Chữ Nghĩa Làng Văn
Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
***
Chữ là nghĩa
Ăn mặn nói ngay hơn ăn chay nói dối
(Bùi Kim Chi – Khảo luận về ca dao, thành ngữ)
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Đi một ngày đàng, học rồi đi về
Tướng mặt
Khuôn mặt chữ Dụng (用) :
Hình dáng khuôn mặt này không cân xứng, thiếu ngay thẳng. Các bộ vị trán, lưỡng quyền, cằm, mắt, mũi, tai lệch lạc, méo mó không ngay ngắn. Đàn ông thì hình thê khắc tử, cơ khổ lênh đênh đến già. Đàn bà cũng vậy. Tuy nhiên, nếu thân thể cân xứng, da dẻ tươi nhuận và thần khí sung mãn thì được hưởng vài chục năm đầu cuộc sống tạm gọi là bình thường.
Tướng mạo con người qua ca dao, dân ca
Đàn bà yếu chân mềm tay
Làm ăn chẳng được lại hay nỏ mồm
Một số sai lầm khi dùng từ Hán-Việt
Sai lầm vì dùng từ Hán và Nôm trùng hợp
Không nói “đề cập đến” mà nên nói “đề cập”.
(Lưu Khôn)
Câu đối
Khi còn đi học, Nguyễn Công Trứ cầm một quan tiền đi mua hàng cho thân mẫu, nửa đường gặp bọn đánh đáo rủ đánh ăn tiền, ông đứng lại chơi, rủi ro thua hết cả, ông tự an ủi bằng hai câu:
Tưởng làm đôi chữ mà chơi vậy
Bỗng chốc nên quan đã sướng chưa
Chữ đây, tiếng Nghệ dùng như tiếng đồng (đồng bạc, đồng tiền) ở ngoài Bắc. Quan là quan tiền nhưng lại có thể hiểu là làm quan.
(Chơi chữ - Lãng Nhân Phùng Tất Đắc)
Tướng mạo con người qua ca dao, dân ca
Kẻ nào trống giữa bàn chưn
Hổng không đụng đất thì đừng chơi xa
Nhất Linh và Văn Hóa Ngày Nay
Trong ngót 100 trang của số 11, tức số cuối cùng này, truyện dài Cô Mùi của Nhất Linh chiếm tới 25 trang, tức hơn ¼ số báo, một điều khá kỵ trong kỹ thuật làm báo. Cũng như vậy, truyện ngắn Ả Hầu của Đỗ Tốn cũng bị chia cắt thành 3 kỳ, cũng làm độc giả bớt hứng thú theo dõi. Cũng trong số này, nhà thơ Bùi Khánh Đản chiếm tới 7 trang, cũng là một sự thiên vị bất thường. Theo thông lệ, Duy Lam vẫn giữ vai trò chủ lực. Ông có tới 5 bài, 2 bài bình luận: một về Văn, một về Hội Họa, 3 bài còn lại là văn vui. Tường Hùng chỉ có một bài duy nhất “Kiểu mẫu Thanh Niên”, cũng là văn vui.
Ngoài ra, những sáng tác khác vẫn gồm 4 truyện dài của Nhất Linh, Nguyễn thị Vinh, Linh Bảo và bản dịch truyện của Leon Tolstoї. Một số báo như thế báo hiệu sự sa sút rõ rệt về mặt nội dung, càng là lý do để ta có thể đánh giá mức độ đón nhận của độc giả đối với tờ VHNN ra sao.
Tiếc nhất là VHNN chỉ ra được 11 số nên không còn cơ hội tiếp tục khích lệ những cây bút mới như: Duy Lam, Tường Hùng, Trần Tuấn Kiệt, Lê Tất Điều.. v…v.. và cả chính tôi, Nhật Tiến nữa. Một số người trẻ đã nhờ Văn Hóa Ngày Nay mà có đà để đi được những chặng đường xa hơn.
(Nhật Tiến)
Cái ấm đất và bộ chén trà Nguyễn Tuân tặng Thạch Lam
Bài viết sau đây của người con trai thứ hai (Nguyễn Tường Giang) trong gia đình Thạch Lam sinh mấy ngày trước khi ông qua đờì. Bài viết giúp ta hiểu thêm cả không khí văn học thời tiền chiến, lẫn những phôi pha trôi nổi đã đến với các giá trị đạm bạc nhưng cao quý trong những năm chiến tranh cũng như hậu chiến.
***
Tôi vẫn thường tưởng tượng một cảnh gặp gỡ như vậy giữa Nguyễn Tuân và Thạch Lam. Mẹ tôi khi còn sống không bao giờ (và có lẽ cũng vì tôi không hỏi) nói về cái buổi Nguyễn Tuân đến nhà tặng Thạch Lam một bộ đồ trà.
(Nguyễn Tường Giang) *
(Nguyễn Tường Giang – tranh Đinh Cường)
Thạch Lam mất sớm vì bệnh lao, để lại ba con. Người con đầu là gái tên Dung sau lấy trung tướng Ngô Quang Trưởng. Người con trai thứ nhất là Nguyễn Tường Đằng học Luật sau trở thành chuyên viên hành chánh tài chánh. Người con trai út là nhà thơ bác sĩ Nguyễn Tường Giang *
30 tháng 4 tưởng nhớ nhà văn Chu Tử
(trái Chu Tử - phải Đào Vũ Anh Hùng)
Sáng ngày 2-5 của hơn ba chục năm về trước tại Subic Baỵ, tôi đứng dưới con đường dốc lối đi bệnh xá nhìn lên đám người đi ngược về khu tạm trú, chưa kịp vỡ cơn mừng đã vội tắt nụ cười, sững câm bởi vừa nhìn thấy Sơn với đôi nạng gỗ, có Vân dìu đỡ, khấp khểnh lê từng bước. Bà người làm tay bồng tay dắt hai đứa con gái của đôi vợ chồng người con trai lớn của nhà văn Chu Tử. Cả ba vừa nhận ra tôi, mừng tủi khóc òa lên một lúc.
Tôi đón nhận tin ông Chu Tử chết trong buổi sáng hoang mang xao xác đó.
Tôi nghe choáng váng và lòng tầm tã một cơn mưa buồn thảm... Trọn cái tiểu gia đình đứng trước mặt tôi đều mang thương tích từ mảnh vụn B-40 quân Cộng bắn vào chiếc Việt Nam Thương Tín. Quả đạn đã giết một người. Con người xấu số đó là nhà văn Chu Tử. Định mệnh nào tai ác đã thù hằn theo đuổi để hại cho bằng được con người khốn khổ tài hoa ấy, trong quãng giờ khắc điêu linh bất hạnh ấy của quê hương, và bằng cung cách gớm ghê thảm khốc dành cho một hình hài yếu đuối như hình hài Chu Tử, trưa ngày 30 tháng Tư, 1975 – khi ông buồn bã đứng dựa thành tàu, nhìn Saigon lần cuối, nhìn quê hương lần cuốỉ...
(Đào Vũ Anh Hùng)
Tiểu sử: Đào Vũ Anh Hùng tên thật: Đào Bá Hùng . Sinh năm 1943 tại Hà Nội
Hiện cư trú tại Dallas, Texas.
Tác phẩm: Không Bỏ Anh Em Không Bỏ Bạn Bè, Vàng Rơi Không Tiếc, Bạn Cũ, Bà Tôi
Từ điển chính tả sai lỗi…chính tả
“lãi: lãi xuất”.
Viết chuẩn là “lãi suất” (do “lợi suất” 利 率 trong tiếng Hán).
Theo đây, “suất” 率 là yếu tố gốc Hán, có nghĩa tỉ lệ, mức.
(Hòang Tuấn Công)
Gặp gỡ nhà văn miền Nam
TNT: Ông có tin là văn học trong và ngoài nước một ngày nào đó sẽ nhập làm một hay không?
NTT: Tôi (Nguyễn Trọng Tạo) không nghĩ rằng văn học Việt Nam trong và ngoài nước là hoàn toàn khu biệt. Vì văn học là văn học nó mang tính nhân văn bẩm sinh của con người. Chỉ khác chăng nó đang bị khu biệt về độc giả. Những năm gần đây một số tác giả hải ngoại đã in sách ở trong nước. Bộ tiểu thuyết Sông Côn Mùa Lũ của Nguyễn Mộng Giác do nhà xuất bản Văn Học (Hà Nội) ấn hành được nhiều người trong nước tìm đọc và được giới thiệu trên báo chí.
Tôi đọc Ký Sự Đi Tây của Đỗ Khiêm là do nhà xuất bản Văn Hoá ấn hành. Nhà nước cũng vừa cho phép xuất bản 15 cuốn sách của nhà sư Thích Nhất Hạnh nhân dịp ông về truyền giáo ở nước nhà... Điều đó chứng tỏ sự khu biệt về độc giả đang dần được giải toả. Có một thực tế là số lượng độc giả trong nước vô cùng lớn so với độc giả hải ngoại. Sự thiệt thòi của những văn thi sĩ hải ngoại về người đọc là cần chia sẻ. Đây là một vấn đề nhà nước nên nghĩ tới giải pháp có lợi cho văn nghệ sĩ và công chúng.
(30 năm: khỏang cách dấu hỏi - Nguyễn Trọng Tạo)
Gặp gỡ người làm văn học miền Bắc - 1
T.K.: Xin anh kể ra một vài tác giả hay tác phẩm nào trong nền Văn Học Miền Nam được anh lấy làm căn cứ vào để đi tới những điều anh vừa nói.
V.T.N.: Tôi (Vương Trí Nhàn) nhớ ngay tới những cuốn sách của nhà văn Dương Nghiễm Mậu. Trong Cũng Đành, tác giả nói về vấn đề tồn tại như thế nào, sự lựa chọn đúng hay sai, mình đang như thế nào, bản mệnh đã bị dày vò thế nào. Nhưng tôi có ấn tượng đặc biệt về Dương Nghiễm Mậu qua những bút ký ngắn in trên bán nguyệt san Văn khoảng 1972-74 tả những chuyến đi theo các đơn vị quân đội đến Tây Nguyên, ra Quảng Trị... Chúng ta chứng kiến đất nước mình tan nát, lớp trẻ bị chết, bị thương, đời sống mất hết sự thiêng liêng con người giãy giụa không tìm thấy lối thoát. Nhiều suy nghĩ có từ thời viết Cũng Đành hiện ra với cái vẻ cụ thể của nó.
Thời gian mấy năm 72 -73, một số anh em bọn tôi ở tạp chí Văn Nghệ Quân Đội có lúc xôn xao hẳn lên khi đọc một cuốn của Phan Nhật Nam, không phải cuốn nhiều người hay nói tới mang tên Mùa Hè Đỏ Lửa, diễn tả không khí chiến trường rất ác liệt, mà là cuốn trước đó, cuốn Dấu Binh Lửa. Theo tôi, Dấu Binh Lửa gây ấn tượng mạnh, từ chỗ là một người đầy nhiệt huyết, muốn biết, muốn hiểu, muốn đóng góp, nhân vật xưng tôi ở đây biến thành người không còn là mình nữa, chai lỳ, bất nhẫn, muốn đập phá.
Tôi nhớ là những nhà văn như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, khi đọc cuốn này đều thấy nể, ngay cách diễn tả, cách viết rất trực tiếp và khả năng sử dụng tiếng Việt trong Dấu Binh Lửa cũng đáng ghi nhận. Khoảng 1990 -91 xuất hiện Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh, đọc Nỗi Buồn Chiến Tranh tôi lại nhớ đến Dấu Binh Lửa.
Nhà tôi lúc đó gần nhà Bảo Ninh, tôi có đưa cho anh xem. Khi trả Bảo Ninh có nói với tôi rằng nếu tôi (Bảo Ninh) đọc cuốn này trước thì có lẽ tôi sẽ viết (Nỗi Buồn Chiến Tranh) khác đi.
(Nói chuyện với nhà phê bình Vương Trí Nhàn – Thụy Khuê)
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Vẽ hình em lên cát
Rồi hôn em một phát
Gặp gỡ người làm văn học miền Bắc - 2
T.K.: Phải chăng sự trở về với Văn Học Miền Nam của anh còn có một lý do khác, đó là từ khi về hưu anh có nhiều thì giờ đọc hơn và anh cũng đã khám phá ra nhiều cái mới.
V.T.N.: Cái đó cũng có. Giờ đây tôi (Vương Trí Nhàn) có điều kiện đọc những cái mà trước kia bỏ qua, chẳng hạn một trong những say mê của tôi là đọc sử của mình những thời kỳ cũ. Thật ra ở Hà Nội người ta viết sử rất kém, từ lúc tôi đi học đã... không có sử.
Rồi chúng tôi đâm lười đọc cả sử cũ. Rất xấu hổ phải nói là một người viết văn, mà chưa bao giờ tiếp xúc một cách nghiêm túc với những bộ sử rất quan trọng của chúng ta như bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Việt Sử Thông Giám Cương Mục hay những bộ sử sau này như Đại Nam Thực Lục của triều Nguyễn. Rồi cả sử Việt Nam đầu thế kỷ XX, thời người Pháp sang tổ chức lại xã hội của mình nữa. Tất cả những trang sử ấy, bọn tôi biết quá ít, sự thực là chúng tôi có những định kiến sai lầm, những thành kiến, rồi cứ nuôi những thành kiến đó mà cứ tưởng đó là chân lý. Tôi có được may mắn là tự tìm ra được niềm vui đọc lại những cái đó và dần dà, qua liên tưởng đối chiếu, tôi hiểu thêm đời sống hôm nay.
Thế thì Văn học miền Nam cũng là một bộ phận, một di sản của dân tộc, nó như những bức ảnh, những cuốn phim, ghi lại đời sống một thời. Với những nhà văn tư cách trí thức, chúng ta rất cần lùi xa lại quá khứ và từ khoảng cách xa như thế, nhìn chung cả lịch sử sự phát triển tinh thần của dân tộc.
(Nói chuyện với nhà phê bình Vương Trí Nhàn – Thụy Khuê)
Tài vẽ tranh khôi hài của Tú Mỡ
Là người yêu thích Tú Mỡ từ những ngày còn cắp sách đến trường cho đến nay là lúc tôi đã đuợc 24 tuổi lần thứ 3, tôi đã sưu tập khá nhiều tài liệu về nhà thơ.
(Quan Đốc và học trò)
và nhờ những tài liệu đó, tôi có biết một điều mà tôi cho là tương đối mới lạ về ông; nhân dịp Xuân về tôi muốn xin chia sẻ điều đó với tất cả mọi người yêu thơ Tú Mỡ. Mọi sách vở hiện có đều hầu như chỉ nói về Tú Mỡ kể từ đoạn đời ông cộng tác với Tự Lực Văn Đoàn, khoảng năm 1932 khi Tự Lực Văn Đoàn được thành lập. Còn khoảng từ 1932 về trước thì không thấy nói gì nhiều.
Mới đây tôi được đọc một cuốn tựa đề là “Tiếng Cười Tú Mỡ”, qua cuốn sách dày 500 trang này, tôi chỉ thấy có bài của tác giả Phan Cự Đệ nhắc tới thời kỳ từ 1925 tới 1928 khi ông Tú Mỡ cộng tác với 2 tờ báo: 1 tờ của Hội Sinh Viên Việt Nam mà lúc đó, dưới thời thực dân, chúng gọi là Annam, và một tờ báo khác là tờ Tứ Dân tuần báo, trong vỏn vẹn có mười dòng chữ. Ngoài ra, trong chính bài do Tú Mỡ viết (nơi trang 358 của sách nói trên), ông cũng có nhắc tới Paul Monet, người Pháp đã lập ra Hội Sinh Viên Việt Nam và tờ báo mà ông cộng tác. Chính Tú Mỡ không hề nhắc nhở gì tới tài vẽ tranh biếm hoạ của ông trong tờ báo này, phải chăng ông cho đó là một cái gì tầm thường không đáng nhớ tới và nhắc tới?
(Vũ Thư Hưu)
Chữ nghĩa làng văn
Một cuộc sống mới hình thành: tôi không muốn làm báo chửi bới nữa. Đọc sách báo Pháp mãi chán, tôi tìm đọc thơ của Lưu Trọng Lư, Hồ Dzếnh. Lúc này, tôi thường sang tán láo ở nhà Lưu Trọng Lư ở chung với Nguyễn Tuân đường Nguyễn Trãi. Mỗi khi đọc một truyện gì hay, chúng tôi lại thuật lại cho nhau nghe: Lư lúc ấy mê André Gide, còn Nguyễn Tuân và tôi thì ưa Dostoievsky.
Lúc ấy, Lư cộng tác với mấy tờ báo văn chương, rồi cùng Lê Tràng Kiều tổ chức tờ “Tân Thiếu Niên” của Trần Tấn Thọ, nhưng ra được vài số thì báo bị tịch thu và đóng cửa. Cái “chất” của Lư không phải là để làm báo hàng ngày: anh ốm yếu luôn, lại thêm lúc nào cũng lơ mơ như ở trên mặt trăng rớt xuống, có nhiều khi anh em ngồi đông đủ nói chuyện, mà tâm hồn để tận đâu đâu, sịch một cái, anh chạy ra vơ lấy quản bút và mảnh giấy ghi lại một câu thơ mà anh vừa nghĩ được.
Lưu Trọng Lư làm thơ như một ký giả lão thành viết báo; báo thiếu một đoạn, thợ in đòi một bài ngắn để đắp vào, kẻo để trắng trông không được, thì Lư làm “Hà Nội Báo”, “Tiểu Thuyết Thứ Năm” cũng vậy. Lê Tràng Kiều phàn nàn thiếu bài, Lư nằm phủ phục xuống cái chiếu trải trên gạch viết luôn một bài thơ. Thú thực, lúc đó, tôi không bao giờ đọc thơ của Lư, vì yên trí là thơ nhăng nhít; mãi về sau này, có nhiều thời giờ nhàn rỗi, tôi mới bắt đầu thưởng thức thơ của Lưu Trọng Lư và do đó cũng yêu anh hơn, chớ thực ra lúc đầu thì tôi gần như không chịu được nhà thi sĩ đó, chậm chạp, lười biếng, trốn chui trốn lủi như con cù lần.
Tiếp xúc lâu hơn, tôi mới thấy Lưu Trọng Lư là một người có học, ham đọc. Trong khi anh mang bao thứ bịnh và bao nhiêu trác táng trong thớ thịt và huyết quản.
(Vũ Bằng – Bốn mươi năm nói láo)
“Thơ con cóc”: Một bài thơ hay
Có ba lý do để khẳng định điều này: một là, nếu bỏ bài thơ đi, câu chuyện sẽ trở thành hoàn toàn nhảm nhí và vô nghĩa; hai là, đã nhiều người dùng lại câu chuyện ấy, chỉ thay đổi những lời thơ xướng hoạ, có những lời thơ tục, vui và ngộ nghĩnh hơn bài ‘Thơ con cóc’ nhiều, song tất cả đều rơi hút vào quên lãng; ba là, rất nhiều người chỉ nhớ bài ‘Thơ con cóc’ nhưng lại không nhớ được câu chuyện tiếu lâm kia, nghĩa là, nói cách khác, với họ, bài ‘Thơ con cóc’ được ghi nhận như một tác phẩm độc lập.
Như vậy, có thể nói, qua việc nhớ bài ‘Thơ con cóc’, việc coi ‘Thơ con cóc’ như là một điển hình của cái dở, từ trong vô thức, chúng ta đã thừa nhận giá trị của nó, đã linh cảm được đó là một bài thơ hay. Song có lẽ vì cái hay của nó quá lạ.
Bài ‘Thơ con cóc’ hay ở chỗ nào?
Trước hết và có lẽ cũng hiển nhiên hơn hết, đó là bài thơ hay nhất trong tất cả những bài thơ miêu tả cái dở, cái kém nghệ thuật và kém thẩm mỹ. Ở mức độ nào đó, có thể coi ‘Thơ con cóc’ cũng tương tự bức chân dung Thị Nở của Nam Cao.
Nếu Thị Nở là điển hình của cái Xấu, ‘Thơ con cóc‘ sẽ là điển hình của cái Dở. Chỉ riêng ở khía cạnh này, ‘Thơ con cóc’ đã là một cái gì khá mới mẻ và đầy táo bạo, khác hẳn mỹ học truyền thống vốn đồng nhất cái đẹp của tác phẩm nghệ thuật với cái đẹp của đối tượng được tác phẩm nghệ thuật miêu tả, từ đó, hình thành một lối đi độc đạo trong sáng tác: mọi người đều chăm chăm chọn những nhân vật đẹp, những khung cảnh đẹp. Văn học dân gian và tiểu thuyết thoát ly ra khỏi quan điểm hẹp hòi này khá sớm có lẽ do bản chất của chúng. Thơ cứ đắm đuối mãi trong cõi mộng mơ. Cái xấu, cái tầm thường bị gạt qua một bên, trở thành lãnh địa riêng cho thơ trào phúng.
Ngay trong giới hạn của thơ trào phúng, cho đến nay, người ta cũng chỉ thành công trong việc khắc hoạ những cái xấu theo nghĩa đạo đức học hoặc xã hội học, tức những nhân vật, những sự kiện lố bịch, nhố nhăng, chướng tai gai mắt, nhưng lại không thành công trong việc miêu tả cái xấu theo nghĩa thẩm mỹ học.
(Nguyễn Hưng Quốc)
Góp ý về cuộc tranh luận thơ con cóc
Luận điểm 2: So sánh Thơ con cóc với Thị Nở của Nam Cao.
Nguyễn Hưng Quốc viết:
"Trước hết và có lẽ cũng hiển nhiên hơn hết đó là bài thơ hay nhất trong tất cả những bài thơ miêu tả cái dở, cái kém nghệ thuật và kém thẩm mỹ. Ở mức độ nào đó có thể coi Thơ con cóc cũng tương tự bức chân dung Thị Nở của Nam Cao. Nếu Thị Nở là điển hình của cái xấu, Thơ con cóc sẽ là điển hình của cái dở. Chỉ riêng khía cạnh này, Thơ con cóc đã là cái gì khác mới mẻ và đầy táo bạo, khác hẳn với mỹ học truyền thống vốn đồng nhất cái đẹp của tác phẩm nghệ thuật với cái đẹp của đối tượng được tác phẩm nghệ thuật miêu tả, từ đó, hình thành một lối đi độc đạo trong sáng tác: mọi người đều chăm chăm chọn những nhân vật đẹp, văn học dân gian và tiểu thuyết thoát ra khỏi quan điểm hẹp hòi này khá sớm, có lẽ do bản chất của chúng. Thơ cứ đắm đuối mãi trong cõi mộng mơ, cái xấu, cái tầm thường bị gạt qua một bên trở thành lãnh địa dành riêng cho thơ trào phúng"
Trích đoan trên đây có một câu chính xác: Nếu Thị Nở là điển hình của cái xấu, Thơ con cóc sẽ là điển hình của cái dở. Nhưng tiếc rằng nó lại trộn trong rất nhiều khái niệm khác nhau bị hiểu sai hoặc bị chập làm một: Trước hết, thơ dở khác với thơ miêu tả cái dở. Xấu khác với dở. Con cóc nó xấu, chứ nó không dở. Nếu (N.H. Quốc) cho rằng bài thơ con cóc "miêu tả" được con cóc, thì đó là bài thơ miêu tả cái xấu, chứ không phải là bài thơ miêu tả cái dở. Và để miêu tả cái xấu, thì nó không đạt mục đích vì nó không cho biết gì về sự xấu xí của con cóc.
Ngược lại, đoạn văn tả chân dung Thị Nở của Nam Cao, miêu tả một người đàn bà xấu với nghệ thuật cao: Không những nó miêu tả được dung nhan Thị Nở mà nó còn đi ra ngoài địa hạt mô tả để đạt tới trò chơi quái ác của con tạo đã đang tâm hình hài hóa định mệnh xui xẻo trên diện mạo con người.
Do đó không thể so sánh bài Thơ con cóc và đoạn văn mô tả Thị Nở vì một đoạn văn hay và một bài thơ dở, dù cùng có mục đích tả cái xấu, chúng không có gì giống nhau.
(Thụy Khuê)
Đến Diên Khánh nhớ tích xưa
(Cổng thành và
đường lên tháp canh)
Có rất nhiều trận đánh ở thành Diên Khánh này, nhưng một trong những trận đọc đi đọc lại mãi không chán là giai đoạn sau khi mất thành Diên Khánh vào tay Tây Sơn, Nguyễn Ánh cho đại quân do Tống Phước Hiệp chỉ huy tiến chiếm lại Diên Khánh ép quân Tây Sơn phải rút về Phú Yên. Cùng lúc đó quân chúa Trịnh đánh vào phía Bắc. Nguyễn Ánh tiếp tục tăng quân lên gần 6 vạn tiến thẳng ra Phú Yên, áp sát Quy Nhơn.
Nhà Tây Sơn đứng trước nguy cơ diệt vong. Thế mà nhờ tài thao lược của mình, Nguyễn Huệ từng bước kềm chân chúa Trịnh và đưa quân đánh tan quân của Tống Phước Hiệp, chiếm lại thành Diên Khánh. Tiếp theo sau là trận tượng binh, khi mà Nguyễn Ánh đã xây dựng lại lực lượng, ông cho 3 đạo quân tiến từ Sài Côn ra chiếm lại Diên Khánh, trận này Nguyễn Huệ dùng tượng binh hùng mạnh của Tây Sơn được huấn luyện bởi nữ tướng Bùi Thị Xuân đẩy lùi được quân Nguyễn Ánh.
(Trần Ngọc Hiếu)
Chữ là nghĩa
Hình dung từ trong tiếng Việt rất phong phú và gợi hình.
Con mèo đen được gọi là mèo mun.
Con chó đen thì gọi là chó mực.
Con gà đen thì gọi là con gà ô hay con gà quạ.
Con ngựa đen thì gọi là ngựa ô.
(Tiếng Việt – Phạm Đình Lân)
Chữ nghĩa làng văn
Ba Giai Tú Xuất là ai? – 2
Vài nét về nhà văn Nguyễn Nam Thông
Nhà văn Nguyễn Nam Thông tên thật là Nguyễn Xuân Thông quê ở làng Động Dã, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây cách làng Tú Xuất không xa. Nguyễn Nam Thông sống vào khoảng 1893-1945. Năm 1937, Nguyễn Nam Thông làm chủ bút tờ Đông Tây tiểu thuyết và thường viết tiểu thuyết lịch sử.
Tác phẩm đã xuất bản:
Ba Giai (NXB Tân Dân Hà Nội 1931); Tú Xuất (NXB Tân Dân Hà Nội 1930); Trung Nhật chiến tranh yếu nhân (Nhà in Thụy Ký Hà Nội 1938)
(Nguyễn Tý)
Từ huyền sử đến sự thật - 1
Tên các nhân vật đều bằng tiếng Hán ròng do người Trung Hoa đặt hàng ngàn năm sau. Các họ Minh, Hùng, Sùng, Lạc... không thấy hiện diện cả trong lịch sử Việt lẫn trăm họ bây giờ. Tìm kiếm chỉ là... vô vọng vì tất cả những tên tuổi/địa danh trong truyền thuyết đều được tô vẽ hay cóp nhặt qua lại.
Ðiều quan trọng tác giả truyền thuyết muốn nhắn gửi là gì?
Có phải “những nhân vật trong truyền thuyết thuộc chủng Việt cổ, xuất xứ từ một vùng đất của chủng Việt cổ,” là xứ Trung Hoa bây giờ. Nói “bây giờ,” vì 5000 năm trước, trên đất Việt Cổ, chưa có nước Trung Hoa. Nhà Chu, có tín sử của Trung Hoa (1046 – 256 TCN) cũng vẫn chỉ là một số bộ lạc thuộc chủng Hoa Hạ ở bờ Bắc sông Hoàng Hà, thuộc hai tỉnh Cam Túc, Thiểm Tây.
(Trần Thị Vĩnh Tường)
Ca dao tình tự
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai?
Từ huyền sử đến sự thật - 2
Chủng Bách-Việt xin gọi là Việt-cổ - thiết nghĩ chính xác hơn, cho một ý niệm lập tức về thời gian- là hàng ngàn những bộ lạc/bộ tộc/thị tộc thuộc chủng Yue, tức Việt. Từ Bách Việt xuất hiện lần đầu tiên trong Sử Ký của Tư Mã Thiên. “Bách”, hoàn toàn không có nghĩa “một trăm”. Ðâu được, bận một trăm việc đây nè. Tiếng Việt có nhiều ca dao/thành ngữ cùng tả ý “không đếm được” ấy như trăm công nghìn việc, trăm dâu đổ vào đầu tằm, v...v....
Chủng Yue có hai chi lớn nhất: Âu và Lạc. Mỗi chi đều có hàng ngàn những bộ lạc sống cạnh/xen lẫn nhau. Tộc nào giữ nguyên ngôn ngữ, văn hóa tộc ấy từ hàng ngàn năm, hồn nhiên trước thay đổi của thế giới. Các tộc ấy, Yi, Hà Nhì, Bạch, Choang, Thái, Bái, Ngõa, Hán, Hồi, Miêu, Yao... sống đơn giản giữa thiên nhiên tuyệt diệu và câu chuyên thần kỳ về nguồn gốc tộc mình. Những tộc này cũng có mặt ở vùng thượng du/trung du Bắc Việt Nam.
(Trần Thị Vĩnh Tường)
Lễ nhập quan và phát tang
Lễ nhập quan. đúng giờ, tang chủ cùng những người thân và đạo tỳ tiến hành nghi thức khâm liệm người chết. Trước khi nhập quan, bên trong quan tài, dưới đáy được lót bằng chiếu mới, trà,.. Bên trên các thứ ấy đặt thi hài người quá cố. Phủ lên trên thi hài là quần áo, ít vật dụng lúc sinh tiền người chết đã sử dụng.
Sau lễ nhập quan, phía trước đặt ba chén cơm cúng theo hàng ngang. Hai chén hai bên, trên đặt một chiếc đũa, chén cơm ở giữa đặt đôi đũa. Vì tập tục cho rằng, người quá cố là "ma mới" hay bị "ma cũ" ăn giành nên chén cơm ở giữa (của người mới chết) có hai chiếc đũa để ăn cho nhanh, còn hai chén cơm ở hai bên (của các vong khác) chỉ có một chiếc đũa, không thể ăn nhanh được, và như thế người quá cố sẽ không bị đói.
Sau nhập quan là lễ phát tang, tang gia quỳ trước linh cữu khấn lạy theo sự hướng dẫn của sư tăng. Sau một thời kinh đầu tiên, người chủ tang, thường là con trưởng, đốt nhang vái và lạy trước bàn thờ , rồi lấy một vòng khăn sô bịt lên đầu. Xong chủ tang gọi lần lượt từng người một trong gia đình, từ thân đến sơ, từ già đến trẻ, vào thắp nhang, vái lạy và vấn khăn tang.
(Đỗ Kim Trường)
Chuyện chính tả
Ai cũng biết có một số chữ Hán có hai cách đọc – miền Bắc và miền Trung / Nam – như vũ – võ, hoàng – huỳnh,… nhưng đối với tên riêng, thì buộc phải tôn trọng cách đọc của cái tên.
Vì thế, ai cũng đọc và viết Võ Nguyên Giáp, Huỳnh Thúc Kháng, chứ không phải Vũ Nguyên Giáp, Hoàng Thúc Kháng.
Phan Chu Trinh phải xem là cách đọc và viết không đúng: Chính cụ Phan nói tên cụ là Châu Trinh trong thư gửi quan ba Caron, quan sơ thẩm Tòa án binh Paris khi cụ bị bắt giam trong ngục Santé vào năm 1915: “Quan lớn bảo nó đừng có khêu gan chọc tức thằng Phan Châu Trinh này. Thằng Phan Châu Trinh thà chết thì nó xách cái đầu của nó quăng xuống đất như chơi, nó chẳng sợ giam đâu, nó chẳng chịu làm thân trâu ngựa để người ta cưỡi lên đầu lên cổ nó đâu”
(Hoàng Dũng)
Khoa trương trong ca dao của người Việt
Khoa trương kiểu nói ngược còn được sử dụng như một cách phủ định, từ chối. Chẳng hạn, một cô gái tế nhị từ chối lời cầu hôn của chàng trai, hay chuyện hai người lấy nhau là không thể xảy ra:
Bao giờ rau diếp làm đình
Gỗ lim làm ghém thì mình lấy ta
Bao giờ trạch đẻ ngọn đa
Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình
Hay
Khi nào trâu đực sinh con
Gà trống đẻ trứng, trăng tròn ba mươi
Khi nào tháng chạp ăn rươi
Tháng giêng gặt lúa em thời lấy anh.
Văn hóa... khói
Thuốc lá, thuốc lào
Còn tại Việt Nam thuốc lá đã có từ bao giờ ?
Theo G.S. Nguyễn Thế Anh, thời thế kỷ XVII nước ta đã thu nhận được nhiều thực vật từ ngoại quốc đem tới trồng như ngô (bắp), đậu Hà lan, thuốc lá…
Thật vậy, trong Từ điển Việt - Bồ - La có ghi trên cột 785 :
thuốc lào: tabaco (Bồ). betum (La). ăn thuốc : tomar tabaco. Betum haurire. hút thuốc. Lê Khả Kế - Nguyễn Lân dịch thuốc lào là « tabac pour pipe à eau » [thuốc để hút với điếu nước] ; «tabac rustique » [thuốc lá theo lối nông thôn, quê kệch].
Danh từ thuốc lá theo nghĩa cigarette không có trong từ điển Việt - Bồ - La (lẽ nhiên, thuốc lá-cigarette chỉ phát hiện bên Âu Mỹ từ năm 1830 như đã kể trên).
Ngoài ra, khi truyền giáo tại Đàng Trong (1618-1622), giáo sĩ Cristoforo Borri nhận xét vắn tắt là dân bản sứ biết dùng thuốc lá, tuy không nhiều bằng ăn trầu. Nhưng giáo sĩ không cho biết nguồn gốc của thuốc lá dùng tại đây.
(Đông Phong Nguyễn Tấn Hưng)
Câu đố
Cắm vào run rẩy tòan thân
Rút ra nước chảy từ chân xuống sàn
Hỡi chàng quân tử giàu sang
Cắm vào xin chớ vội vàng rút ra
(Vịnh cái tủ lạnh)
Xe ôm Sài Gòn
Căn cứ vào câu chuyện kỳ trước, có thể coi xe ôm có từ giai đoạn đầu khi người Mỹ mới vào miền Nam VN. Nhưng có thể nó trở nên phổ biến hơn sau khi nhập cảng xe Nhật, năm 1967. Một tác giả ở hải ngoại là Lưu Nhơn Nghĩa trong bài Lải Nhải Đời Tôi 1959 - 1969 có viết: “Dân công chức lương thấp nghĩ cách kiếm sống, dùng xe mình đưa khách kiếm thêm... Lần đầu tiên, nhóm xe taxi, xích lô máy, xích lô đạp xô xát với nhóm xe ôm vì quyền lợi.
Lúc đó tương đối còn sống được, sau này đời sống chật vật, cả đến quân nhân, cảnh sát ngạch thấp, công an chìm cũng chạy xe ôm. Rõ ràng là chỉ có xe Nhựt, yên liền rộng, thấp, vừa tầm người Á châu, chỗ gác chân thoải mái mới sử dụng được trong việc kiếm ăn này. Xe Nhựt lại hết sức bền bỉ, ít hao xăng, chạy suốt từ Sài Gòn ra Vũng Tàu không nằm đường. Xe Mobilette, Sachs, Puch chạy không nổi, yên xe nhỏ, chông chênh”.
(Phạm Công Luận - trích Sài Gòn, chuyện đời của phố, tập 3)
Văn hóa... hủ tíu cà phê
Câu chuyện về cái tên Đức Thành Hưng được nhắc lại nhiều lần như một huyền thoại, cho đến khi tôi đọc được vài bài viết đăng trên báo Phụ Nữ Tân Văn năm 1933.
(tranh vẽ lại chân dung bà Lê Thị Ngọc
đăng trên báo Phụ nữ Tân Văn).
Theo bài báo, bà Lê Thị Ngọc, một phụ nữ ít học, xuất thân người nghèo đã làm được kỳ tích đó để tạo nên danh hiệu “Nữ hoàng hủ tíu cà phê” trên tờ báo Phụ Nữ Tân Văn, một tờ báo có uy tín trong cả ba kỳ. Chín tiệm do bà lập ra, đều mang tên chung là Đức Thành Hưng, chuyên bán cà phê, hủ tíu và cơm Tây, rải rác từ Sài Gòn, Tân Định, Gia Định, chợ Bà Chiểu, Chợ Đũi, Gò Vấp, Bình Hòa, và Thủ Dầu Một. Hầu hết là những tiệm khang trang, mang phong cách tiệm ăn của Tây, không phải là kiểu quán nước xập xệ.
Trước năm 1919, nghề bán hủ tíu cà phê là nghề độc quyền của người Hoa, đường nào ngõ nào có tiệm hủ tíu cà phê thì đương nhiên là của họ, người Việt không chen vô được. Trong khi đó, người Việt lại rất mê hai món này, thích điểm tâm sáng bằng món hủ tíu cà phê, trưa tráng miệng bằng nước trà bánh ngọt. Mà hai món ấy, muốn ăn phải vô các tiệm nước của người Tàu.
Thường là cái gì độc quyền thì dễ sinh ra kiêu ngạo và bắt chẹt, thế là các tiệm của người Hoa lên giá dần loại thức ăn thức uống mà người Việt đã trót ghiền. Ở chợ Cũ đường de la Somme (Hàm Nghi), tháng 6 năm 1919, một ly cà phê bỗng dưng vọt lên thêm một xu nữa, thành ba xu. Khu này tập trung dân làm ăn, từ giới công chức làm cho Tây đến nhân viên hãng xưởng, người lao động phu phen. Vốn uống cà phê mỗi ngày, nay bị tăng giá, họ phát bực, hô hào tẩy chay các tiệm nước của người Hoa rồi cả hàng hóa của họ, kêu gọi chỉ ủng hộ hàng hóa, tiệm quán của người Việt mà thôi. Báo Lục Tỉnh Tân Văn và Thời Báo cùng vào cuộc, hô hào tẩy chay Hoa kiều. Từ đốm lửa nhỏ, thái độ này thành phong trào, lan dần từ Nam ra Trung và Bắc.
(Phạm Công Luận)
Tên gọi người Tàu
Tên gọi “người Tàu” có thể từ Trịnh Hoài Đức (1765-1825) mà ra.
Ông là người Việt gốc Hoa làm quan cho nhà Nguyễn, đi sứ nhà Thanh hai lần trong Gia Định thành thông chí, ông viết: “Người Phước Kiến, Triều Châu, Hải Nam, đi tàu biển đến buôn bán qua lại ở nơi đô hội lớn Gia Định không đâu sánh bằng…”.
***
Và dưới có ghi chú:
Tục gọi thuyền đi biển chạy bằng hơi nước là “tàu”.
Có thể vì vậy người Nam gọi người Hoa là “Tàu” chăng?
(Phan Anh – Chùa Hoa)
Cua cáy phiếm lược
Ca dao về cua, còng
Con cua mà có hai càng
Đầu, tai không có bò ngang cả đời
Con cua tám cẳng hai càng
Một mai hai mắt rõ ràng con cua
Cà cuống uống rượu la đà
Con cua trong lỗ bò ra chia phần
Con cua hai càng
Con cua bò ngang
Nó đi rềnh ràng
Nó đi lang thang
Nó đi vô hang
Tìm đâu cho thấy
Con cua nó ở dưới hang
Nó nghe giọng lý kình càng bò lên
Chèo ghe xuống biển bắt cua
Bắt cua cua kẹp, bắt rùa rùa bơi
Trên tuyến tàu xưa Gò Vấp-Sài Gòn
Sau khi bỏ khách xuống thì xe điện chạy đến ga Bình Hòa, ga này nằm đối diện với cây xăng Bình Hòa hiện tại vẫn còn, mỗi lần xe lửa chạy là có cây chắn ngang hạ xuống chận lưu thông trên đường Nguyễn Văn Học, xe điện tiếp tục chạy qua khu chợ Ngã Tư Bình Hòa, dọc theo đường làng 15-đường Lê quang Định ra Bà Chiếu. Trước 1960, nơi đây còn dấu vết ga Bình Hòa trên tuyến đường Gò Vấp-chợ Bến Thành
Chợ Bình Hòa tuy nhỏ nay vẫn còn, nhưng mang lại cho Nguyên biết bao kỷ niệm. Bà Nguyên có một chỗ bán trầu cau, rất nổi tiếng trong chợ, chỗ bà là chỗ duy nhất, mằc dù thỉnh thoảng vẫn có cạnh tranh, người ta gọi bà là “bà Mười bán trầu cau” bà là người rộng lượng và biết cách chìều đãi khách hàng, người buôn bán với bà rất trung thành với bà, có chuyện, bà nghỉ thì họ vào tận nhà để mua. Bà quê Hóc Môn, sản phẩm “mười tám thôn vườn trầu” nên bà có móc nối mua cau, trầu tươi từ Hóc Môn Bà Điểm, mua thuốc lá từ Gò Vấp và cau khô từ những tiệm đại lý ở Chợ Lớn đem vể nhà sàng lọc, sắp xếp rồi đem ra chợ. Nguyên thỉnh thoảng đến thăm bà ngoài chợ, bà hay đưa cho Nguyên đem đồ ăn về nhà và mua bánh trái gần đó cho Nguyên ăn, nhất là những món ăn đặc biệt chỉ có bán hôm đó. Có lần chiếc xe đạp của Nguyên đậu gần bà mà cũng bị mất cắp-chiếc xe đạp với “ghi đông” cao đầu tiên của Nguyên!
Lúc chợ tan, những người bạn hàng bán không hết đồ gạ bán cho bà, trái cây đủ loại, cá cua, rau cải, có khi họ đem tới nhà để đổi trầu cau! Nhà Nguyên vì thế cũng ăn thêm món cua luộc hẩu như 2, 3 lần một tuần.
Từ Ngã tư Bình Hòa, nếu ta đi trên đường Nơ trang Long (Nguyễn Văn Học) hướng về Thủ Đức và Bình Dương sẽ phải qua ngã Năm Bình Hòa nơi đây đã xẩy ra cuộc oanh tạc khốc liệt của máy bay trực thăng năm Mậu Thân 68. Ngã Năm là giao điểm của hai đường Nơ Trang Long và Phan văn Trị và một đường đi vào xóm Lò Vôi thẳng ra luôn tới rạch nước mà bây gìờ gọi là rạch Bến Bôi. Từ Ngã Năm đường Nơ Trang Long đi thẳng qua cầu Băng Ky đến cầu Bình Lợi.
(xe hơi sắp sang Cầu Bình Lợi)
Đường Nguyễn Văn Học đoạn gần cầu Bình Lợi có hãng Vissan-Việt Nam Kỹ nghệ Súc Sản-” sản xuất sản phẩm gia súc và xưởng kỹ nghệ mền len Sakymen (Sài Gòn Kỹ nghệ Mền Len). Từ Nguyễn văn Học quẹo trái về Phan Văn Trị hướng Gò Vấp có công ty lớn may dệt Vinatexco.
Đường Phan Văn Trị có hai ngôi chùa với đồng mả bao quanh, chùa Thập Phước (Tập Phước) và chùa Bảo An. Hai chùa này cổ này giờ vẫn còn tuy nhiên đồng mả bao quanh không còn nữa và đất chùa bị thu hẹp rất nhiều. Ngày xưa, ban đêm ít ai đến vùng này vì nghe tiếng nhiều ma. Má Nguyên kể lại chuỵện ngay cả ban trưa, chú tiểu thường thấy bóng người đưa võng cho mình ngủ mà chùa thì vắng lặng chỉ có một mình.
(Y Nguyên - Mai Trần)
Những truyện ngắn Việt Nam làm liên tưởng đến điện ảnh
Phim “Lão Ngư Ông và Biển Cả” và truyện ngắn “Bên Sườn Núi Đá” của nhà văn Dương Nghiễm Mậ
Cuốn phim được thể hiện từ truyện Lão Ngư Ông và Biển Cả của nhà văn Hemingway do Spencer Tracy thủ vai lão ngư ông.
Đây là truyện cũng viết theo dòng cảm thức trộn lẫn quá khứ và hiện tại khi hồi tưởng (The Stream of Consciousness Method). Cốt truyện thật giản dị: lão ngư ông một mình đi câu cá ngoài khơi Vịnh Mexico, ít khi thành công như các ngư phủ trẻ. Nhưng sau mấy ngày lênh đênh ngoài biển, ông câu được một con cá-lưỡi-kiếm khổng lồ.
Ông phải vô cùng vất vả kiềm giữ nó đang bị mắc câu, bị nó lôi đi ngoài đại dương, may mà trời không có sóng gió. Tay ông bị giây câu cứa chảy máu khi trì kéo con cá có sức mạnh ghê gớm. Cuối cùng ông cũng đã thắng, con cá đuối sức sau mấy ngày lôi kéo ca-nô của lão ngư ông, và bị đâm chết lúc nó đã ngất ngư. Ông cột con cá bên mạn ca-nô, bề dài của nó tương đương với ca-nô. Và ông dong buồm trở về bờ.
Là nhà văn lớn, đâu chỉ mô tả cảnh này xen kẻ với cảnh khác, mà qua đó còn là những cảm nghĩ lồng vào những điều hiện ra gợi dòng hồi tưởng, như lúc ông nói gì với con chim biển ghé đậu trên ca-nô, cảm nghĩ gì khi đàn cá chuồn bay là là trên mặt nước, thầm thì gì khi đàn chim săn cá bay rợp trên trời, độc thoại nội tâm những gì sau ba lần mệt mỏi chiến đấu với bầy cá mập…
(Trần Văn Nam)
Thập niên 30, Sài Gòn lai rai
Món thịt dê du nhập theo người Ấn vào xứ ta từ lâu. Khi nấu món này, dân Ấn chế ra gia vị cà ri cay. Ký giả Tô Ngọc trên Chọn Lọc số Tết kể rằng nhà hàng Mỹ Cảnh ở bờ sông Sài Gòn có món ngọc dương tiềm thuốc Bắc. Món ăn được để trong một chiếc liễn sứ, nóng rộp miệng. Bên trong có một ngọc dương nấu với mộc nhĩ, thoáng ngửi biết ngay chất nước ngâm hòn ngọc dương đó có vị Đỗ Trọng là vị thuốc bổ thận.
Nhà hàng Ngân Đình, được gọi là “mõm tán phét” bên cạnh thì có dê bảy món, món xào, món nước, món khô... ăn khá lạ miệng. Còn ở Chợ Lớn, trong vài nhà hàng khác có món dê bát bửu, thịt dê đực nấu với tám vị thuốc khác nhau.
Ông kể thời đó có một món ăn thật kinh dị là ăn ngọc dương dê... sống vắt chanh. Người ăn nghĩ đó là một món ăn rất bổ. Dân nhậu thích món này sẵn sàng đợi cả giờ để mua được hai trái để về đánh chén. Họ mang về đặt trên dĩa sứ, vắt chanh hoặc đổ dấm lên, dùng rượu đưa cay và ăn hết sạch, tin là đã ăn món đại bổ cho chuyện kia. Vài người thích uống huyết dê. Dê cắt ra bỏ huyết đầu, lấy huyết cho vào tô, bỏ rượu vào và quậy lên. Thứ tiết dê pha rượu đó hơi tanh nhưng người uổng cho biết uống vào thấy ngọt trong họng.
(Phạm Công Luận)
Ba nhe
Do từ panier của tiếng Pháp nghĩa là cái rổ, cái thúng, cái giỏ.
Porteur de panier là người làm công việc khuân vác ở bến tàu,
bến xe thường phải giành giật để kiếm sống.
Ba nhe gần giống như đá cá lăn dưa theo cái nhìn xưa.
(Chữ nghĩa chúng ta – Bùi Bảo Trúc)
Bà đầm
Bà đầm, đầm rau muống, đầm mũi tẹt, từ đầm này du nhập vào
tiếng Việt từ bao giờ? Nhất định nó phải xuất hiện trước thế kỷ 19:
Một đàn thằng hỏng đứng mà trông
Nó đỗ khoa này có sướng không
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng
(Trần Tế Xương, khoa thi Đinh Dậu 1897)
(Chữ nghĩa chúng ta – Bùi Bảo Trúc)
Ngôi sao Hàn Thuyên
Suốt thời kỳ niên thiếu ở Hà Nội, đến trường bằng con đường Tiên Tsin có những cỗ tầu điện một toa chạy xuống ngoại ô Kim Liên, những dẫy sấu, cành lá đan chen rườm rà trên những lòng mái cong trũng, tôi hàng ngày đi qua cái bảng hiệu treo cao trên một ngôi nhà có thềm cửa vào thường đóng kín, không khí bên trong đoán thấy hắt hiu, ngưng đọng. Đó là nhà xuất bản Hàn Thuyên. Sau này tôi mới được biết, ngôi nhà có một căn gác gỗ, chật và tối, nhiều khói thuốc, ở đó Nguyễn Đức Quỳnh, Trương Tửu, Đặng Thái Mai họp mặt viết sách, với Nguyễn Đức Quỳnh là những tiểu thuyết tự thuật về ấu thời ông ở Hưng Yên, và những thiên khảo luận lịch sử văn minh loài người ở đầu ngọn xa thẳm nhất quá trình và sinh hoạt văn minh nhân loại.
Nguyễn Đức Quỳnh viết sách, Về thái cổ Đông Phương, Về tiền cổ Tây Phương, Về thời đồng, thời đá, thuở trái đất mới có lửa, cộng đồng sống chung trong hình thái bộ lạc cách biệt. Trước một người từ thời đó đã viết những cuốn sách giải thích những hiện tượng nhân văn típ tắp mịt mùng ngoài khối thơ dại ú ớ của mình, cái tự nhiên là Nguyễn Đức Quỳnh đã hiện hình trong trí tưởng ngây ngất của tôi hồi đó, sau lớp ánh sáng lung linh khác thường của một nhân vật huyền thoại. Huyền thoại toả chiếu từ trí tuệ siêu việt.
(Mai Thảo)
Nguyễn Đức Quỳnh sinh năm 1909, mất năm 1974. Quê làng Trà Bồ, tổng Ba Động, huyện Phù Cừ, bút danh Hoài Đồng Vọng...
Từ năm 1931 ông thành lập nhóm Hàn Thuyên với tạp chí Văn Mới xuất bản định kỳ như một nguyệt san văn học. Hàn Thuyên là một nhóm văn sĩ có khuynh hướng nhân sinh gồm một số cây bút có tiếng trước thế chiến II: Nguyễn Đình Lạp, Đặng Thai Mai, Trương Tửu, Nguyễn Tuân,... đã xuất bản được một số tác phẩm văn, sử có tiếng vang hồi tiền chiến.
Kỷ vật Hồ Trường
Có lẽ suốt thời gian dài, vẫn ít có tài liệu khẳng định chánh bản của bài thơ Hồ Trường, nên phần lớn, nhất là tại Quảng Nam, nhắc đến tác phẩm này, nhiều người thường ngộ nhận cho rằng, Nguyễn Bá Trác là tác giả. Tuy nhiên, theo một bài viết của nhà thơ Đông Trình, dẫn lời học giả Nguyễn Văn Xuân (báo Tuổi Trẻ, 1998) cho biết, bài Hồ Trường do Nguyễn Bá Trác dịch lại từ một ca khúc của Trung Quốc. Về mặt văn bản học, do xuất xứ phức tạp của bài thơ (thực ra là lời ca) Hồ Trường, nên các bản đang lưu hành tại VN xưa nay có nhiều điểm khác biệt nhau. Dù vậy, đến hiện nay, nhìn nhận thế nào chăng nữa, thì Hồ Trường vẫn gắn liền cùng tên tuổi Nguyễn Bá Trác. Đặc biệt, là bản thân ông, một kẻ sĩ đã lớn lên trong một bối cảnh xã hội vô cùng hỗn mang và thân phận chẳng khác “Hồ Trường... Biết rót về đâu?”.
Nguyễn Bá Trác sinh năm Tân Tỵ (1881) tại làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Năm 1906, NBT đỗ cử nhân. Hưởng ứng phong trào Duy Tân, Đông Du, ông sang Nhật du học. Sau khi chính phủ Nhật cấu kết với Pháp giải tán lưu học sinh Việt Nam, ông phải chạy sang Trung Quốc. Năm 1917, khi trở về Hà Nội, ông làm chủ bút phần Hán văn cho Nam Phong. Sau, thôi làm ở báo Nam Phong, ông vào Huế làm Tá lý Bộ Học và lần lượt trải qua các chức vụ: Tuần phủ Quảng Ngãi, Tổng đốc Thanh Hóa, Tổng đốc Bình Định. Tháng 8 năm 1945, Việt Minh lên nắm chính quyền, ông bị xử bắn công khai tại Quy Nhơn (Bình Định).
(Trần Trung Sáng)
Chữ là nghĩa
Ăn mặn nói ngay hơn ăn chay nói dối
(Bùi Kim Chi – Khảo luận về ca dao, thành ngữ)
***
Phụ đính I
40 Năm hải ngoại - Một nén hương - Cho những nhà văn
nhà thơ đã khuất núi
(Danh sách cập nhật tới tháng 6/2017 – Nhật Tiến biên soạn
Tổng hợp từ nhiều nguồn)
Tạ Chí Đại Trường
(1938-2016)
Tạ Chí Đại Trường là một nhà sử học, nhà nghiên cứu văn hóa
Ông sinh ngày 21-6-1938 tại Nha Trang. Năm 1964 Tạ Chí Đại Trường tốt nghiệp bằng Cao học Lịch sử tại Viện Đại học Sài Gòn rồi nhập ngũ. Ông phục vụ trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1964 cho tới năm 1974 với chức vụ đại úy.
Năm 1964, Ông viết tác phẩm ‘Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ năm 1771 đến 1802”, đặt lại vấn đề về vai trò của nhà Tây Sơn trong lịch sử. Lịch Sử Nội Chiến tại Việt Nam 1771-1802. Cuốn này được tặng Giải Thưởng Tổng Thống VNCH năm 1970.
Sau năm 1975, ông bị đi cải tạo cho đến năm 1981.
Tháng 8/1994, ông đi định cư tại Hoa Kỳ, cộng tác với một số tạp chí như Văn, Văn Học, Hợp Lưu.
Đầu thập niên 2000, ông về Sài Gòn và mất ngày 24-3-2016.
Tác phẩm :
1 Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ 1771 đến 1802, Nxb. Văn Sử học, Sài Gòn 1973.
2 Thần, người và đất Việt, Nxb. Văn Nghệ, Hoa Kì 1989; Văn Học xb., Hoa Kì 2000.
3 Một khoảnh Việt Nam Cộng Hoà nối dài, Nxb. Thanh Văn, Hoa Kì 1993.
5 Những bài dã sử Việt, Nxb. Thanh Văn, Hoa Kì 1996.
6 Những bài văn sử, Văn Học xb., Hoa Kì 1999.
8 Sử Việt đọc vài quyển, Văn Mới xb., Hoa Kì 2004.
9 Sơ thảo: Bài sử khác cho Việt Nam, bản thảo bắt đầu 2005. Văn Mới, USA 2009.
10. Người lính thuộc địa Nam Kỳ (1861-1945), bản thảo 1975.
***
Phụ đính II
Nguyên Sa ở Hà Đông
Khi viết về quê nhà sau 40 năm trở lại, tôi được nhiều người gọi tới bất ngờ. Một trong những sự bất ngờ đó là thi sĩ Nguyên Sa.
Qua những cuộc điện đàm, tôi được anh cho biết:
“Năm 1947 thì phải, lúc tản cư khỏi Hà Đông, gia đình tôi (Nguyên Sa) chạy tạt về vùng Thạch Thất, quê anh đấy, đi qua cống Đặng, qua con sông, rồi ở nhờ mấy làng ở chân núi.” Tôi (Phan Lạc Tiếp) lại cười và tiếp lời anh: “Cống Đặng thuộc làng Đặng Xá, làng của anh Tú Kếu – Trần Đức Uyển. Còn cái làng bên kia sông, ấy là các làng có cái tên thật hay là các làng Cần Kiệm, Phú Lễ, Phú Đa, Trúc Động, Hạ Lôi, ở quanh chân núi Câu Sơn, bên kia con sông Tích Giang. Đó là quê của anh Dương Nghiễm Mậu – Phí Ích Nghiễm”. (sic)
Anh lại cười và nói: "Lạ thế ra nơi đó có nhiều người nổi tiếng quá nhỉ ...”. Tôi tiếp: “Vâng các anh ấy nổi tiếng chứ không phải tôi”. Anh cười. Khi tôi viết về Quang Dũng và nói đến chị Hồ Điệp, thì anh lại gọi và nói: "Thế ra anh biết anh Quang Dũng kỹ quá nhỉ. Kể như cùng quê với nhau. Từ làng anh, làng Nủa ra Phùng rất gần. Và chị Hồ Điệp nữa, người làng anh nhỉ.
(Nguyên Sa, Hà Nội – Phan Lạc Tiếp)
Quang Dũng ở Hà Đông
Quang Dũng, từ trước tới nay vẫn được biết đến là một nhà thơ Sơn Tây. Anh đã mang hình ảnh của Sơn Tây vào đầy ắp những thi phẩm của mình.
“Em từ thành Sơn chạy giặc về
- Tôi thấy xứ Đoài mây trắng lắm
- Cách biệt bao lần quê Bất Bạt,
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì
- Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn.
Về núi Sài Sơn ngắm lúa vàng ...”
Nhưng thực ra quê hương Quang Dũng không phải là Sơn Tây, mà là Hà Đông. Quang Dũng lớn lên trong căn nhà nằm ở ven con đê Hiệp, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Đông. Vì Đan Phượng thuộc Hà Đông, nhưng nó nằm trên con đường về Sơn Tây, nên ấn tượng về Sơn Tây đã có sẵn trong lòng mọi người khởi hành từ Hà Nội.
Căn nhà ngay cạnh chợ, đó là nhà cụ Tổng -Phùng. Và chính là căn nhà của Quang Dũng.
Căn buồng đó có một khuôn cửa sổ mở ra sân sau. Từ căn buồng này có thể nhìn ra bãi mía bên kia con ngòi sát nhà, và thấy núi Ba Vì ở mãi tận phía xa. Có lẽ căn buồng này, khuôn cửa sổ này đôi mắt người thơ hướng về Sơn Tây, hít thở cái không khí của Sơn Tây, và sau này mang các hình ảnh của Sơn Tây vào thơ.
(Ngôi nhà Quang Dũng ở Sơn Tây – Phan Lạc Tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét