Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2025

Đức Nhân trong Luận Ngữ Cổ Nghĩa của ITÔ JINSAI (Bài 10) - Nguyễn Sơn Hùng biên soạn

 

Đức Nhân trong Luận Ngữ Cổ Nghĩa của ITÔ JINSAI (Bài 10)


 

Đức nhân trong chương 15 Vệ Linh Công

Tác giả: Nguyễn Sơn Hùng  

Bài 15.8 Chí sĩ và người có đức nhân (nhân nhân) có thể hy sinh mạng sống bản thân vì lợi ích chung của nhiều người như của xã hội, nhân loại.

Tử viết:“Chí sĩ, nhân nhân, vô cầu sinh dĩ hại nhân, hữu sát thân dĩ thành nhân.”

子曰:志 士 仁 人,無 求 生 以 害 仁,有 殺 身 以 成 仁。

Dịch

Khổng Tử nói: “Người sĩ có chí và người có đức nhân không cầu sống mà làm hại điều nhân, mà có khi hy sinh tính mạng để thành điều nhân.”

Chú thích

“Chí sĩ” là người sĩ có chí hướng. “Nhân nhân” là người đã hoàn thành được đức. “Cầu sinh” là tìm con đường (phương pháp) để được sống sót.

Giải thích

Người sĩ có chí (mục tiêu) để đạt được chí của mình thì có những việc họ không làm dù có lợi ích khác (với mục tiêu của họ) cho bản thân.

Người có đức nhân, nhờ đức của họ mà người khác có thể được thành tựu.

Việc làm của 2 hạng người này tuy có khác nhau nhưng ở phương diện của đức nhân (vì lợi ích chung của nhiều người, của xã hội …) thì chỉ là một.

Người quân tử nếu bỏ mất đức nhân (vì lợi ích chung của nhiều người, của xã hội …) thì làm sao còn xứng đáng được gọi là người quân tử.

Mục tiêu (chí) của chí sĩ và người có đức nhân chẳng phải là vĩ đại sao?

Nhận xét

1)      Theo giải thích của Jinsai thì ý nghĩa của “chí sĩ”, “nhân nhân” (người có đức nhân) và người quân tử đều giống nhau là mục tiêu tối cao của đời sống họ là “vì lợi ích chung của nhiều người”. Không biết ý muốn nói của phu tử trong bài này có đúng như vậy không còn phải xem xét nội dung khi phu tử giảng giải về “sĩ” hay “quân tử” trong các bài khác. Tuy nhiên, dù thế nào đi nữa theo tinh thần của Khổng học thì “vì lợi ích chung của nhiều người” tức là đức nhân nên là mục tiêu của những người học đạo thánh hiền. 

2)      Xem giải thích ý nghĩa của từ “chí sĩ” trong các từ điển tiếng Việt rất hạn hẹp và nghèo nàn, theo thiển ý của người dịch xuất phát sau khi đọc bài này thì điều kiện không thể thiếu để xứng đáng gọi là “chí sĩ” là người đó phải sống với mục tiêu “vì lợi ích chung của nhiều người” như xã hội, đất nước, loài người. Giải thích của các từ điển cần phải đúng như vậy mới giúp giới trẻ có ý thức rõ ràng về nhân sinh quan.

3)      Cần nên lưu ý khi đọc Luận Ngữ “sĩ” trong thời đại của Khổng tử là người chưa có tư cách tham chính như “đại phu” (Xem bài 15.9).


Bài 15.9 Để thực hiện chính trị vì người, cần phải phục vụ người tài đức, làm bạn với người có đức nhân. (Phương pháp thực hiện đức nhân: trả lời của Khổng tứ đối với Tử Cống)

Tử Cống vấn vi nhân. Tử viết: “Công dục thiện kỳ sự, tất tiên lợi kỳ khí. Cư thị bang dã, sự kỳ đại phu chi hiền giả, hữu kỳ sĩ chi nhân giả.”

子 貢 問 為 仁 . 子 曰:工 欲 善 其 事,必 先 利 其 器。居 是 邦也,事 其 大 夫 之 賢 者,友 其 士 之 仁 者。

Dịch

Tử Cống hỏi về sự tu dưỡng đức nhân. Khổng tử đáp: “Người thợ muốn làm việc cho khéo thì trước hết phải có đồ dùng tốt. (Cũng vậy, muốn tu dưỡng đức nhân, cần có thầy, bạn). Ở nước nào thì tìm ông đại phu nào hiền mà thờ, tìm người nhân mà làm bạn.”

Chú thích

“Vi” 為có nghĩa giống như “trợ” (giúp đỡ, phụ giúp), giống như nghĩa của từ “vị” trong “Phu tử vị Vệ quân hồ?” 夫 子 為 衛 君乎? (Phu tử có trợ giúp vua nước Vệ không?) của bài thứ 14 trong chương 7 Thuật Nhi (Bài 7.14).

“Đại phu” là người đảm nhận công việc chính trị của một quốc gia nên đối tượng được chú trọng là tài đức (hiền).

“Sĩ” là người chưa tham gia vào chính trị nên đối tượng được chú trọng là đức (đức hạnh).

Giải thích

Người thợ không sử dụng thuần thục, khéo léo được các dụng cụ trong nghề nghiệp thì không thể hoàn thành sản phẩm như ý muốn. Trường hợp con người nếu không có thầy và bạn tài đức thì không thể thành tựu được đức. Lợi ích của việc hình thành tài năng và đức hạnh do rèn luyện mài dũa nhờ ảnh hưởng của thầy và bạn rất to lớn. Do đó, câu nói “Quân tử tại nhược nhân; Lỗ vô quân tử giả, tư yên thủ tư?” (Nếu nước Lỗ mà không có người quân tử thì trò ấy (Tử Tiện) làm sao có phẩm cách được như vậy.) (Bài thứ 2 chương 5 Công Dã Tràng) là nói ý này. Tăng Tử cũng nói “Dĩ hữu phụ nhân.” (Nhờ bạn để có được đức nhân). Tôi (Jinsai) nghĩ rằng ý nói (của bài này là) không thể thiếu sự giúp đỡ của các người bạn ưu tú.

Nhận xét

1) Trong Luận Ngữ Trưng, Ogyu Sorai cho rằng Jinsai theo Trình tử giải thích nghĩa của “vi” trong bài này là trợ (phụ giúp) là sai. Ý nghĩa “vi” là thực hiện giống như trong câu “Khắc kỷ phục lễ vi nhân” (Bài 12.1). Và “vi nhân” là thực hiện nhân chính (chính trị nhân đức, chính trị vì người). Người dịch cho rằng chủ trương của Sorai là hợp lý và sẽ giới thiệu nội dung giải thích của ông trong dịp khác. Bởi vì phu tử nêu thí dụ người thợ dùng đồ nghề khéo léo thuần thục để nói việc thực hiện nhân chính là hợp lý hơn để nói về tu dưỡng đức nhân.

Do đó ý của bài này như sau. Tử Cống hỏi Khổng tử làm thế nào để thực hiện nhân chính (chính trị vì người). Phu tử trả lời: theo phụ giúp quan chức có tài có đức và kết bạn với các bạn có tài đức.

 2) Thí dụ của Tử Tiện là một thí dụ điển hình để diễn tả ý của bài này nên giới thiệu ở đây.

Tử Tiện là tự của Mật Bất Tề là một trong 70 đệ tử của Khổng tử. Khi ông làm trưởng quan của ấp Đơn Phụ, thuộc tỉnh Sơn Đông của Trung Quốc ngày nay, Khổng tử bình phẩm “(Dùng Tử Tiện) Để làm chính trị một vùng đất nhỏ như vậy thật là uổng”. Theo thiên Sát Hiền của sách Lã Thị Xuân Thu, thiên Chánh Lý của sách Thuyết Uyển, sách Hàn Thi Ngoại Truyện thì khi Tử Tiện quản trị ấp Đơn Phụ, ông chỉ ngồi gảy đàn cổ đàm mà vùng này được quản trị an lành. Vu Mã Kỳ cũng từng quản trị ấp này nhưng đã phải thật vất vả nên mới hỏi ông lý do. Ông trả lời “Không nhờ vào tài sức của mình mà nhờ tài sức của người nên không phải khổ nhọc mà quản trị được.” Trong thiên Chánh Lý của sách Thuyết Uyển có kể số người mà Tử Tiện kính trọng và phụng sự như cha có 3 người, như anh có 5 người, và như bạn có 11 người.

Jinsai đã không giải thích ý nghĩa của bài đúng nhưng ông trích câu phu tử khen Tử Tiện (Bài 5.2) vô tình giúp hiểu cụ thể ý phu tử muốn nói trong bài này. Sorai còn giải thích thêm, bởi vì phu tử biết Tử Cống có tài nên có khuynh hướng ỷ vào tài sức của mình nên mới cảnh giác ông như trong bài này.

3) Thí dụ trên của chữ為 (vi hoặc vị) cho thấy hiểu đúng ý nghĩa của 1 chữ Hán rất quan trọng và khó, do đó chúng ta cần phải thận trọng. Cụ Nguyễn Hiến Lê dịch chữ “vi/vị” theo ý nghĩa tu thân giống như Jinsai.


Bài 15.32  Các điều cần luôn ghi nhớ của người lãnh đạo cấp cao là trí, nhân, trang (uy nghiêm) và lễ. Trong đó trí và nhân là căn bản.

Tử viết: “Trí cập chi, nhân bất năng thủ chi, tuy đắc chi, tất thất chi. Trí cập chi, nhân năng thủ chi, bất trang dĩ lỵ chi, tắc dân bất kính. Trí cập chi, nhân năng thủ chi, trang dĩ lỵ chi, động chi bất dĩ lễ, vị thiện dã.”

子 曰:知 及 之,仁 不 能 守 之,雖 得 之,必 失 之。知 及 之,仁 能 守 之,不 莊 以 涖 之,則 民 不 敬。知 及 之,仁 能 守 之,莊 以 涖 之,動 之 不 以 禮,未 善 也。

Dịch

Khổng tử nói: “Tài trí đủ để trị dân (có người hiểu là đủ để biết mọi lẽ) mà không biết dùng đức nhân để giữ dân, thì mất dân. Tài trí đủ để trị dân, biết dùng nhân nghĩa giữ dân, mà đối đãi với dân không trang nghiêm thì dân không kính. Tài trí đủ để trị dân, biết dùng nhân đức giữ dân, biết trang nghiêm đối đãi với dân, mà không biết dùng lễ cổ vũ dân theo thì chưa hoàn toàn tốt.”

Chú thích

1)      “Trí cập …thất chi”. Dù có biết sự khó khăn của việc làm vua mà không có đức để giữ địa vị này, chắc chắn sẽ mất. Theo giải thích của Khổng thị (tức Khổng Dĩnh Đạt) đời Đường (thật ra là Hình Bỉnh邢 昺, Jinsai nhớ sai) “Nhờ trí tuệ mà được địa vị nhưng để giữ được địa vị điều quan trọng là đức nhân”.

2)      “Trí cập…bất kính”. “Trang”là thái độ uy nghiêm, kính cẩn, ngay thẳng đàng hoàng (chính đính). “Lỵ” là đi tới (lâm 臨) (nhận chức vụ, địa vị). Bao thị (tức Bao Hàm) giải thích “Nếu vị vua không thực hiện chức vụ với thái độ uy nghiêm thì dân không kính trọng và không tuân theo cấp trên”.

3)      “Trí cập…thiện dã”. “Động chi” có nghĩa làm cho dân chúng hoạt động.

Giải thích

Bài này giảng giải nội dung mà người để đủ tư cách làm người quân tử  cần nên tâm đắc (ghi nhớ trong lòng). Trách nhiệm đòi hỏi ở người làm vua là sự hoàn thành các thứ trí, nhân, trang và lễ. “Một lời nói có thể làm cho nước nhà hưng thịnh, có vậy sao?” (Bài 15 chương 13 Tử Lộ) là nội dung tương ứng của “Trí cập chi” (Biết đến nơi điều này) trong bài này. “Bảo vật mà thánh nhân xem trọng nhất là vị (ngôi thiên tử). Cái mà giữ gìn được vị là đức nhân” (Hệ Từ Hạ Truyện, Kinh Dịch) là để chỉ ý nghĩa của “nhân năng thủ chi” ở đây. Một khi hiểu rõ 2 nội dung nói trên tức là đã có được tâm đắc nên có của người làm vua.

Tuy nhiên nếu không giữ mình có tiết độ thì dân sẽ khinh lờn không nghe theo mệnh lệnh. Do đó ở đây mới nói khi đảm nhiệm chức vụ mà không uy nghiêm kính cẩn thì dân không kính trọng

Lễ là để phân biệt rõ ràng sự trên dưới, cần phải được quy định thích hợp để ổn định chí hướng của dân. Do đó, khi bắt dân làm việc gì không theo lễ là thiếu sót.

Tôi (tức Jinsai) nghĩ rằng trí, nhân, trang, lễ cái nào cũng thể bỏ đi nhưng trí và nhân là căn bản của nội dung cần phải luôn luôn ghi nhớ trong lòng của người làm vua.


Bài 15.34 Con người cần đức nhân hoặc chính trị vì dân hơn cả nước và lửa. Khi cấp bách con người có thể xông vào nước lửa mà chết nhưng hiếm ai vì đức nhân hoặc chính trị vì dân mà hy sinh mạng sống!

Tử viết: “Dân chi ư nhân dã, thậm ư thủy hỏa. Thủy hỏa ngô kiến đạo nhi tử giả hỹ, vị kiến đạo nhân nhi tử giả dã.”

子 曰:民 之 於 仁 也,甚 於 水 火。水 火,吾 見 蹈 而 死 者 矣,未 見 蹈 仁 而 死 者 也

Dịch

Khổng tử nói: “Nhân dân đối với đạo nhân, coi đạo nhân cần thiết hơn nước lửa. Mà (nước lửa còn có khi nguy hiểm) đã có người sa xuống nước, dẫm vào lửa mà chết, (chứ đạo nhân tuyệt nhiên không nguy hiểm), chưa thấy ai theo đạo nhân mà chết.”

Chú thích

1) “Tử viết: “Dân chi … nhi tử giả dã.”“Đạo” 蹈 là dùng chân đạp lên. “Dẫm đạp lên nước lửa mà chết” có nghĩa là chết trong lửa, trong nước. Trong sách Khổng Tử Gia Ngôn có câu “Người có lòng trung tín có thể dẫm đạp vào nước và lửa để xông vào nguy hiểm”. Lỗ Trọng Đạt (người tài đức của nước Tề thời Chiến Quốc) nói “Nếu như nước Tần không màng đến lễ nghĩa để thống nhất thiên hạ thì tôi sẽ nhảy vào biển Đông để chết” (tiết Triệu Tam, sách Chiến Quốc Sách) là nói trường hợp này. “Đạo nhân nhi tử” nghĩa là “lấy cái chết để cho thấy đạo mà bản thân mình tin tưởng để sống theo là đúng là tốt” (Bài 8.14 “Đốc tín hiếu học, thủ tử thiện đạo.”). Hành vi của Tỷ Can (chú ruột của vua Trụ và bị vua Trụ giết chết), Trình Anh, Xử Cữu (2 nhân vật nước Tấn vào thời Xuân Thu) là trường hợp tiêu biểu cho lời nói này.

Đại ý của bài này như sau. Nước (lũ lụt) và lửa (cháy nhà, cháy rừng…) là vật đáng sợ của con người. Tuy nhiên khi cần cấp bách, con người cũng có thể xông vào dù chết. Còn đối với đức nhân, đức nhân là đạo đức căn bản để làm con người đúng nghĩa là con người, không thể xa rời trong giây lát. Tuy nhiên, không biết vì lý do cụ thể gì mà con người lại e sợ, và không muốn đến gần với đức nhân. Tình trạng này còn mạnh và rõ ràng hơn đối với nước và lửa, do đó phu tử than thở: không nên để xảy ra việc như thế.

Giải thích

Đại ý bài này này thánh nhân (tức Khổng tử) than thở con người lúc nào cũng có thể thực hành được những việc khó khăn nhưng đối với đức nhân thì ngược lại, không những e dè tránh né mà còn không chịu dứt khoát thực hiện. Một khi trong lòng cảm thấy phấn khởi muốn làm và xả thân thực hiện thì sẽ không thấy khó làm. Trường hợp bình tâm suy nghĩ để rồi sau khi tự bản thân đồng ý rồi mới xả thân để hoàn thành đức nhân, lúc đó nếu không có lòng yêu thương chân thật xuất phát mạnh mẽ trong lòng thì không thể nào thực hiện được. Do đó mà phu tử nói “vị kiến đạo nhân nhi tử giả dã” (ta chưa từng thấy người xong vào đức nhân để chết, nghĩa là liều chết vì đức nhân.)

Nhận xét

(1)   Trong Luận Ngữ Tập Chú, đại ý chú giải bài này của Chu Hy như sau. Lửa và nước là vật mà dân chúng một ngày cũng không thể thiếu. Tuy nhiên lửa và nước là vật ngoài thân trong khi đức nhân là thứ tồn tại bên trong con người. Nếu không có lửa và nước thì chỉ tổn hại cơ thể trong khi không có đức nhân là con mất đi tấm lòng, tinh thần vốn có. Do đó đức nhân quan trọng hơn lửa và nước, đức nhân là thứ mà con người không thể thiếu dù trong 1 ngày. Lửa và nước có khi gây tổn hại cho con người nhưng đức nhân thì không hề giết người. Ông lại trích dẫn lời Quý Úc季郁 cho rằng ý của Khổng tử trong bài này là để khuyến khích người đời thực hiện đức nhân.

Đọc các chú giải bài này của Jinsai và Sorai chúng ta có thể thấy được rõ ràng khuyết điểm của Chu tử học hay Tống Nho!

(2)   Trong Luận Ngữ Trưng, Ogyu Sorai cho rằng Jinsai dùng cách giải thích của Vương Bật (226~249, học giả và chính trị gia nước Ngụy đời Tam Quốc) “mọi người sợ đức nhân hơn nước và lửa” là không đúng, giải thích của Mã Dung trong Luận Ngữ Tập Giải mới đúng: “Người dân tôn kính đức nhân hơn nước và lửa, và đức nhân cần thiết không thể thiếu hơn”. Ngoài ra, Sorai còn phê bình rằng Chu Hy nói “nhân” trong bài này là điều phải có của người học đạo là không đúng, “nhân” ở đây là chỉ “nhân chính”.

Người dịch cho rằng giải thích “nhân” trong bài này là “nhân chính”, “chính trị vì dân” của Sorai là chí lý. Trong trường hợp này, phải chăng nên hiểu “chưa từng thấy” của phu tử là “hiếm thấy” chăng, bởi vì không ít người đã liều chết vì “nhân chính”. Tuy nhiên nếu nghĩ ý của phu tử nói “người” là các vị vua thì đúng là chưa hề có vị vua nào chết vì thực hiện “chính trị vì dân”.


Bài 15.35 Đối với việc làm của đức nhân thì dù là thầy mình cũng không nhường.

Tử viết: “Đương nhân, bất nhượng ư sư.”

   子 曰:當 仁 不 讓 於 師

Dịch

Khổng tử nói: “Làm điều nhân thì dẫu thầy mình, mình cũng không nhường.”

Giải thích

Đại ý bài này là đối với đức nhân, chúng ta cần phải nỗ lực thực hiện. Đạo là nhờ thầy thực hiện mà chúng ta mới biết được, do đó đối với mọi việc cần phải nhường thầy. Tuy nhiên, tôi (Jinsai) nghĩ rằng trường hợp đối với đức nhân không cần phải nhường thầy bởi vì đức nhân là căn bản của đạo làm người, và thầy là người dạy cho chúng ta biết đạo làm người đó. Nếu như một người nào thực hiện được như bài này nói, thì có thể nói người đó thành tựu được đạo làm người và đã tiếp thu đầy đủ nội dung thầy đã dạy.

Nhận xét

(1) Giải thích của Jinsai không cụ thể, không hiểu cụ thể được!

(2)   Ogyu Sorai có nhận xét như sau. Chu Hy trích dẫn lời của Tăng tử trong Bài 8.8 “Nhân dĩ vi kỷ nhiệm” (lấy việc thực hiện đức nhân làm nhiệm vụ của mình) để giải thích ý của bài này là đúng (Bởi vì là nhiệm vụ của mình nên không thể nhường để thầy làm). Nhưng trích dẫn lời của Trình tử “Vi nhân tại kỷ, vô sở dự tốn” (Nếu là thực hiện đức nhân có ở mình thì không có chỗ để nhượng) để giải thích thì không đúng, bởi vì tại sao chỉ hạn chế việc không nhượng ở đức nhân mà thôi. Giải thích của Khổng An Quốc “Bởi vì việc thực hiện đức nhân là cấp bách nên không thể nhượng” là hợp lý. Cuối cùng Sorai cho rằng “Đức nhân là việc cứu dân được an vui nên nếu có cơ hội làm thì không nên nhường”.

Cách giải thích sau của cụ Phan Bội Châu trong Khổng Học Đăng tương tự với Chu Hy và Sorai: “Đụng việc nhân thời ai nấy cũng có thể làm được, ai nấy cũng nên đảm nhận lấy việc đó, không thể nhường cho ai, dầu đến bậc người mình tôn trọng như thầy, nhưng đến lúc gánh lấy việc nhân thời dầu thầy mình đó, cũng không dám nhường cho thầy mà không làm.”

(3)   Người dịch tự hỏi tại sao không có giải thích như sau: Nếu là việc thực hiện đức nhân thì dù ý kiến của thầy có khác với mình thì cũng không thể nhường thầy? Các học giả đều đặt trên tiền đề “thầy là người gương mẫu trong việc thực hiện đức nhân” chăng?


Nguyễn Sơn Hùng. Tu bổ ngày 27/12/2024. Tu bổ lần thứ hai ngày 9/5/2025

Đã Đăng Trên DIỂN ĐÀN KHAI PHÓNG t.5/2025


 
                                   Mời Xem :

TÌM HIỂU Ý NGHĨA ĐỨC NHÂN TRONG LUẬN NGỮ CỔ NGHĨA CỦA ITÔ JINSAI (Bài 9)


Xem thêm cùng tác giả: Những bài viết và dịch của Nguyễn Sơn Hùng

Tài liệu tham khảo

1)    Kaitsuka Shigeki (1983): Itô Jinsai, Danh Tác của Nhật Bản 13, Chuokouronsha

2)    Itô Jinsai: Luận Ngữ Cổ Nghĩa (nguyên văn)

3)    Ogyu Sorai: Luận Ngữ Trưng, Ogawa Tamaki dịch chú (1994), Heibonsha.

    4)    Chu Hy: Luận Ngữ Tập Chú, Tsuchida Kenjirô dịch chú (2015), Heibonsha.









                     



    Không có nhận xét nào: