.”

Ghi chú

Trong Luận Ngữ Cổ Nghĩa sắp bài 3 chung với bài 2, nên bài 12.5 này trong sách cụ Lê là bài 12.6, số các bài sau trong chương 17 này cách nhau 1 số.

Chú thích

  1. “Tử Trương vấn…mẫn, huệ.”“Thiên hạ” là từ ngữ để diễn tả sự rất rộng lớn bao la, ý nói không có nơi chốn nào mà không như vậy. Nếu như thực hiện 5 điều này tốt trong thiên hạ thì tác dụng của đức vàgiáo hóa sẽ lan rộng ra khắp mọi nơi và mọi sự vật sự việc trong xã hội đều có được vị trí thích hợp xứng đáng.
  2. “Cung tắc… sử nhân.”“Nhiệm” là được tin cậy, được nương tựa vào. Câu trước nêu ra 5 hạng mục, câu này giải thích hiệu quả của mỗi hạng mục.

Giải thích

Bài này phu tử (Khổng tử) chủ yếu nêu lên mục tiêu nỗ lực tu dưỡng đức để nói cho Tử Trương biết. Nếu như thực hiện tốt 5 điều này trong thiên hạ thì đối với người thân thuộc gần gũi hoặc người xa lạ ở xa, người có thân phận cao hoặc người có thân phận thấp, không ai là không tâm phục. “Vua của một nước nếu tin tưởng dùng các nhân vật có 5 đức tính này thì quốc gia sẽ an định và giàu có thịnh vượng và nhà vua cũng được tôn kính và giữ được địa vị. Các con em tuân theo lời khuyên dạy này thì hiếu đễ và trung tín.” (Bài 32 chương 13 Tận Tâm thượng, Mạnh Tử). Không có gì sánh bằng với đức nhân này. Lý do phu tử nêu ra 5 hạng mục này để dạy cho Tử Trương bởi vì phu tử thấy Tử Trương đã cố gắng nâng cao đức của bản thân. Các học giả dựa vào lời Tăng tử phê phán Tử Trương (Bài 15 chương 19 Tử Trương, Luận Ngữ)mà khinh thường Tử Trương, kiến giải này trái ngược với đạo lý. Sự việc này như thế gian thường nói, biết một mà không biết hai.

Nhận xét

  1. Đối với 5 hạng mục: cung, khoan, tín, mẫn huệ, người dịch nghĩ rằng đối với người thông thường ai cũng có thể làm được nếu chịu để tâm cố gắng tập luyện hàng ngày.

Bài 17.8Hiệu quả của việc học: tránh được phóng đãng, tránh bị tổn hại, tránh làm mất lòng người, tránh gây loạn động, tránh bản thân cuồng bạo. Tóm lại là nhắc nhở chúng ta cảnh giác nên giữ được cân bằng, hài hòa, và phán đoán, ứng xử đúng lúc, đúng chỗ đúng cương vị.

Tử viết: “Do dã, nhữ văn lục ngôn lục tế hỹ hồ?” Đối viết: “Vị dã” – “Cư, ngô ngữ nhữ. Hiếu nhân bất hiếu học, kỳ tế dã ngu. Hiếu trí bất hiếu học, kỳ tế dã đãng. Hiếu tín bất hiếu học, kỳ tế dã tặc. Hiếu trực bất hiếu học, kỳ tế dã giảo. Hiếu dũng bất hiếu học, kỳ tế dã loạn. Hiếu cương bất hiếu học, kỳ tế dã cuồng.”

子曰:由也,女聞六言六蔽矣乎?對曰:未也。居!吾語女:好仁不好學,其蔽也愚;好知不好學,其蔽也蕩;好信不好學,其蔽也賊;好直不好學,其蔽也絞;好勇不好學,其蔽也亂;好剛不好學,其蔽也狂。

Dịch

Khổng tử nói: “Này Do (Tử Lộ), anh có nghe nói đếnsáu đức và sáu điều che lấpkhông?” Tử Lộ đáp:“Thưa chưa” – “Ngồi đó, ta nói cho nghe. Ham đức nhân mà không ham học thì bị sự che lấp là ngu muội; ham đức trímà không ham học thì bị sự che lấp là sự phóng đãng; hamđức tínmà không ham học thì bị sự che lấp là bị tổn hại;ham ngay thẳngmà không ham học thì bị sự che lấp là gắt gao, mất lòng người;ham dũngmà không ham học thì bị sự che lấp là loạn động;ham cương cườngmà không ham học thì bị sự che lấp là sự cuồng bạo.”

Chú thích

  1. “Tử viết…“Vị dã””.“Tế” bị bao trùm che dấu, bản chất không phát huy được.
  2. ““Cư, ngô ngữnhữ.” Theo quy định của lễ, người quân tử trường hợp hỏi sự việc gì, nếu thay đổi đề tài thì phải đứng lên trả lời (thiên Khúc Lễ thượng, sách Lễ Ký). Do đó, Khổng tử bảo Tử Lộ ngồi xuống, sau đó mới dạy .
  3. “Hiếu nhân…dã ngu.” Người có đức nhân là người yêu thương người. Tuy nhiên, nếu không học để biết thế nào là đức nhân chân chính sẽ trở nên do dự không quyết đoán, giống như đức nhân của quý bà.
  4. “Hiếu trí… dã đãng.”“Đãng” là truy tìm cái cao xa không biết dừng. Tuy nhiên, nếu không học để biết phán đoán thì quan hệ với xã hội và sinh hoạt hàng ngày sẽ xa cách dần. Lời dạy của Phật giáo và Lão Trang thuộc loại này.
  5. “Hiếu tín… dã tặc.” “Tặc” là làm tổn thương người khác. Người có đức tín nghĩa là người kiên trì giữ lời hứa. Nếu không học để biết giữ lời hứa là thích đáng hay không thì sẽ làm tổn hại đạo và sẽ vấp ngã thất bại, giống như tín nghĩa của Vĩ Sinh尾生và Tuân Tức荀息(cả 2 đều là người thời đại Xuân Thu).
  6. “Hiếu trực… dã giảo.”Người có tính ngay thẳng không làm việc trái với đạo lý. Nếu như không học để bổ sung thì tinh thần cấp thiết không biết khoan dung giống như truyện người con khai ra việc cha mình trộm cắp dê của người khác (Bài 18 chương 13 Tử Lộ, Luận Ngữ)
  7. “Hiếu dũng… dã loạn.” Người hiếu dũng là người thích tiến tới. Nếu không học để biết phán đoán thì đi ngược với đạo lý và làm rối loạn luật pháp.
  8. “Hiếu cương… dã cuồng.” Người có ý chí mạnh mẽ thì tự mình không khuất phục. Nếu không học để biết kiềm chế bản thân thì dễ xung đột với người khác.


Giải thích

Bài này nói hiệu quả rất to lớn của của việc học. Tôi nghĩ rằng 6 hạng mục này đều là mỹ đức trong thiên hạ. Tuy nhiên, trong thực tế có người do bản tính bẩm sinh có được từ lúc chào đời, có người do sở thích nghiêng lệch của bản thân mà không thể có được đức chân chính (nghĩa là không có sự cân xứng giữa các đức tính). Có cố gắng học tập mới tu sửa được sự nghiêng lệch này, tu sửa các khuyết điểm mà hoàn thành vẹn toàn các đức tính đã có được. Trên đời không gì có hiệu quả tốt (íchlợi) bằng việc học.

Bàn thêm

Hiệu quả tốt (íchlợi) của việc học không có gì bằng. Giả sử nếu chúng ta chịu cố gắng học, việc học có thể giúp chúng ta tránh được những chỗ nghiêng lệch, chưa thật sự đúng của bản thân, khi gặp việc trọng đại trong đời sống tự nhiên không bị bối rối sai lầm. Nếu như khinh suất chỉ cậy vào trí tuệ của bản thân, thì dù có tìm kiếm đạo lý thâm sâu cao xa và tìm ra được sự thần bí trong thiên hạ thì cũng không có được đạo chân chính. Bởi vậy, kinh Dịch viết “Hãy ghi nhớ nhiều lời nói và việc làm (ngôn hành) của thánh hiền ngày xưa để tu dưỡng đức” (tượng văn của quẻ Đại Súc). Những người có tư tưởng Phật giáo hoặc Lão Trang không phải là không truy cứu các tư tưởng cao xa nhưng họ xa lánh xã hội đương thời, bỏ đi quan hệ con người. Do đó lý do thánh nhân trách họ, bởi vì họ cách rời đạo lý của vạn vật, bỏ đi tài năng biết phân biệt, từ bỏ việc nghe và thấy việc đời để có kiến thức. Bởi vậy Khổng môn lấy việc học để tu dưỡng đức làm trọng yếu.

Nhận xét

  • Bài này đánh thức chúng ta nhận thức tầm quan trọng của việc học. Tài sức và kiến thức của một con người có giới hạn, trong khi tình hình của xã hội đa dạng lại biến chuyển không ngừng. Do đó phán đoán đúng và ứng xử sự việc đúng lúc, đúng chỗ, đúng vị trí của bản thân cần phải học không ngừng suốt cả đời. Tuy nhiên, điều cần thiết không nên quên là phải nắm vững cơ sở, căn bản để phán đoán thích đáng, tham khảo ý kiến của người khác nhưng không bị cuốn trôi theo.

Một trong những vĩ đại của Khổng tử là người đầu tiên nêu ra tầm quan trọng của việc học trong lúc người đời xem ông là bậc thánh nhân!

Bài 17.20  Quan niệm để tang cha mẹ 3 năm của Khổng học.

Tể Ngã vấn tam niên chi tang: “Kỳ dĩ cửu hỹ! Quân tử tam niên bất vi lễ, lễ tất hoại, tam niên bất vi nhạc, nhạc tất băng. Cựu cốc ký một, tân cốc ký thăng, toản toại cải hỏa, kỳ khả dĩ hỹ”. Tử viết: “Thực phù đạo, y phù cẩm ư nhĩ an hồ?” Viết: “An!” – “Nhữ an tắc vi chi! Phù quân tử chi cư tang, thực chỉ bất cam, văn nhạc bất lạc, cư xử bất an, cố bất vi dã. Kim nhữ an, tắc vi chi”. Tể Ngã xuất. Tử viết: “Dư chi bất nhân dã. Tử sinh tam niên, nhiên hậu miễn ư phụ mẫu chi hoài.Phù tam niên chi tang, thiên hạ chi thông tang dã.Dư dã hữu tam niên chi ái ư kỳ phụ mẫu hồ?”

宰我問:三年之喪,期已久矣!君子三年不為禮,禮必壞;三年不為樂,樂必崩。舊榖既沒,新榖既升,鑽燧改火,期可已矣。子曰:食夫稻,衣夫錦,於女安乎?曰:安!女安,則為之!夫君子之居喪,食旨不甘,聞樂不樂,居處不安,故不為也。今女安,則為之!宰我出。子曰:予之不仁也!子生三年,然後免於父母之懷。夫三年之喪,天下之通喪也,予也,有三年之愛於其父母乎?

Ghi chú: Trong sách của cụ Lê là Bài 17.21

Dịch

Tể Ngã hỏi về phép để tang cha mẹ ba năm, bảo: “Một năm cũng đã lâu rồi. Người quân tử (để tang) ba năm không học tập lễ, lễ nghi tất phải đổ nát, ba năm không tấu nhạc, âm nhạc tất thất truyền. (Đủ một năm) lúa cũ đã ăn hết, lúa mới đã chín, cây dùi cây đe lấy lửa đã dùi hết một vòng (Mỗi mùa dùi một loại cây để lấy lửa, hết bốn mùa là hết một vòng), để tang một năm là được rồi”. Khổng Tử nói: (Chưa hết ba năm) mà ăn cơm gạo thơm, mặc áo gấm thì trò có yên lòng không?” Tể Ngã đáp: “Yên”. Khổng Tử nói: “Yên lòng thì cứ làm! Người quân tử cư tang, ăn đồ ngon không biết mùi, nghe nhạc không thấy vui, ở nhà của mình không thấy yên ổn (thời đó cất một nhà xấu ở gần mộ để cư tang), cho nên không làm như vậy (không ăn gạo ngon, mặc áo tốt…). Nếu trò thấy yên lòng, thì cứ làm!” Tể Ngã ra rồi, Khổng Tử nói: “Dư là đứa bất nhân? Đứa trẻ sinh ra, sau ba năm cha mẹ mới thôi bồng bế, (cho nên) để tang ba năm là lệ phổ biến trong thiên hạ. Dư nó được cha mẹ bồng bế ba năm hay không?” (Có sách dịch là: Dư nó có yêu thương cha mẹ được ba năm hay không?)

Chú thích

  1. “Tể Ngã vấn…cửu hỹ!”“Kỳ” là đầy 1 năm.
  2. “Quân tử…nhạc tất băng.” Tể Ngã trình bày lý do không thể để tang 3 năm.
  3. “Cựu cốc…khả dĩ hỹ.” Tể Ngã trình bày lý do để tang 1 năm là đủ. “Một” là hết sạch. “Toại” là cây để lấy/nhóm lửa. Thay đổi lửa là việc như sau. Theo sách Chu Lễ, quan Tư Quán司爟 phụ trách việc ra mệnh lệnh sử dụng lửa. Tùy theo mùa mà thay đổi lửa của quốc gia sử dụng để ngăn chặn các bệnh dịch xảy ra theo mùa. Theo chú thích, mùa xuân dùng cây du và  cây liễu, mùa hè dùng cây táo và cây hạnh, cuối hè dùng cây dâu nuôi tằm hoặc cây chá (dâu rừng), mùa thu dùng cây tạc (ngày xưa dùng làm lược chải tóc) và cây do (cây gỗ mềm dùng làm vành xe và lấy lửa), mùa đông dùng cây hòe và cây đàn (loại cây có hương thơm, có bạch đàn và hoàng đàn). Đọc lại nguyên văn rõ ràng là một năm “cải hỏa” (làm lửa mới) một lần chớ không phải thay đổi lửa từng mùa. Do đó, không nên chỉ căn cứ vào sách Chu Lễ mà giải thích ý nghĩa của bài này.
  4. “Tử viết… Viết: “An!””“Đạo” là (lúa) nếp (theo Hán Việt Tự Điển của Thiều Chửu là lúa gié), trong loại cốc là thứ ngon. Để tang cha mẹ, mặc áo tang sổ gấu trong 3 năm. Trong thời gian để tang, mỗi năm làm lễ Tiểu Tường, sau đó mới được ăn rau cải, trái cây, đội nón bằng lụa mộc và mặc áo có gấu màu đỏ nhạt tuy nhiên thắt lưng gai vẫn phải mặc. Sau khi hết tang 3 năm mới được ăn nếp và mặc y phục bằng gấm.
  5. ““Nhữ an tắc…tắc vi chi”.” Đây là lời của phu tử. “Chỉ”旨là ngon (mỹ vị). Theo Chu thị (Chu Hy),““Nhữ an tắc vi chi!” là lời để từ bỏ đối tượng (Tề Ngã) vào lúc ban đầu. Kế đến vì động lòng thương xót không nỡ bỏ nên phu tử mới chú ý việc Tề Ngã không chịu suy nghĩ kỹ càng, và cuối cùng lại nói “Kim nhữ an, tắc vi chi”để quở trách nặng nề.”
  6. “Tể Ngã xuất…kỳ phụ mẫu hồ?””“Hoài” là ẵm bồng. “Thông” là qua hết (trọn). Phu không muốn chỉ trích lỗi lầm của Tề Ngã trước mặt ông nên sau khi Tề Ngã đi ra ngoài, phu tử giải thích lý do người quân tử nhất định phải để tang 3 năm là để người khác nói lại cho Tề Ngã nghe mong rằng Tề Ngã có điểm giác ngộ hiểu rõ lý do cần phải để tang 3 năm.

Giải thích

Nội dung lời nói của Tề Ngã chắc chắn là lúc khi cha mẹ ông còn sống. Tôi nghĩ rằng trường hợp đối với người mất cha mẹ khi còn bé hoặc đối với người ngay cả cha mẹ còn sống thì không hiểu tâm tình của việc để tang nên nghi ngờ ý nghĩa của việc để tang 3 năm.

Một khi gặp việc bất hạnh lớn, cha mẹ qua đời thì chân tâm tự nhiên sẽ nổi lên, không để tang 3 năm thì tâm tình không yên được. Do đó trong bài 16 chương 19 Tăng tử nói “: “Ta nghe thầy ta nói: Người ta trong các việc khác chưa biểu lộ được hếttình cảm tự nhiên, chỉ trong việc tang cha mẹ là biểu lộ được hết thôi.”(“Ngô văn chư phu tử: Nhân vị hữu tự trí giả dã, tất dã thân tang hồ?”). Hơn nữa, nếu suy nghĩ đến lời của phu tử nói với Tề Ngã “Nếu trò thấy yên lòng, thì cứ làm!” thì chúng ta có thể hiểu cha mẹ của Tề Ngã lúc đó còn sống. Trong quan hệ đối với cha mẹ, chắc chắn có chỗ con cái phải nhờ vào cha mẹ mới trưởng thành được. Điều này đều đúng từ vua chúa cho đến thứ dân (người dân bình thường). Nếu như hiểu ý nghĩa của câu nói “Trẻ con chào đời sau 3 năm mới rời lòng cha mẹ” (thiên Tam Niên của sách Lễ Ký) thì có ai nghi ngờ việc để tang 3 năm. Phải chăng thánh nhân (các thánh thiên tử ngày xưa) định việc để tang cha mẹ 3 năm là bởi vì nghĩ rằng thời gian để tang 3 năm đủ để con cái để con cái đáp đền công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ. Lời của phu tử rất rõ ràng nói lên ý này. Các nhà nghiên cứu lễ cho rằng thánh nhân đặt ra chế độ để tang này là để có được trung dung. Tôi nghĩ rằng ý kiến này không phải là một suy đoán hợp lý.

Nhận xét

  • Chữ 女ngoài âm đọc “nữ” (phái nữ) còn âm đọc “nhữ” nghĩa “mày, trò…”. Âm đọc của chữ汝cũng là“nhữ” với nghĩa “mày, trò…”.
  • Tể Ngã là học trò của Khổng tử. Tên là Dư, tự là Tử Ngã, thường gọi là Tể Ngã, tính tình không bị ràng buộc bởi các quy định thông thường. Có tài ăn nói giỏi như Tử Cống. Các bài liên quan với ông là 3.21, 5.9, 6.24, 11.2, 17.21 (theo số bài trong sách cụ Lê).
  • Mặc dù nội dung quy định nội dung để tang cha mẹ của ngày xưa không hẳn là hợp lý nhưng cho chúng ta thấy người xưa rất trọng ân nghĩa. Thí dụ nhiều người con vì để tang cha mẹ không được dự thi hoặc kết hôn, những việc rất quan trọng trong cuộc đời của họ.
  • Nhận xét của Jinsai về trường hợp cha mẹ mất sớm hoặc lúc cha mẹ còn sống đúng bởi vì thông thường con người khi mất đi cha mẹ rồi mới biết sự quý báu, công ơn khổ nhọc nuôi dưỡng của cha mẹ.
  • Người dịch thiển nghĩ cách suy nghĩ của Tể Ngã và câu nói của Khổng tử “Nếu trò thấy yên lòng, thì cứ làm!”là hợp lý. Vấn đề là “biết và nhớ ơn cha mẹ” và sống sao cho cha mẹ vui lòng mãn nguyện chứ không phải giữ theo khuôn khổ cứng nhắc. Dĩ nhiên, lúc cha mẹ còn sống để cha mẹ phải sống cực khổ mà sau khi cha mẹ vừa qua đời bản thân mình lại sống sung sướng là không phải đạo làm người, là điều không cần phải nói.
  • Điều người dịch không hiểu là tại sao Khổng tử nói với Tể Ngã: “Nếu trò thấy yên lòng, thì cứ làm!” để rồi sau khi Tể Ngã đi ra ngoài, ông lại nói “Dư là đứa bất nhân”.Có lẽ từ “bất nhân” ở đây chỉ có nghĩa nhẹ nhàng là “không có lòng thương cha mẹ” chức không phải có nghĩa “không phải là con người”. Bởi vì là bậc thầy, lại là bậc thầy như phu tử, thì đối với điều không phải to lớn của học trò phải tìm cách giáo hóa đến cùng chứ không nên trách cứ sau lưng như trong các lời giải thích! Có thể do người ghi chép lại không chính xác chăng?

Nguyễn Sơn HùngTu sửa, bổ xung ngày 19/5/2025


Xem thêm cùng tác giảĐức Nhân trong Luận Ngữ Cổ Nghĩa của ITÔ JINSAI (Bài 10)

Tài liệu tham khảo

  1. Kaitsuka Shigeki (1983): Itô Jinsai, Danh Tác của Nhật Bản 13, Chuokouronsha
  2. Itô Jinsai: Luận Ngữ Cổ Nghĩa (nguyên văn)
  3. Ogyu Sorai: Luận Ngữ Trưng, Ogawa Tamaki dịch chú (1994), Heibonsha.
  4. Chu Hy: Luận Ngữ Tập Chú, Tsuchida Kenjirô dịch chú (2015), Heibonsha.

Thứ Sáu, 30 tháng 5, 2025

Thành Ngữ Điển Tích 120 : VIÊN, VIỄN, VIỆT, VIN, VÔ. (Đỗ Chiêu Đức)

 Thành Ngữ Điển Tích 120 :  

                  VIÊN, VIỄN, VIỆT, VIN, VÔ.
                            
                     

                           Viên Môn Xạ Kích 轅 門 射 戟

      VIÊN MÔN 轅 門 : VIÊN 轅 có bộ XA 車 là Xe ở bên trái, nên VIÊN là cái Càng xe. Ngày xưa, vua hoặc đại tướng đóng quân thường quây xe chung quanh làm hàng rào bảo vệ và dựng càng xe lên làm cửa ra vào, nên mới gọi là Viên Môn hay Cửa Viên. Sau nầy, tuy lều trại đã được xây dựng kiên cố khang trang, nhưng cửa ra vào nơi đóng quân vẫn gọi là CỬA VIÊN.
                       


      Nói đến CỬA VIÊN là VIÊN MÔN, lại làm ta nhớ đến thành ngữ VIÊN MÔN XẠ KÍCH 轅 門 射 戟 là bắn trúng mũi kích dựng ở trước cửa trại binh. Theo tích sau đây:
       Năm Công Nguyên 196 (Năm đầu tiên của Kiến An), Viên Thuật phái đại tướng Kỷ Linh dẫn 3 vạn binh đi đánh Lưu Bị. Lưu Bị cầu cứu Lữ Bố. Bố lo ngại nếu Lưu Bị bị tiêu diệt thì mình cũng bị Viên Thuật bao vây, nên đem binh đến Tiểu Phối cứu ứng. Khi đã đóng binh hạ trại, Lữ Bố bèn thiết tiệc mời Kỷ Linh cùng các tướng đến dự. Khi rượu đã ngà ngà, Bố bèn cầm ly đứng dậy nói rằng: "Lưu Huyền Đức là hiền đệ của ta, nay bị các vị vây đánh. Ta không thể làm ngơ, nhưng gây hấn với các vị thì lòng ta cũng không muốn. Nay ta có cách nầy để cho trời quyết định. Ta sẽ cho dựng một cây kích trước VIÊN MÔN, nếu ta bắn trúng mũi kích, thì các vị hãy lui binh, bằng như ta bắn không trúng, thì ta sẽ để mặc cho các vị vây đánh Lưu Bị mà không cứu ứng gì cả!" Nói đoạn, ông bèn giương cung lắp tên răng rắc bắn một phát trúng ngay đầu mũi kích dựng trước của dinh đánh "choang" một tiếng, làm mọi người đều kinh hãi vổ tay tán thưởng và đều sợ cho cái thần uy thần tiễn của Lữ Bố  mà đều rút quân về.

                         
      Thành ngữ  "Viên Môn Xạ Kích 轅 門 射 戟" dùng để chỉ làm một hành động mạo hiểm nhưng tích cực để giải hòa cho sự tranh chấp hoặc chiến tranh giữa đôi bên.

      Trong Truyện Kiều, khi nghe Hoạn Thư kể lể: "Nghĩ cho khi gác viết kinh, Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo" thì Thúy Kiều đã "Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay" và khi Hoạn Thư: 
                     Tạ lòng lạy trước sân mây, 
thì thấy...
                  CỬA VIÊN lại dắt một dây dẫn vào.
       Trong bài "Văn Tế Trương Định", cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu đã dùng từ VIÊN LỮ 轅 旅 để chỉ quân đội, vì theo quy chế ngày xưa thì một LỮ có khoảng 500 quân đóng thành một trại; nên VIÊN LỮ là từ phiếm chỉ  chỉ chung về quân đội như câu sau đây:
      Từ thuở ở hàng VIÊN LỮ, pháp binh trăm trận đã làu;
      Đến khi ra quản đồn điền, võ nghệ mấy ban cũng trải.
     
                    
         

      "Hữu bằng tự VIỄN PHƯƠNG LAI, bất diệc lạc hồ ? 有 朋 自 遠 方 來 不 亦 樂?" có nghĩa: "Có bạn lặn lội từ xa đến thăm, đó chẳng là niềm vui lắm hay sao?" Câu nói nầy có xuất xứ từ thiên Học Nhi 學 而 của sách Luận Ngữ 論 語. Truyện kể...
      Cao Bá Quát hồi còn đi dạy học, một hôm từ xa lặn lội đến thăm một người bạn cũ hiện đang làm chức Tri Huyện. Viên Tri Huyện này khi đã làm quan thì tính tình bắt đầu hợm hĩnh, cho lính ra trả lời là “Quan đang ngơi”, thực ra là hắn vẫn thức mà không muốn tiếp ông bạn hàn vi. Cao Bá Quát nhân đó làm một bài thơ tỏ ý bất bình, đưa cho người lính cầm vào cho viên Tri huyện rồi bỏ đi. Bài thơ như sau:
                 Một buổi hầu rồi một buổi ngơi,
                 Đâu còn nhớ chữ VIỄN PHƯƠNG LAI.
                 Mới sang chừng ấy ngơi chừng ấy,
                 Sang nữa thì ngơi biết mấy đời !

       Hai câu đầu ý nói: Bây giờ làm quan sang cả rồi, đâu có còn vui khi có bạn từ xa đến thăm nữa. Hai câu sau: Có ý chửi rủa bạn "Mới sang chừng ấy ngơi chừng ấy" Nếu mà "Sang thêm nữa" thì "ngơi biết mấy đời rồi!" hàm ý là: "...đã chết mấy đời rồi!"
     Viên quan huyện không biết là ai, khi xem thơ mới biết là Cao Bá Quát, liền sai lính ra mời vào, nhưng Cao Bá Quát đã đi xa rồi.
                  
                    

     VIỆT HỒ 越 胡 : VIỆT 越 là nước Việt thời Chiến Quốc, gồm các tỉnh Giang Tô, Chiết Giang ở miền NAM Trung Hoa; HỒ 胡 là Rợ Hồ chỉ các bộ tộc Mông Cổ Mãn Châu ở phía BẮC Trung Hoa, nên VIỆT HỒ chỉ hai miền ở cách xa nhau hàng vạn dặm đường, kẻ Nam người Bắc. Cách trở đôi nơi. Như...
     Trong truyện thơ Nôm "Phương Hoa-Lưu Nữ Tướng" có câu:
                         Tủi vì nông nổi cơ đồ,
                  Phút mà tất tưởi VIỆT HỒ đôi nơi.

      VIỆT NGÔ hay NGÔ VIỆT : NGÔ là nước Ngô thời Chiến Quốc, bao gồm các tỉnh An Huy và một phần của các tỉnh Giang Tô, Chiết Giang, sát cạnh nước Việt, nên NGÔ VIỆT là vùng sông nước miền Nam, rất thuận tiện cho việc giao thông trên sông nước và buôn bán. Trong Truyện Kiều, khi gặp Thúy Kiều, Kim Trọng đã tìm thuê một căn nhà của các thương buôn vùng Ngô Việt ở cạnh nhà Thúy Kiều:
                   ...Là nhà NGÔ VIỆT thương gia,
                 Buồng không để đó người xa chưa về.
                       Lấy điều du học hỏi thuê,
                 Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang...

      VIỆT MAO 鉞 旄 là HOÀNG VIỆT 黄 钺 và BẠCH MAO 白 旄 : là Búa Việt màu vàng và Cờ Mao màu trắng, là hai vật tượng trưng cho quyền lực của tướng soái ngày xưa. Chỉ người nắm binh quyền trong tay. Trong "Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca" của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái có câu:
                       VIỆT MAO khi đã đến tay,
                  Hoành Sơn một dải mới gây cơ đồ.

                  
              

      VIN CÀNH QUẾ hay BẺ QUẾ, chữ Nho là CHIẾT QUẾ 折 桂, có xuất xứ từ Tấn Thư Khích Sân Truyện 晉 書 卻 詵 傳 ghi rằng: Khích Sân ứng thi hiền lương đối sách, được xếp đầu bảng, bèn tâu với Tấn Võ Đế tự ví mình như là một cành quế trong rừng quế, và chỉ là một phiến ngọc trong núi Côn Sơn đầy ngọc mà thôi. Thơ Ôn Đình Quân đời Đường 唐  温 庭 筠 có câu:

 猶 喜 故 人 先 折 桂,  Do hỉ cố nhân tiên CHIẾT QUẾ,
 自 憐 羈 客 尚 飄 蓬。  Tự lân ký khách thượng phiêu bồng !
      Có nghĩa :
                     BẺ QUẾ sớm mừng cho bạn cũ,
                 Thương thân đất khách vẫn phiêu bồng !

       Trong văn học cổ BẺ QUẾ hay VIN CÀNH QUẾ thường dùng để nói về việc thi đậu, như trong truyện thơ Nôm "Phạm Tải Ngọc Hoa" có câu:
                     Những mong BẺ QUẾ nên danh,
                Mà đền công dưỡng sinh thành hai thân.

       Trong truyện Tây Sương thì có câu:
                        Cũng là tài trí bậc này,
                Chưa VIN CÀNH QUẾ đã xoay ngọn hồng.

      VIN CÀNH QUÍT theo "Truyện Kiều chú giải 1953 của Lê Văn Hòe" dẫn bản chú giải của Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim bằng hai câu thơ của họ TÔ(?) là: Lão nhân du hí như đồng tử, Bất chiết mai chi chiết quất chi 老 人 遊 戲 如 童 子,不 折 梅 枝 折 橘 枝. có nghĩa: Người già mà chơi như con nít, không bẻ cành mai mà bẻ cành quít! Ý chỉ già mà không nên nết, già mà còn chơi trống bỏi như con nít. Cụ Nguyễn Du đã mượn ý nầy để chỉ suy nghĩ của Mã Giám Sinh khi đã rước Thúy Kiều về chốn trú phường, khi "Bốn bề xuân khóa một nàng ở trong" :
                       Phẩm tiên đã bén tay phàm,
                   Thì VIN CÀNH QUÍT cho cam sự đời.
                   
              


     VÔ ĐỊNH tức VÔ ĐỊNH HÀ 無 定 河 là tên một con sông của miền bắc tỉnh Thiểm Tây, là một chi nhánh của sông Hoàng Hà, vì lòng sông có nhiều phù sa nên thường hay thay đổi dòng chảy mà có tên là VÔ ĐỊNH HÀ. Bài thơ thất ngôn tuyệt cú "Lũng Tây Hành 隴 西 行" của Trần Đào 陳 陶 rất nổi tiếng với các câu:
  誓 掃 匈 奴 不 顧 身,    Thệ tảo Hung Nô bất cố thân,
  五 千 貂 錦 喪 胡 塵。    Ngũ thiên điêu cẩm táng Hồ trần.
  可 憐 無 定 河 邊 骨,    Khả lân VÔ ĐỊNH HÀ biên cốt,
  猶 是 深 閨 夢 裏 人。    Do thị thâm khuê mộng lý nhân.
      Có nghĩa :
                  Thề quét Hung Nô chẳng nệ thân,
                  Năm ngàn bỏ xác đất Hồ trần.
                  Khá thương xương trắng bờ VÔ ĐỊNH,
                  Vẫn cũng là người chinh phụ mong !
      Lục bát :
                  Hung Nô thề quét chẳng màng,
                  Bên bờ VÔ ĐỊNH năm ngàn bỏ thây.
                  Khá thương xương trắng phơi đầy,
                  Vẫn người trong mộng tháng ngày đợi mong !
                     
       Từ bài thơ trên, nhóm từ "ĐỐNG XƯƠNG VÔ ĐỊNH" trở thành hình tượng bi thương mà hào hùng để chỉ hậu quả tàn khốc chết chóc do chiến tranh gây nên. Trong Truyện Kiều, nàng Kiều đã dùng hình ảnh trên để khuyên Từ Hải khi Hồ Tôn Hiến cho người đến chiêu hàng:
                           Ngẫm từ gây cuộc binh đao,
                  ĐỐNG XƯƠNG VÔ ĐỊNH đã cao bằng đầu.
                            Làm chi để tiếng về sau,
                   Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào !
                 


     Hẹn bài viết tới :
            Thành Ngữ Điển Tích 121 :
                                                    VỢ, VỖ, VU, VŨ. 

                                                                杜 紹 德
                                                             Đỗ Chiêu Đức