Tạp Ghi và Phiếm Luận :
LANG là CHÀNG
CHÀNG chữ Nho là LANG 郎. Như hai câu trong bài ngũ ngôn trường thiên "Trường Can Hành" của Thi Tiên Lý Bạch:
郎 騎 竹 馬 來, LANG kỵ trúc mã lai,
繞 床 弄 青 梅. Nhiễu sàng lộng thanh mai.
Có nghĩa :
CHÀNG cưởi ngựa tre đến,
Quanh giếng ghẹo mai xanh.
Đó là lời của người vợ trẻ nói về chồng mình khi hai đứa cùng lớn lên ở xứ Trường Can từ thuở nhỏ, họ là THANH MAI TRÚC MÃ 青 梅 竹 馬 của nhau, nên LANG là CHÀNG, là CHỒNG; Vì thế TÂN LANG 新 郎 là "Chồng mới", là "Chú rể mới". Trong bài hát nói (Ca trù) "Tuổi già cưới Vợ hầu" của Uy Viễn Tướng Công Nguyễn Công Trứ có hai câu chữ Nho như sau:
新 娘 欲 問 郎 年 幾, TÂN NƯƠNG dục vấn LANG niên kỷ,
五 十 年 前 二 十 三. Ngũ thập niên tiền nhị thập tam !
Có nghĩa :
- Nếu cô dâu mới muốn hỏi CHÀNG bao nhiêu tuổi, thì xin đáp rằng...
- Năm mươi năm trước mới có hai mươi ba tuổi thôi! Có nghĩa, trước mắt thì CHÀNG RỂ MỚI nầy đã "Bảy mươi ba tuổi" rồi! Chớ không còn là...
THIẾU NIÊN LANG 少 年 郎 là "Chàng Tuổi Trẻ" như trong Chinh Phụ Ngâm Khúc của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm diễn Nôm là:
CHÀNG TUỔI TRẺ vốn dòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
Với hình tượng...
Áo CHÀNG đỏ tựa ráng pha,
Ngựa CHÀNG sắc trắng như là tuyết in.
và đầy hào khí của một CHÀNG TRAI trong thời loạn...
Giã nhà đeo bức chiến bào,
Thét roi cầu Vị ào ào gió thu !
Nên...
CHÀNG là LANG là từ để gọi người yêu, người tình, người hôn phối... một cách âu yếm thân mật, như TÌNH LANG 情 郎, PHU LANG 夫 郎, LANG QUÂN 郎 君... Trong bài "Bẽn Lẽn" của nhà thơ Hàn Mặc Tử ta đọc được các câu:
...Vô tình để gió hôn lên má
Bẽn lẽn làm sao, lúc nửa đêm !
Em sợ LANG QUÂN em biết được
Nghi ngờ tới cái tiết trinh em...
LANG là CHÀNG, là nam giới, là con trai. Có tài hoa giỏi giắn thì gọi là TÀI LANG 才 郎, ngu si đần độn thì gọi là XUẨN LANG 蠢 郎. Trắng trẻo đẹp trai thì gọi là NGỌC LANG 玉 郎. Chàng rể mới thì gọi là TÂN LANG 新 郎; chàng rể phụ thì gọi là BẠN LANG 伴 郎. Ngoài ra, nhà đông anh em thì anh cả là ĐẠI LANG 大 郎, em thứ là NHỊ LANG 二 郎, kế nữa là TAM LANG 三 郎, TỨ LANG 四 郎, NGŨ LANG 五 郎...
Xét theo Lục Thư thì LANG 郎 là chữ thuộc dạng Hài thanh và Hội Ý có diễn tiến hình thành chữ viết như sau:
Kim Văn Đại Triện Tiểu Triện Lệ Thư Khải Thư
Ta thấy :
Chữ LANG 郎 được ghép bởi bộ LƯƠNG 良 là Tốt, là Hiền, là Giỏi bên trái chỉ ÂM, và bộ ẤP 邑 (阝) là Thôn, là Xóm, là Làng bên phải chỉ Ý. Nên theo Hài Thanh thì đọc theo âm LƯƠNG trại ra thành âm LANG, theo Hội Ý thì là người có tài, có chức sắc trong làng xóm, nên LANG 郎 là một chức quan trong triều đình xưa, như:
THỊ LANG 侍 郎 Vốn là một cận thần thị vệ trong cung từ đời Hán. Sau đời Đông Hán là thuộc quan (phụ tá) của Thượng Thư. Có diễn tiến như sau: Mới nhậm chức gọi là LANG TRUNG 郎 中, khi tròn một năm thì gọi là THƯỢNG THƯ LANG 尚 書 郎, đủ ba năm thì mới được gọi là THỊ LANG. Sau đời Đường THỊ LANG 侍 郎 là chức phó của các Trung Thư, Thượng Thư... tương đương như chức Thứ Trưởng ngày nay của ta vậy. Đặc biệt là nghề thầy thuốc chửa bệnh và cứu nhân độ thế, nên được người đời xưng tụng như là một chức sắc LANG TRUNG, nên mới hình thành từ LANG TRUNG 郎 中 để gọi một cách tôn xưng các thầy thuốc là vì thế. Sang đến Việt Nam ta thì bà con gọi cho gọn lại là THẦY LANG; còn những tay thầy thuốc dỏm không có đạo đức, chỉ biết có tiền thì được bà con gọi là "TÊN LANG BĂM" !
HIỆU THƯ LANG 校 書 郎 Quan chức có từ đời Đông Hán, chuyên hiệu đính sách vở văn chương thư tịch, thi từ ca phú... Đời Đường gọi là BÍ THƯ TỈNH 秘 書 省 hay BÍ THƯ LANG 秘 書 郎 là quan chức thuộc hàng Cửu phẩm.
VIÊN NGOẠI LANG 員 外 郎 cũng là một quan chức thời cổ đại, vốn dùng để chỉ các quan viên nằm ngoài chính ngạch. Vào đời Tùy gồm 24 ty của Thượng Thư Tỉnh đều có một VIÊN NGOẠI LANG là Thứ trưởng quan; tương đương với Phó Ty Trưởng hiện nay. LANG TRUNG là Chính Ty, VIÊN NGOẠI LANG là Phó Ty. Về sau, Viên Ngoại 員 外 chỉ còn là một chức hàm cho những nhà giàu chứ không có thực quyền và bổng lộc gì cả. Như Vương Viên Ngoại cha của Thúy Kiều và Thúy Vân vậy:
Có nhà VIÊN NGOẠI họ Vương,
Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung.
Nhớ khoảng năm 1964, tuần báo "Tin Vịt" ở Sài Gòn có đăng truyện thơ "Vương Thúy Kiều Tân Thời" có hai câu như sau:
Có nhà nghị gật họ Vương,
Gia tư thì cũng ruộng vườn xe hơi !
Còn...
TỬ VI LANG 紫 微 郎 là tên gọi đặc biệt nên thơ của chức TRUNG THƯ TỈNH 中 書 省, còn gọi là TRUNG THƯ THỊ LANG 中 書 侍 郎 tương đương với chức Hữu Thừa Tướng, chuyên lo văn thư tấu sớ của Hoàng đế nên rất nhàn hạ, rảnh rỗi. Ta hãy đọc bài thơ TỬ VI HOA 紫 薇 花 của Thi Bá Bạch Cư Dị 白 居 易 ở đời Đường khi ông đang giữ chức TỬ VI LANG thì sẽ rõ:
絲 綸 閣 下 文 書 静, Ty Luân Các hạ văn thư tịnh,
鐘 鼓 樓 中 刻 漏 長。 Chung cổ lâu trung khắc lậu trường.
獨 坐 黄 昏 誰 是 伴, Độc tọa hoàng hôn thùy thị bạn,
紫 薇 花 對 紫 微 郎。 Tử vi hoa đối TỬ VI LANG !
Có nghĩa :
Trong Ty Luân Các văn thư ít,
Nhỏ giọt lầu chuông khắc lậu tàn.
Ngơ ngẩn hoàng hôn sầu chiếc bóng,
Chỉ... Tử Vi hoa với TỬ VI LANG !
Đó là các chức quan ngày xưa có chữ LANG là CHÀNG đi kèm, ngoài ra, chữ LANG còn chỉ những nghề nghiệp lương thiện đàng hoàng như : ĐIỀN XÁ LANG 田 舍 郎 để chỉ các chàng làm nghề nông, BỔ TRÓC LANG 捕 捉 郎 là các chàng chuyên đánh bắt cá tôm, TRẠO THUYỀN LANG 棹 船 郎 là các chàng làm nghề chèo thuyền, chèo đò hay sống trên sông nước... như bài từ Hoán Khê Sa 浣 溪 沙 của Tiết Chiêu Uẩn 薛 昭 蕴 ở cuối đời Đường đầu đời Ngũ Đại:
紅 蓼 渡 頭 秋 正 雨, Hồng lạo độ đầu thu chính vũ,
印 沙 鷗 迹 自 成 行, Ấn sa âu tích tự thành hàng,
整 鬟 飄 袖 野 風 香。 Chỉnh hoàn phiêu tụ dã phong hương.
不 語 含 顰 深 浦 裡, Bất ngữ hàm tần thâm phố lý,
幾 回 愁 煞 棹 船 郎, Kỷ hồi sầu sát TRẠO THUYỀN LANG,
燕 歸 帆 盡 水 茫 茫。 Yến quy phàm tận thủy mang mang !
Có nghĩa :
Hoa súng nở hồng ướt mưa thu,
Vịt trời xa tít tận mây mù.
Điểm trang hương phấn hương hoa tỏa,
Im lặng chau mày bến sông nhỏ,
Nát lòng mấy độ GÀ CHÈO ĐÒ,
Đối người đối cảnh ngẩn ngơ,
Én bay buồm khuất mịt mờ nước sông !
TRẠO THUYỀN LANG 棹 船 郎 còn được gọi là LỘNG TRIỀU NHI 弄 潮 兒 là các "chàng giởn sóng", là suốt ngày đùa giởn trên sóng nước, như trong bài "Giang Nam Khúc 江 南 曲" của nhà thơ Lý Ích 李 益 đời Đường:
嫁 得 瞿 塘 賈, Giá đắc Cù Đường cổ
朝 朝 誤 妾 期。 Triêu triêu ngộ thiếp kỳ
早 知 潮 有 信, Tảo tri triều hữu tín
嫁 與 弄 潮 兒。 Giá dữ LỘNG TRIỀU NHI !
Có nghĩa :
Lấy được chú lái buôn ở xứ Cù Đường, (là một điều may mắn, thường thì các lái buôn nầy rất giàu). Nhưng… ngày nào cũng lỗi hẹn với thiếp cả! (chỉ lo đi tìm lợi nhuận). Nếu sớm biết trước, nước thủy triều lên xuống đúng hẹn, không sai bao giờ. Thì thà trước kia lấy gã chèo đò cho xong !
Lấy phải Cù Đường thương lái
Thường ngày bỏ thiếp nằm co
Lớn ròng nước kia đúng hẹn
Biết trước, lấy GẢ CHÈO ĐÒ !
Lục Bát :
Ai xui lấy lái Cù Đường
Ngày ngày bỏ thiếp sầu thương muộn phiền
Đầy vơi dòng nước thường xuyên
Phải dè lấy GẢ CHÈO THUYỀN cho xong !
Như trên đã nói CHÀNG TUỔI TRẺ là THIẾU NIÊN LANG 少 年 郎. Người yêu thì gọi là TÌNH LANG 情 郎; Có tình nghĩa, xem trọng tình cảm thì gọi là HỮU TÌNH LANG 有 情 郎, các chàng đa tình thì gọi là ĐA TÌNH LANG 多 情 郎; còn giở thói Sở Khanh bạc bẽo thì gọi là BẠC TÌNH LANG 薄 情 郎, như tên Sở Khanh trong Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du nhà ta vậy:
BẠC TÌNH nổi tiếng lầu xanh,
Một tay chôn biết mấy cành phù dung !
Nên ông bà ta thường nhắc nhở các cô gái ngây thơ mới lớn hai câu của nữ sĩ Ngư Huyền Cơ 魚 玄 機, một trong "Tứ Đại Nữ Thi Nhân" đời Đường là:
易 求 無 價 寶, Dị cầu vô giá bảo,
難 得 有 情 郎。 Nan đắc HỮU TÌNH LANG.
Có nghĩa :
- Bảo vật vô giá còn dễ tìm dễ cầu để mà có được, chớ...
- Các chàng trai chung tình, có tình có nghĩa thì khó mà có được lắm! Cho thấy, từ xưa đến nay các chàng trai, các cánh "nìn-ông"... thường hay có mới nới cũ, bạc tình bạc nghĩa lắm, nhất là ở trong các xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ thì quả thật là "Nan đắc hữu Tình Lang"!...
Dễ cầu có được ngàn vàng,
Khó tìm cho được một chàng thủy chung !
Trong Văn Học Cổ thì tùy theo họ tên, ta cũng có rất nhiều CHÀNG, như CHÀNG CHU, CHÀNG LƯU, CHÀNG NGƯU, CHÀNG KHUÔNG, CHÀNG VŨ, CHÀNG TIÊU... Ta bắt đầu bằng CHÀNG CHU nhé!
CHÀNG CHU, tức CHU LANG 周 郎 là CHU DU 周 瑜, còn gọi là CHU CÔNG CẨN 周 公 瑾, là người văn võ song toàn; 28 tuổi đã làm Đô Đốc của Đông Ngô. Ông nổi tiếng với trận chiến Xích Bích, lấy ít thắng nhiều đánh tan 83 vạn quân Tào Tháo, hình thành cuộc diện Tam Quốc lúc bấy giờ. Ngoài tài cầm binh và thao lược, Chu Du còn là một nghệ sĩ tài hoa lỗi lạc, giỏi cả cầm kỳ thi họa, nhất là về đàn tranh. Thường có câu: "Khúc hữu ngộ, Chu lang cố 曲 有 誤,周 郎 顧". có nghĩa: Nếu khúc đàn có sai sót, thì chàng Chu sẽ chiếu cố, chỉ điểm cho ngay! Xin mời đọc lại bài Ngũ ngôn Tứ tuyệt THÍNH TRANH 聽 箏 nổi tiếng của Lý Đoan 李 端 đời Đường sau đây:
鳴 箏 金 粟 柱, Minh tranh kim túc trụ,
素 手 玉 房 前. Tố thủ ngọc phòng tiền.
欲 得 周 郎 顧, Dục đắc Chu Lang cố,
時 時 誤 拂 絃. Thời thời ngộ phất huyền.
Có nghĩa :
Thánh thót đùa phím ngọc
Tay ngà nắn cung mơ
Muốn chàng Chu chiếu cố
Thường để lạc phím tơ
Lục bát :
Trục vàng phím ngọc vấn vương
Tay ngà nắn nót cung thương mơ màng
Muốn chàng chiếu cố ngó ngàng
Nàng thường để lạc phím đàn cung tơ !
Thường thì đàn, ai cũng muốn đàn cho hay. Nhưng ở đây thì ngược lại, nàng cố ý đàn dở, đàn sai để được chàng dòm ngó đến. Cái hay của bài thơ là ở chỗ nầy, nêu bật được cái tâm lý rất thực tế, rất nhân bản của phái nữ khi muốn được người mình yêu mến để ý đến. Nàng đã không màng đến thể diện, tự ái nữa, không cần phải đàn hay để được khen, mà chỉ muốn đàn sai để được chàng đến chiếu cố, thân cận cầm tay để chỉ điểm cho. Lý Đoan đã rất tâm lý khi làm bài thơ nầy.
Trong bài hát nói HỎI GIÓ của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, phần hai câu thơ chữ Hán cũng có nhắc đến CHU LANG :
Thử thị Đà Giang, phi Xích Bích, 此 是 沱 江 非 赤 壁,
Dã vô Gia Cát dữ CHU LANG. 也 無 諸 葛 與 周 郎。
Có nghĩa :
- Nơi đây là sông Đà Giang chớ không phải là sông Xích Bích.
- Chẳng có Gia Cát Lượng mà cũng chẳng có Chàng Chu.
LƯU LANG là CHÀNG LƯU, tức LƯU VŨ TÍCH 劉 禹 錫 (772-842), tự là Mộng Đắc, người đất Lạc Dương Hà Nam, tổ tiên từ Định Châu Hà Bắc di dời xuống miền nam. Ông là thi nhân nổi tiếng và tiêu biểu của đời Trung Đường, được đời sau xưng tụng là Thi Hào với các tính chất hào phóng trong thi ca, ngoài ra, ông còn nổi tiếng với các bài tản văn, như bài "Lậu Thất Minh 陋 室 銘" với các câu văn bất hủ như:
Sơn bất tại cao, hữu tiên tắc danh;
山 不 在 高,有 仙 則 名;
Thủy bất tại thâm, hữu long tắc linh.
水 不 在 深,有 龍 則 靈。
Tư thị lậu thất, duy ngô đức hinh....
斯 是 陋 室,惟 吾 德 馨...
Có nghĩa :
Núi chẳng tại cao, có tiên thì nổi tiếng;
Nước chẳng tại sâu, có rồng thì linh thiêng.
Đây chỉ là căn nhà thô lậu, nhưng được thơm lên vì cái đức của ta...
Năm Nguyên Hòa thứ chín (815), Lưu Vũ Tích cùng Liễu Tông Nguyên đều được triệu hồi Trường An chờ phục chức. Thấy cảnh bát nháo của chính sự lúc bấy giờ, nhân dạo chơi ở Huyền Đô Quán, một đạo quán nổi tiếng của các đạo sĩ ở kinh thành, ông đã làm bài "Nguyên Hòa Thập Niên Tự Lãng Châu Thừa Chiếu Chí Kinh Hí Tặng Khán Hoa Chư Quân Tử 元 和 十 年 自 朗 州 承 召 至 京 戲 贈 看 花 諸 君 子". có nghĩa: Năm Nguyên Hòa thứ mười phụng chiếu từ Lãng Châu về kinh thành, đùa tặng các bậc quân tử đi xem hoa. (Bài thơ nầy còn có tên đơn giản là "Huyền Đô Quán Đào Hoa 玄 都 觀 桃 花" là Hoa đào ở Huyền Đô Quán) như sau:
紫 陌 紅 塵 拂 面 來, Tử mạch hồng trần phất diện lai,
無 人 不 道 看 花 回。 Vô nhân bất đạo khán hoa hồi.
玄 都 觀 裏 桃 千 樹, Huyền Đô Quán lý đào thiên thọ,
盡 是 劉 郎 去 後 栽。 Tận thị Lưu Lang khứ hậu tài.
Có nghĩa :
Ngổn ngang đường xá bụi nhòa,
Kháo nhau cùng đến ngắm hoa chốn này.
Huyền Đô ngàn cội đào khai,
Đều trồng từ lúc đi đày CHÀNG LƯU.
Ý của Lưu là mĩa mai cái đám người quyền qúy mới, do a dua nịnh hót mà có được. Bọn người nầy đã vênh váo đi lại khắp đường phố Trường An làm ra vẻ thanh cao như những người đi ngắm hoa về. Nếu chàng Lưu ta còn ở đây thì chưa chắc bọn nầy đã hiện diện mà nghênh ngang đi lại. Ý của Lưu Vũ Tích có hơi trịch thượng và xem thường những người quyền thế mới nầy, nên chi chẳng bao lâu sau, ông lại bị biếm đi làm Thứ Sử Ba Châu.
Sau nhờ Ngự Sử Trung Thừa Bùi Độ tâu với vua vì Lưu Vũ Tích còn mẹ già, nên được thuyên về làm Thứ Sử Liên Châu. Thời gian này vì tâm trạng buồn khổ cực độ nên Lưu hay đi lại các chùa chiền và cùng nghiên cứu Phật pháp với các nhà sư. Năm Nguyên Hòa thứ 14, mẹ mất, phải về Lạc Dương thọ tang. Đường Mục Tông Trường Khánh nguyên niên (821) lại thuyên làm Thứ Sử Qùy Châu. Năm Trường Khánh thứ 4 đổi về làm Thứ Sử Hòa Châu. Mùa xuân năm Bảo Lịch thứ 2 đời Đường Kính Tông (826) lại được triệu về Lạc Dương. Năm Đại Hòa thứ 2 đời Đường Văn Tông(828)Mười bốn năn sau, một lần nữa ghé thăm lại Huyền Đô Quán, lại làm bài "Tái Du Huyền Đô Quán 再 游 玄 都 觀" để châm biếm và cười cợt những kẻ quyền qúy đã hết thời:
百 畝 庭 中 半 是 苔, Bách mẫu đình trung bán thị đài,
桃 花 淨 盡 菜 花 開。 Đào hoa tịnh tận thái hoa khai.
種 桃 道 士 歸 何 處, Chủng đào đạo sĩ quy hà xứ ?
前 度 劉 郎 今 又 來。 Tiền độ Lưu Lang kim hựu lai !
Có nghĩa :
Trong sân nửa mẫu rêu nhòa,
Đào thì rụng sạch cải đà nở hoa.
Trồng đào đạo sĩ đâu ta ?
Chàng Lưu ngày trước lại qua chốn nầy !
Lúc bấy giờ, những phe mhóm đối lập đã tan rả, như hoa đào đã rụng hết. Người cầm đầu là Võ Nguyên Hành cũng đã chết, như đạo sĩ trồng đào đã bỏ đi. Lưu tự hào là mình vẫn còn có ngày phục chức trở lại, như Lưu Thần Nguyễn Triêu được trở lại Thiên Thai lần nữa vậy (Chàng Lưu ngày trước lại về đây!). Vì cùng là họ Lưu, nên Lưu Vũ Tích ví mình như là Lưu Thần đã từng sống nơi cảnh Thiên Thai ngày trước, với cuộc sống thần tiên thanh cao nhàn nhã, chứ không vướng bận lợi danh chạy theo những thị hiếu thấp hèn của người đời như những kẻ tầm thường khác.
Nói đến CHÀNG người ta cũng nghĩ ngay đến CHÀNG NGƯU và Ả Chức, tức Ngưu Lang 牛 郎 và Chức Nữ 織 女. vốn là hai vì sao ở hai đầu sông Ngân Hà trên trời. Tương truyền Chức Nữ là cháu gái của Ngọc Hoàng giỏi nghề dệt vải, gả cho Ngưu Lang là chàng chăn trâu. Vì hai vợ chồng quá yêu nhau nên chểnh mảng công việc. Ngọc Hoàng giận mới đày hai người ở hai bên bờ sông Ngân Hà, mỗi năm chỉ cho đàn ô thước bắt cầu để gặp nhau một lần vào đêm mồng bảy tháng bảy âm lịch, tục gọi là đêm Thất Tịch. Nên Chàng Ngưu Ả Chức hay Ngưu Lang Chức Nữ 牛 郎 織 女 gì đều chỉ tình yêu trai gái hay tình nghĩa vợ chồng với nhau. Như trong truyện thơ Nôm Quan Âm Thị Kính diễn tả tình duyên trắc trở giữa Thiện Sĩ và Thị Kính vậy:
Thiệt công ô thước bắc cầu,
CHÀNG NGƯU Ả Chức giã nhau từ rày.
Hay như trong Lục Vân Tiên của cụ Nguyễn Đình Chiểu tả mối tình của Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga:
Hữu tình chi bấy NGƯU LANG,
Tấm lòng Chức Nữ vì chàng mà nghiêng.
CHÀNG NGƯU là nhân vật thần thoại không có thật, chứ CHÀNG KHUÔNG, CHÀNG VŨ là những người có thật trong đời sống.
CHÀNG KHUÔNG tức Khuông Hành 匡 衡, tự là Trĩ Khuê, người đất Đông Hải huyện Quận Thừa, là một học giả nổi tiếng đời Tây Hán, làm quan đến chức Thừa Tướng. Ông xuất thân là con nhà nông nghèo khổ, gia cảnh bần hàn, phải đi làm công để đổi lấy sách học. Ông lại nổi tiếng và để đời với việc xin ông hàng xóm cho khoét một cái lổ trên vách (gọi là TẠC BÍCH 鑿 壁) lúc đêm về để nhờ vào ánh đèn sáng xuyên qua lổ hổng đó mà đọc sách học hành, như cụ Nguyễn Công Trứ đã tả trong bài Hàn Nho Phong Vị Phú là:
Cần nghiệp Nho khi TẠC BÍCH TỤ HUỲNH,
Thuở trước CHÀNG KHUÔNG, CHÀNG VŨ.
TẠC BÍCH TỤ HUỲNH 鑿 壁 聚 螢
CHÀNG VŨ tức là Xa Dận, tự là VŨ TỬ. Theo Tấn Thư quyển 83 Xa Dận Truyện. Ông người đất Nam Bình, từ nhỏ đã hiếu học, nhưng nhà nghèo, ban ngày phải đi làm lụng kiếm sống, ban đêm không có tiền mua dầu thắp đèn để học. Nhân những tháng mùa hè có nhiều đom đóm, ông bèn đuổi bắt tập hợp chúng lại gói trong vải mỏng để lấy ánh sáng (gọi là TỤ HUỲNH 聚 螢) mà đọc sách, sau cũng trở thành một văn học gia nổi tiếng đời Tấn.
Nói chung, CHÀNG KHUÔNG CHÀNG VŨ gì đều chỉ những người nghèo mà hiếu học.
Cuối cùng ta có CHÀNG TIÊU là TIÊU LANG 蕭 郎, là Phiếm chỉ Đại từ thường dùng để chỉ người tình hoặc ý trung nhân theo tích sau đây:
Theo Toàn Đường Thi Thoại: Thi nhân đời Đường Nguyên Hòa là Tú Tài Thôi Giao 崔 郊, thương một người nô tì tài sắc vẹn toàn của nhà bà cô. Sau vì nghèo, bà cô bán nô tì đó cho Liên Soái làm tì thiếp. Giao cứ thơ thẩn trước cửa Liên Soái mà không dám vào. Nhân tiết Hàn Thực người tì thiếp đi ra ngoài gặp gỡ Thôi Giao bên rặng liễu. Giao cảm xúc làm tặng nàng bài thơ tứ tuyệt nổi tiếng sau đây:
公 子 王 孫 逐 後 塵, Công tử vương tôn trục hậu trần,
綠 珠 垂 淚 濕 羅 巾。 Lục Châu thùy lệ thấp la cân.
侯 門 一 入 深 如 海, Hầu môn nhất nhập thâm như hải,
從 此 蕭 郎 是 路 人。 Tòng thử TIÊU LANG thị lộ nhân.
Có nghĩa :
Công tử vương tôn ruổi bụi trần,
Lục Châu lệ nhỏ ướt đầm khăn.
Cửa hầu tựa bể sâu thăm thẳm,
Từ đó CHÀNG TIÊU kẻ trước sân.
Lục bát :
Vương tôn công tử theo sau,
Lục Châu nhỏ lệ ướt bao khăn là.
Cửa hầu sâu tợ biển xa,
CHÀNG TIÊU từ đó như là người dưng.
Có người mách lẻo, định tâng công, đem bài thơ nầy cho Liên Soái xem. Liên Soái cho mời Thôi Giao vào dinh. Mọi người đều lo sợ cho chàng. Không ngờ Liên Soái cũng thuộc nòi tình, tuy rất yêu thương người tì thiếp tài hoa, nhưng thấy hai người vẫn còn yêu nhau tha thiết, nên trả nàng lại cho Thôi Giao và còn tặng cho bốn ngàn nén bạc về quê để... yêu nhau! Tạo nên một giai thoại trong làng thơ lúc bấy giờ.
Trong Truyện Kiều, lúc Kim Kiều tái hợp, cụ Nguyễn Du cũng đã mượn tích nầy khi Thúy Kiều cứ một mực khăng khăng không chịu thành thân với Kim Trọng:
...Có điều chi nữa mà ngờ,
Khách qua đường để hững hờ CHÀNG TIÊU !?
Nghe chàng nói đã hết điều,
Hai thân thì cũng quyết theo một bài...
Nên cuối cùng thì cũng ...
Cùng nhau giao bái một nhà,
Lễ đà đủ lễ, đôi đà đủ đôi.
Động phòng dìu dặc chén mồi,
Bâng khuâng duyên mới, ngậm ngùi tình xưa...
"Bâng khuâng duyên mới, ngậm ngùi tình xưa !" Thật cảm khái, thật ngậm ngùi, mà cũng thật dễ làm xúc động lòng người!...
Từ LANG là CHÀNG cuối cùng của bài viết nầy không phải là một CHÀNG, mà là một NÀNG ?! Đó là từ NỮ LANG 女 郎...
NỮ LANG 女 郎 là từ dùng để chỉ một thiếu nữ trẻ, một cô gái còn trẻ trung. Trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, từ NỮ LANG là một cách gọi tôn xưng các cô gái lên ngang hàng với các chàng trai đồng trang lứa, như...
NÀNG là một NỮ LANG tài mạo song toàn !...
Hẹn bài viết tới :
NƯƠNG là NÀNG.
杜 紹 德
Đỗ Chiêu Đức
* Mời bấm vào link dưới đây để nghe bản nhạc
"CHÀNG là AI ?" của Nhạc sĩ Nguyễn Hữu Thiết :
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét