Thứ Bảy, 31 tháng 5, 2025

TÌM HIỂU Ý NGHĨA ĐỨC NHÂN TRONG LUẬN NGỮ CỔ NGHĨA CỦA ITÔ JINSAI (Bài 11) (Nguyễn Sơn Hùng dịch)

 

TÌM HIỂU Ý NGHĨA ĐỨC NHÂN TRONG LUẬN NGỮ CỔ NGHĨA CỦA ITÔ JINSAI (Bài 11)

                                              Nguyễn Hiến Lê:Nhà văn,Dịch giả 1912-1984


Đức nhân trong chương 17 Dương Hóa
Tác giả: Nguyễn Sơn Hùng

Phàm lệ

  • Dịch là của Nguyễn Hiến Lê.
  • Chú thích và Bàn thêm là của Jinsai.
  • Các hạng mục khác là của người dịch.

CHƯƠNG 17 DƯƠNG HÓA

Bài 17.1 Đối với bậc thánh nhân dù không thích đối tượng cũng vẫn ứng xử theo đúng lễ nghĩa.

Dương Hóa dục kiến Khổng tử, Khổng tử bất kiến; qui Khổng tử đồn. Khổng tử thời kỳ vô dã nhi vãng bái chi. Ngộ chư đồ. Vị Khổng tử viết: “Lai, dự dữ nhĩ ngôn”. Viết: “Hoài kỳ bảo nhi mê kì bang, khả vị nhân hồ?” Viết: “Bất khả. Hiếu tòng sự nhi cức thất thì, khả vị trí hồ?” Viết: “Bất khả. Nhật nguyệt thệ hỹ, tuế bất ngã dự”. Khổng tử viết:“Nặc. Ngô tướng sĩ hỹ.”

陽貨欲見孔子,孔子不見,歸孔子豚。孔子時其亡也,而往拜之,遇諸塗。謂孔子曰:來,予與爾言。曰:懷其寶而迷其邦,可謂仁乎?曰:不可。好從事而亟失時,可謂知乎?曰:不可。日月逝矣,歲不我與!孔子曰:諾,吾將仕矣。

Dịch

Dương Hoá muốn gặp Khổng tử, nhưng Khổng tử không đến thăm y, nên y biếu Khổng tử một con heo sữa (luộc chín). Khổng tử rình lúc Dương Hoá đi vắng, lại nhà y tạ ơn. Không ngờ trên đường về gặp y. Y gọi Khổng tử: “Lại đây, tôi muốn nói chuyện với ông”. Rồi nói: “Giấu tài đức quý báu mà không cứu nước đang mê loạn, có thể gọi là người nhân được không?” (Khổng tử làm thinh). Dương Hoá nói tiếp: “Không gọi là nhânđược. Muốn ra làm quan mà nhiều lần bỏ lỡ cơ hội, có thể gọi là trí được không?” (Khổng tử lại làm thinh). Dương Hoá lại nói tiếp: “Không gọi là trí được. Ngày tháng trôi qua, tuổi chẳng đợi ta”. Khổng tử nói: “Vâng. Tôi sẽ ra làm quan.”

Chú thích

  1. “Dương Hóa dục… Khổng tử đồn.” Dương Hóa là gia thần của Quý thị, tên là Hổ. Dương Hóa giam chủ nhân là Quý Hoàn Tử vào chỗ kín không cho ra ngoài để thực hiện chính trị nước Lỗ theo ý riêng. Người nước Lỗ kính phục Khổng tử từ trước. Dương Hóa gọi Khổng tử đến với mục đích để Khổng tử đến chào hỏi, với ý định nâng cao trọng lượng bản thân với người đời. Tuy nhiên Khổng tử không đến. Theo quy định của lễ, khi đại phu tặng đồ vật cho người sĩ, nếu như người sĩ không có thể bái nhận lễ vật ở tại nhà mình thì phải đến nhà của đại phu để tạ lễ ở ngoài cổng.

Do đó, Dương Hóa cố ý chờ dịp Khổng tử vắng nhà, gửi heo đến tặng với mục đích để phu tử đến chào hỏi mình.

  • “Khổng tử thời kỳ… vãng bái chi.”Khổng tử không muốn gặp Dương Hóa nên chờ lúc Dương Hóa không ở nhà để đến tạ lễ.
  • “Ngộ chư… khả vị nhân hồ?” Viết: “Bất khả.”“Đồ” là con đường đi. “Hoài kỳ bảo nhi mê kì bang”ý nói “giữ kính đạo đức trong lòng mà không cứu giúp quốc gia đang lúc loạn lạc”. “Nhân” là loại đức lan rộng, phổ biến khắp mọi nơi trong thiên hạ.
  • “Hiếu tòng sự nhi… khả vị trí hồ?” Viết: “Bất khả.”“Cức”là lập đi lập lại nhiều lần. “Thất thì” là bỏ lỡ dịp tốt để thực hiện sự việc.
  • “Nhật nguyệt… tướng sĩ hỹ.” Theo Chu thị (Chu Hy) ““Tướng” là tiếng dùng để chỉ trạng thái sắp thành như vậy ở thời điểm hiện tại nhưng chưa chắc chắn là như vậy”.

Giải thích

Bài này ghi lại việc “Trọng Ni (Khổng tử) không làm chuyện cực đoan”(Mạnh Tử viết: “Trọng Ni bất vi dĩ thậm giả.”, Bài 10 chương 8 Ly Lâu hạ, Mạnh Tử)để khuyên dạy người học nên ứng xử quyền biến (không nên cố chấp mà linh động) việc đời. Đạo vốn là thứ có thể thông dụng mọi nơi, bất cứ chỗ nào trên thế giới. Tuy nhiên nếu tất cả đều khó có thể thực hiện một cách cao thượng thì không thể gọi là đạo. Nói tổng quát, nếu là người có chí hướng thì gấp rút muốn thực hiện cho bằng được, nếu là người có khí lực thì hành động kịch liệt. Chỉ có bậc thánh nhân thì đạo của họ rộng lớn, đức của họ cao dày, nên đối với sự việc trong thiên hạ không có việc nào là thật tốt, không có việc nào là thật xấu một cách cực đoan, họ tự nhiên ứng xử quyền biến, không có việc gì mà họ ứng xử không thích nghi.

Bàn thêm

Trong cựu chú (Luận Ngữ Tập Chú của Chu Hy) viết “Việc Khổng tử không đi gặp (Dương Hóa) là nghĩa (đúng với đạo lý). Khổng tử đi chào đáp lại là đúng lễ. Việc chờ đối tượng vắng nhà để đi đáp lễ là cách ứng xử sau khi đã nắm rõ ý tưởng suy nghĩ của đối tượng. Gặp giữa đường mà không lẫn tránh là bởi vì không có ý định tuyệt giao. Trả lời nội dung đối tượng hỏi là do tính cách công bình vô tư của đạo lý. Trả lời nhưng không giải thích là do khiêm tốn chứ không phải nghẹn lời.” Tôi nghĩ rằng nội dung giải thích trên có lý. Tuy nhiên, đối với sự vĩ đại của đức thánh nhân (Khổng tử), việc lấy từng chữ, từng câu trong lời nói của họ mà nghị luận thì giống như căn cứ vào các tiêu chuẩn chi tiết nhỏ nhoi mà quan sát sự to lớn bao la của cả trời, lấy một nắm đất nhỏ mà muốn suy diễn ra cả mặt đất. Càng bới móc tìm kiếm chi tiết thì càng cách xa với chân ý!

Nhận xét”

  1. Nội dung tán thưởng thánh nhân trừu tượng trong Giải thích không cụ thể nên không có tính thuyết phục.
  2. Nếu chú giải của Chu Hy cho chữ “tướng” đúng thì cách dịch “Tôi sẽ ra làm quan.” của cụ Lê không nói lên được ý này.


Bài 17.5 Người có đức nhân là người thực hiện 5 điều: cung kính thận trọng, khoan dung độ lượng, được người tin cậy, cần mẫn siêng năng, giúp đỡ và thực hiện ơn huệ với người khác.(Phương pháp để có đức nhân: trả lời của Khổng tử đối với Tử Trương)

Tử Trương vấn nhân ư Khổng tử. Khổng tử viết: “Năng hành ngũ giả ư thiên hạ, vi nhân hĩ” – “Thỉnh vấn chi”. Viết: “Cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Cung tắc bất vũ, khoan tắc đắc chúng, tín tắc nhân nhiệm yên, mẫn tắc hữu công, huệ tắc túc dĩsử nhân.”

子張問仁於孔子。孔子曰:能行五者於天下,為仁矣。請問之。曰:恭,寬,信,敏,惠。恭則不侮,寬則得眾,信則人任焉,敏則有功,惠則足以使人。

Dịch

Tử Trương hỏi Khổng tử về đạo người. Khổng tử đáp: “Làm được năm đức trong thiên hạ thì gọi lànhân”. Tử Trương nói: “Xin thầy cho con biết năm đức ấy”. Khổng tử đáp: “Cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Cung kính thì không bị khinh nhờn, khoan hậu thì được lòng mọi người, thành tín thì được người tín nhiệm, cần mẫn thì thành công, từ huệ thì sử dụng được người.”

Ghi chú

Trong Luận Ngữ Cổ Nghĩa sắp bài 3 chung với bài 2, nên bài 12.5 này trong sách cụ Lê là bài 12.6, số các bài sau trong chương 17 này cách nhau 1 số.

Chú thích

  1. “Tử Trương vấn…mẫn, huệ.”“Thiên hạ” là từ ngữ để diễn tả sự rất rộng lớn bao la, ý nói không có nơi chốn nào mà không như vậy. Nếu như thực hiện 5 điều này tốt trong thiên hạ thì tác dụng của đức vàgiáo hóa sẽ lan rộng ra khắp mọi nơi và mọi sự vật sự việc trong xã hội đều có được vị trí thích hợp xứng đáng.
  2. “Cung tắc… sử nhân.”“Nhiệm” là được tin cậy, được nương tựa vào. Câu trước nêu ra 5 hạng mục, câu này giải thích hiệu quả của mỗi hạng mục.

Giải thích

Bài này phu tử (Khổng tử) chủ yếu nêu lên mục tiêu nỗ lực tu dưỡng đức để nói cho Tử Trương biết. Nếu như thực hiện tốt 5 điều này trong thiên hạ thì đối với người thân thuộc gần gũi hoặc người xa lạ ở xa, người có thân phận cao hoặc người có thân phận thấp, không ai là không tâm phục. “Vua của một nước nếu tin tưởng dùng các nhân vật có 5 đức tính này thì quốc gia sẽ an định và giàu có thịnh vượng và nhà vua cũng được tôn kính và giữ được địa vị. Các con em tuân theo lời khuyên dạy này thì hiếu đễ và trung tín.” (Bài 32 chương 13 Tận Tâm thượng, Mạnh Tử). Không có gì sánh bằng với đức nhân này. Lý do phu tử nêu ra 5 hạng mục này để dạy cho Tử Trương bởi vì phu tử thấy Tử Trương đã cố gắng nâng cao đức của bản thân. Các học giả dựa vào lời Tăng tử phê phán Tử Trương (Bài 15 chương 19 Tử Trương, Luận Ngữ)mà khinh thường Tử Trương, kiến giải này trái ngược với đạo lý. Sự việc này như thế gian thường nói, biết một mà không biết hai.

Nhận xét

  1. Đối với 5 hạng mục: cung, khoan, tín, mẫn huệ, người dịch nghĩ rằng đối với người thông thường ai cũng có thể làm được nếu chịu để tâm cố gắng tập luyện hàng ngày.

Bài 17.8Hiệu quả của việc học: tránh được phóng đãng, tránh bị tổn hại, tránh làm mất lòng người, tránh gây loạn động, tránh bản thân cuồng bạo. Tóm lại là nhắc nhở chúng ta cảnh giác nên giữ được cân bằng, hài hòa, và phán đoán, ứng xử đúng lúc, đúng chỗ đúng cương vị.

Tử viết: “Do dã, nhữ văn lục ngôn lục tế hỹ hồ?” Đối viết: “Vị dã” – “Cư, ngô ngữ nhữ. Hiếu nhân bất hiếu học, kỳ tế dã ngu. Hiếu trí bất hiếu học, kỳ tế dã đãng. Hiếu tín bất hiếu học, kỳ tế dã tặc. Hiếu trực bất hiếu học, kỳ tế dã giảo. Hiếu dũng bất hiếu học, kỳ tế dã loạn. Hiếu cương bất hiếu học, kỳ tế dã cuồng.”

子曰:由也,女聞六言六蔽矣乎?對曰:未也。居!吾語女:好仁不好學,其蔽也愚;好知不好學,其蔽也蕩;好信不好學,其蔽也賊;好直不好學,其蔽也絞;好勇不好學,其蔽也亂;好剛不好學,其蔽也狂。

Dịch

Khổng tử nói: “Này Do (Tử Lộ), anh có nghe nói đếnsáu đức và sáu điều che lấpkhông?” Tử Lộ đáp:“Thưa chưa” – “Ngồi đó, ta nói cho nghe. Ham đức nhân mà không ham học thì bị sự che lấp là ngu muội; ham đức trímà không ham học thì bị sự che lấp là sự phóng đãng; hamđức tínmà không ham học thì bị sự che lấp là bị tổn hại;ham ngay thẳngmà không ham học thì bị sự che lấp là gắt gao, mất lòng người;ham dũngmà không ham học thì bị sự che lấp là loạn động;ham cương cườngmà không ham học thì bị sự che lấp là sự cuồng bạo.”

Chú thích

  1. “Tử viết…“Vị dã””.“Tế” bị bao trùm che dấu, bản chất không phát huy được.
  2. ““Cư, ngô ngữnhữ.” Theo quy định của lễ, người quân tử trường hợp hỏi sự việc gì, nếu thay đổi đề tài thì phải đứng lên trả lời (thiên Khúc Lễ thượng, sách Lễ Ký). Do đó, Khổng tử bảo Tử Lộ ngồi xuống, sau đó mới dạy .
  3. “Hiếu nhân…dã ngu.” Người có đức nhân là người yêu thương người. Tuy nhiên, nếu không học để biết thế nào là đức nhân chân chính sẽ trở nên do dự không quyết đoán, giống như đức nhân của quý bà.
  4. “Hiếu trí… dã đãng.”“Đãng” là truy tìm cái cao xa không biết dừng. Tuy nhiên, nếu không học để biết phán đoán thì quan hệ với xã hội và sinh hoạt hàng ngày sẽ xa cách dần. Lời dạy của Phật giáo và Lão Trang thuộc loại này.
  5. “Hiếu tín… dã tặc.” “Tặc” là làm tổn thương người khác. Người có đức tín nghĩa là người kiên trì giữ lời hứa. Nếu không học để biết giữ lời hứa là thích đáng hay không thì sẽ làm tổn hại đạo và sẽ vấp ngã thất bại, giống như tín nghĩa của Vĩ Sinh尾生và Tuân Tức荀息(cả 2 đều là người thời đại Xuân Thu).
  6. “Hiếu trực… dã giảo.”Người có tính ngay thẳng không làm việc trái với đạo lý. Nếu như không học để bổ sung thì tinh thần cấp thiết không biết khoan dung giống như truyện người con khai ra việc cha mình trộm cắp dê của người khác (Bài 18 chương 13 Tử Lộ, Luận Ngữ)
  7. “Hiếu dũng… dã loạn.” Người hiếu dũng là người thích tiến tới. Nếu không học để biết phán đoán thì đi ngược với đạo lý và làm rối loạn luật pháp.
  8. “Hiếu cương… dã cuồng.” Người có ý chí mạnh mẽ thì tự mình không khuất phục. Nếu không học để biết kiềm chế bản thân thì dễ xung đột với người khác.


Giải thích

Bài này nói hiệu quả rất to lớn của của việc học. Tôi nghĩ rằng 6 hạng mục này đều là mỹ đức trong thiên hạ. Tuy nhiên, trong thực tế có người do bản tính bẩm sinh có được từ lúc chào đời, có người do sở thích nghiêng lệch của bản thân mà không thể có được đức chân chính (nghĩa là không có sự cân xứng giữa các đức tính). Có cố gắng học tập mới tu sửa được sự nghiêng lệch này, tu sửa các khuyết điểm mà hoàn thành vẹn toàn các đức tính đã có được. Trên đời không gì có hiệu quả tốt (íchlợi) bằng việc học.

Bàn thêm

Hiệu quả tốt (íchlợi) của việc học không có gì bằng. Giả sử nếu chúng ta chịu cố gắng học, việc học có thể giúp chúng ta tránh được những chỗ nghiêng lệch, chưa thật sự đúng của bản thân, khi gặp việc trọng đại trong đời sống tự nhiên không bị bối rối sai lầm. Nếu như khinh suất chỉ cậy vào trí tuệ của bản thân, thì dù có tìm kiếm đạo lý thâm sâu cao xa và tìm ra được sự thần bí trong thiên hạ thì cũng không có được đạo chân chính. Bởi vậy, kinh Dịch viết “Hãy ghi nhớ nhiều lời nói và việc làm (ngôn hành) của thánh hiền ngày xưa để tu dưỡng đức” (tượng văn của quẻ Đại Súc). Những người có tư tưởng Phật giáo hoặc Lão Trang không phải là không truy cứu các tư tưởng cao xa nhưng họ xa lánh xã hội đương thời, bỏ đi quan hệ con người. Do đó lý do thánh nhân trách họ, bởi vì họ cách rời đạo lý của vạn vật, bỏ đi tài năng biết phân biệt, từ bỏ việc nghe và thấy việc đời để có kiến thức. Bởi vậy Khổng môn lấy việc học để tu dưỡng đức làm trọng yếu.

Nhận xét

  • Bài này đánh thức chúng ta nhận thức tầm quan trọng của việc học. Tài sức và kiến thức của một con người có giới hạn, trong khi tình hình của xã hội đa dạng lại biến chuyển không ngừng. Do đó phán đoán đúng và ứng xử sự việc đúng lúc, đúng chỗ, đúng vị trí của bản thân cần phải học không ngừng suốt cả đời. Tuy nhiên, điều cần thiết không nên quên là phải nắm vững cơ sở, căn bản để phán đoán thích đáng, tham khảo ý kiến của người khác nhưng không bị cuốn trôi theo.

Một trong những vĩ đại của Khổng tử là người đầu tiên nêu ra tầm quan trọng của việc học trong lúc người đời xem ông là bậc thánh nhân!

Bài 17.20  Quan niệm để tang cha mẹ 3 năm của Khổng học.

Tể Ngã vấn tam niên chi tang: “Kỳ dĩ cửu hỹ! Quân tử tam niên bất vi lễ, lễ tất hoại, tam niên bất vi nhạc, nhạc tất băng. Cựu cốc ký một, tân cốc ký thăng, toản toại cải hỏa, kỳ khả dĩ hỹ”. Tử viết: “Thực phù đạo, y phù cẩm ư nhĩ an hồ?” Viết: “An!” – “Nhữ an tắc vi chi! Phù quân tử chi cư tang, thực chỉ bất cam, văn nhạc bất lạc, cư xử bất an, cố bất vi dã. Kim nhữ an, tắc vi chi”. Tể Ngã xuất. Tử viết: “Dư chi bất nhân dã. Tử sinh tam niên, nhiên hậu miễn ư phụ mẫu chi hoài.Phù tam niên chi tang, thiên hạ chi thông tang dã.Dư dã hữu tam niên chi ái ư kỳ phụ mẫu hồ?”

宰我問:三年之喪,期已久矣!君子三年不為禮,禮必壞;三年不為樂,樂必崩。舊榖既沒,新榖既升,鑽燧改火,期可已矣。子曰:食夫稻,衣夫錦,於女安乎?曰:安!女安,則為之!夫君子之居喪,食旨不甘,聞樂不樂,居處不安,故不為也。今女安,則為之!宰我出。子曰:予之不仁也!子生三年,然後免於父母之懷。夫三年之喪,天下之通喪也,予也,有三年之愛於其父母乎?

Ghi chú: Trong sách của cụ Lê là Bài 17.21

Dịch

Tể Ngã hỏi về phép để tang cha mẹ ba năm, bảo: “Một năm cũng đã lâu rồi. Người quân tử (để tang) ba năm không học tập lễ, lễ nghi tất phải đổ nát, ba năm không tấu nhạc, âm nhạc tất thất truyền. (Đủ một năm) lúa cũ đã ăn hết, lúa mới đã chín, cây dùi cây đe lấy lửa đã dùi hết một vòng (Mỗi mùa dùi một loại cây để lấy lửa, hết bốn mùa là hết một vòng), để tang một năm là được rồi”. Khổng Tử nói: (Chưa hết ba năm) mà ăn cơm gạo thơm, mặc áo gấm thì trò có yên lòng không?” Tể Ngã đáp: “Yên”. Khổng Tử nói: “Yên lòng thì cứ làm! Người quân tử cư tang, ăn đồ ngon không biết mùi, nghe nhạc không thấy vui, ở nhà của mình không thấy yên ổn (thời đó cất một nhà xấu ở gần mộ để cư tang), cho nên không làm như vậy (không ăn gạo ngon, mặc áo tốt…). Nếu trò thấy yên lòng, thì cứ làm!” Tể Ngã ra rồi, Khổng Tử nói: “Dư là đứa bất nhân? Đứa trẻ sinh ra, sau ba năm cha mẹ mới thôi bồng bế, (cho nên) để tang ba năm là lệ phổ biến trong thiên hạ. Dư nó được cha mẹ bồng bế ba năm hay không?” (Có sách dịch là: Dư nó có yêu thương cha mẹ được ba năm hay không?)

Chú thích

  1. “Tể Ngã vấn…cửu hỹ!”“Kỳ” là đầy 1 năm.
  2. “Quân tử…nhạc tất băng.” Tể Ngã trình bày lý do không thể để tang 3 năm.
  3. “Cựu cốc…khả dĩ hỹ.” Tể Ngã trình bày lý do để tang 1 năm là đủ. “Một” là hết sạch. “Toại” là cây để lấy/nhóm lửa. Thay đổi lửa là việc như sau. Theo sách Chu Lễ, quan Tư Quán司爟 phụ trách việc ra mệnh lệnh sử dụng lửa. Tùy theo mùa mà thay đổi lửa của quốc gia sử dụng để ngăn chặn các bệnh dịch xảy ra theo mùa. Theo chú thích, mùa xuân dùng cây du và  cây liễu, mùa hè dùng cây táo và cây hạnh, cuối hè dùng cây dâu nuôi tằm hoặc cây chá (dâu rừng), mùa thu dùng cây tạc (ngày xưa dùng làm lược chải tóc) và cây do (cây gỗ mềm dùng làm vành xe và lấy lửa), mùa đông dùng cây hòe và cây đàn (loại cây có hương thơm, có bạch đàn và hoàng đàn). Đọc lại nguyên văn rõ ràng là một năm “cải hỏa” (làm lửa mới) một lần chớ không phải thay đổi lửa từng mùa. Do đó, không nên chỉ căn cứ vào sách Chu Lễ mà giải thích ý nghĩa của bài này.
  4. “Tử viết… Viết: “An!””“Đạo” là (lúa) nếp (theo Hán Việt Tự Điển của Thiều Chửu là lúa gié), trong loại cốc là thứ ngon. Để tang cha mẹ, mặc áo tang sổ gấu trong 3 năm. Trong thời gian để tang, mỗi năm làm lễ Tiểu Tường, sau đó mới được ăn rau cải, trái cây, đội nón bằng lụa mộc và mặc áo có gấu màu đỏ nhạt tuy nhiên thắt lưng gai vẫn phải mặc. Sau khi hết tang 3 năm mới được ăn nếp và mặc y phục bằng gấm.
  5. ““Nhữ an tắc…tắc vi chi”.” Đây là lời của phu tử. “Chỉ”旨là ngon (mỹ vị). Theo Chu thị (Chu Hy),““Nhữ an tắc vi chi!” là lời để từ bỏ đối tượng (Tề Ngã) vào lúc ban đầu. Kế đến vì động lòng thương xót không nỡ bỏ nên phu tử mới chú ý việc Tề Ngã không chịu suy nghĩ kỹ càng, và cuối cùng lại nói “Kim nhữ an, tắc vi chi”để quở trách nặng nề.”
  6. “Tể Ngã xuất…kỳ phụ mẫu hồ?””“Hoài” là ẵm bồng. “Thông” là qua hết (trọn). Phu không muốn chỉ trích lỗi lầm của Tề Ngã trước mặt ông nên sau khi Tề Ngã đi ra ngoài, phu tử giải thích lý do người quân tử nhất định phải để tang 3 năm là để người khác nói lại cho Tề Ngã nghe mong rằng Tề Ngã có điểm giác ngộ hiểu rõ lý do cần phải để tang 3 năm.

Giải thích

Nội dung lời nói của Tề Ngã chắc chắn là lúc khi cha mẹ ông còn sống. Tôi nghĩ rằng trường hợp đối với người mất cha mẹ khi còn bé hoặc đối với người ngay cả cha mẹ còn sống thì không hiểu tâm tình của việc để tang nên nghi ngờ ý nghĩa của việc để tang 3 năm.

Một khi gặp việc bất hạnh lớn, cha mẹ qua đời thì chân tâm tự nhiên sẽ nổi lên, không để tang 3 năm thì tâm tình không yên được. Do đó trong bài 16 chương 19 Tăng tử nói “: “Ta nghe thầy ta nói: Người ta trong các việc khác chưa biểu lộ được hếttình cảm tự nhiên, chỉ trong việc tang cha mẹ là biểu lộ được hết thôi.”(“Ngô văn chư phu tử: Nhân vị hữu tự trí giả dã, tất dã thân tang hồ?”). Hơn nữa, nếu suy nghĩ đến lời của phu tử nói với Tề Ngã “Nếu trò thấy yên lòng, thì cứ làm!” thì chúng ta có thể hiểu cha mẹ của Tề Ngã lúc đó còn sống. Trong quan hệ đối với cha mẹ, chắc chắn có chỗ con cái phải nhờ vào cha mẹ mới trưởng thành được. Điều này đều đúng từ vua chúa cho đến thứ dân (người dân bình thường). Nếu như hiểu ý nghĩa của câu nói “Trẻ con chào đời sau 3 năm mới rời lòng cha mẹ” (thiên Tam Niên của sách Lễ Ký) thì có ai nghi ngờ việc để tang 3 năm. Phải chăng thánh nhân (các thánh thiên tử ngày xưa) định việc để tang cha mẹ 3 năm là bởi vì nghĩ rằng thời gian để tang 3 năm đủ để con cái để con cái đáp đền công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ. Lời của phu tử rất rõ ràng nói lên ý này. Các nhà nghiên cứu lễ cho rằng thánh nhân đặt ra chế độ để tang này là để có được trung dung. Tôi nghĩ rằng ý kiến này không phải là một suy đoán hợp lý.

Nhận xét

  • Chữ 女ngoài âm đọc “nữ” (phái nữ) còn âm đọc “nhữ” nghĩa “mày, trò…”. Âm đọc của chữ汝cũng là“nhữ” với nghĩa “mày, trò…”.
  • Tể Ngã là học trò của Khổng tử. Tên là Dư, tự là Tử Ngã, thường gọi là Tể Ngã, tính tình không bị ràng buộc bởi các quy định thông thường. Có tài ăn nói giỏi như Tử Cống. Các bài liên quan với ông là 3.21, 5.9, 6.24, 11.2, 17.21 (theo số bài trong sách cụ Lê).
  • Mặc dù nội dung quy định nội dung để tang cha mẹ của ngày xưa không hẳn là hợp lý nhưng cho chúng ta thấy người xưa rất trọng ân nghĩa. Thí dụ nhiều người con vì để tang cha mẹ không được dự thi hoặc kết hôn, những việc rất quan trọng trong cuộc đời của họ.
  • Nhận xét của Jinsai về trường hợp cha mẹ mất sớm hoặc lúc cha mẹ còn sống đúng bởi vì thông thường con người khi mất đi cha mẹ rồi mới biết sự quý báu, công ơn khổ nhọc nuôi dưỡng của cha mẹ.
  • Người dịch thiển nghĩ cách suy nghĩ của Tể Ngã và câu nói của Khổng tử “Nếu trò thấy yên lòng, thì cứ làm!”là hợp lý. Vấn đề là “biết và nhớ ơn cha mẹ” và sống sao cho cha mẹ vui lòng mãn nguyện chứ không phải giữ theo khuôn khổ cứng nhắc. Dĩ nhiên, lúc cha mẹ còn sống để cha mẹ phải sống cực khổ mà sau khi cha mẹ vừa qua đời bản thân mình lại sống sung sướng là không phải đạo làm người, là điều không cần phải nói.
  • Điều người dịch không hiểu là tại sao Khổng tử nói với Tể Ngã: “Nếu trò thấy yên lòng, thì cứ làm!” để rồi sau khi Tể Ngã đi ra ngoài, ông lại nói “Dư là đứa bất nhân”.Có lẽ từ “bất nhân” ở đây chỉ có nghĩa nhẹ nhàng là “không có lòng thương cha mẹ” chức không phải có nghĩa “không phải là con người”. Bởi vì là bậc thầy, lại là bậc thầy như phu tử, thì đối với điều không phải to lớn của học trò phải tìm cách giáo hóa đến cùng chứ không nên trách cứ sau lưng như trong các lời giải thích! Có thể do người ghi chép lại không chính xác chăng?

Nguyễn Sơn HùngTu sửa, bổ xung ngày 19/5/2025


Xem thêm cùng tác giảĐức Nhân trong Luận Ngữ Cổ Nghĩa của ITÔ JINSAI (Bài 10)

Tài liệu tham khảo

  1. Kaitsuka Shigeki (1983): Itô Jinsai, Danh Tác của Nhật Bản 13, Chuokouronsha
  2. Itô Jinsai: Luận Ngữ Cổ Nghĩa (nguyên văn)
  3. Ogyu Sorai: Luận Ngữ Trưng, Ogawa Tamaki dịch chú (1994), Heibonsha.
  4. Chu Hy: Luận Ngữ Tập Chú, Tsuchida Kenjirô dịch chú (2015), Heibonsha.

Không có nhận xét nào: