Chữ Nghĩa Làng Văn
Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
“Chữ nghĩa làng văn” đôi khi chỉ là một chữ, cụm từ, đoạn văn cô đọng, diễn nghĩa, diễn giải một áng thơ văn hoặc một thể tài nào đó. Những trích dẫn được góp nhặt qua sách vở, trên mạng lưới của nhiều tác giả thành danh hay khuyết danh, không ngoài góc nhìn tận tín thư bất như vô thư. Ấy là chưa kể nhiều từ ngữ, đề mục trong bộ sưu tập đang còn trong vòng nghi vấn, cần phải thẩm định lại nếu có thể được với những bậc thức giả văn kiến súc tích. Những phụ chú, dẫn chứng hay giai thoại do người viết kể lại, với chủ quan, khách quan chỉ cách nhau một sợi tóc. Vì vậy người sưu tầm không đặt ra “sai” hay “đúng”, vì cái sai hiện tại có thể là cái đúng ở một thời điểm nào khác. Xin chân thành cảm tạ và cáo lỗi những tác giả đã đóng góp bài vở trong sưu tập này, nhưng vì phương tiện eo hẹp nên người sưu tầm không thể thỉnh ý tác giả trước khi đăng tải – Ngộ Không Phi Ngọc Hùng.
***
Một số sai lầm khi dùng từ Hán-Việt
Tiếng Hán-Việt là một phần trong tiếng Việt lâu đời, vì vậy khi nói hay viết tiếng Việt, thỉnh thỏang chúng ta đều có dịp dùng từ Hán-Việt, do nhiều nguyên nhân khác nhau, vô tình có thể mắc phải một số sai lầm. Sai lầm vì dùng từ Hán và Nôm trùng hợp:
Không nói “tung hòanh ngang dọc” nên nói “tung hòanh” hoặc “ngang dọc”.
(Lưu Khôn)
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Ôi cuộc đời chua chát
Toàn là đất với cát
Nhất Linh và Văn Hóa Ngày Nay
Dịch giả Trương Bảo Sơn sau này góp bài viết trong cuốn “Nhất Linh, Người Nghệ Sĩ - Người Chiến Sĩ” do Thế Kỷ xuất bản năm 2004, đã nêu nhận xét:
“Tập Văn Hóa Ngày Nay bán chạy như tôm tươi mấy số đầu, đã bị ế đi. Nhà phát hành độc quyền của chính phủ đã thi hành độc kế không gửi đủ số báo cho các tiệm sách đã đặt mua. Chúng tôi khi buộc báo thành từng bó đã cố ý đánh dấu riêng, khi nhận báo từ nhà phát hành trả về, thấy những dấu ấy vẫn còn y nguyên, tức là nhà phát hành đã không làm đúng nhiệm vụ, đã giữ báo của chúng tôi trong kho, không phân phối đi. Có những tiệm sách đến điều đình mua thẳng báo với chúng tôi để có đủ báo bán, nhưng chúng tôi phải từ chối vì sợ chính quyền gài bẫy. Ðã nghèo lại bị thua lỗ, chúng tôi đành đình bản tờ Văn Hóa Ngày Nay.”
Có thể đấy lý do chính mà tờ Văn Hóa Ngày Nay bị đình bản, nhưng cũng chưa hẳn đó là lý do duy nhất. Dù tờ báo có bị chính quyền cấm cản bằng những thủ đoạn nào thì cũng không thể bỏ qua yếu tố độc giả, là những người cũng đã ít nhiều trực tiếp tham dự vào sự sống còn của một tờ báo. Sau vài số báo, có chăng sự kiện độc giả không còn hứng thú theo dõi VHNN như trước nữa nên báo ế và nhà phát hành có thể đã kìm hãm những cọc báo không gửi đi các tỉnh cho đỡ tiền cước phí?
Dẫu sao thì sự sút giảm độc giả hẳn cũng làm nản lòng người chủ trương VHNN. Cũng trong bài “Người Bác” nói trên, nhà văn Thế Uyên còn cho biết: “Sau khi Văn Hoá Ngày Nay số 8 phát hành, Nhất Linh tuyên bố với người thân: “Thôi, không làm nữa!”. Bạn bè xúm lại can. Nể người thân, ông chịu để Tường Hùng và Duy Lam tiếp tục. Ra tiếp hai số, ông cương quyết kết liễu Văn Hoá Ngày Nay. “Nó đã làm xong nhiệm vụ!”.
(Nhật Tiến)
Từ điển chính tả sai lỗi… chính tả
“soản: soản đoạt// → không viết: xoản, soẵn, soàng”.
Viết đúng là “soán đoạt”, vì “soán” là chiếm, cướp:
Hán ngữ đại từ điển: “soán: dùng sức mạnh cướp lấy”.
(Hòang Tuấn Công)
Tchya Đái Đức Tuấn
Sông Hương kia nước chảy lờ đờ, ví có nổi được lên sóng gió, họa chăng mới ngớt tiếng ngâm thơ. Rời Huế vào Sài gòn, dưới chế độ Cộng Hòa, anh nghiễm nhiên trở thành quân nhân thực thụ rồi sau đó về hưu, lãnh hưu bổng và ngụ trong căn nhà khu cựu chiến binh. Người biết nhiều về quãng đời này là bạn Đàm Quang Thiện, thì Đàm quân cho TchyA là "một mâu thuẫn lạ đời do hậu quả của một xã hội bị Pháp chèn ép hay của sự giao du với những người không căn bản làm cho lung lay tận gốc?"
Tôi cho rằng TchyA đã chọn cách sống như một nghệ sĩ theo kiểu Tây phương: sống theo sở thích, sống cho nội tâm mình, không cần biết chung quanh ưa hay không. Thành thử đôi khi anh tỏ ra khinh bạc. Như hồi anh lên núi tu, được tin thân mẫu mệt nặng, anh viết thư cho người bạn thân nhờ gửi 1,000 đồng vào Thanh cho bà cụ uống thuốc, bạn nhân mới thâu được 1,500 đồng, tiền gửi ngay cả số. Sau đó, anh tới gặp bạn, cười nói:
- Mày giàu nên mới khổ vì tiền như thế, chứ nghèo thì tao phiền làm gì?...
Chắc các bạn cũng đồng ý với tôi rằng TchyA muốn đem cái đẹp riêng của mình vào đời sống nhiều hơn là vào tác phẩm. Cái đẹp ấy, tôi hiểu là cách phát huy bản sắc của mình bằng những cử chỉ khác đời, thoát sáo, những cử chỉ không ngại là khinh thế ngạo vật, theo một chiều khoáng đạt, rộng rãi hơn cái nếp luân lý thông thường của xã hội.
Đêm trừ tịch, gần lúc cúng giao thừa đón năm Mậu thân, anh lại nhà bạn Võ Khắc Tân tự Trác Ngọc viết bài thơ tặng:TchyA:
Cũng sáu mươi à? bác Tẩy xia (TchyA)
Văn chương tưởng đã tống ra rìa
Nước non khoái mãi thi cùng phú
Thời thế phai dần tóc với ria
Hồ hải đòi phen vào lộn bến
Tang bồng mấy độ bắn lầm bia
Thế rồi cũng sống mà vui thú
Để chuốc quỳnh tương rượu uống thìa
(Lãng Nhân Phùng Tất Đắc - Nhớ Nơi Kỳ Ngộ)
Tchya Đái Đức Tuấn quê ở làng Ngọc Giáp, tỉnh Thanh Hoá. Xuất thân trong một gia đình quan lại, sau khi tốt nghiệp tú tài toàn phần, ông làm tham tá ở Nha Học Chánh Đông Dương từ năm 1930. Đái Đức Tuấn bắt đầu viết báo, viết văn từ 1935 cho các tờ Đông Tây, Nhật Tân, Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Năm 1940 ông xin nghỉ việc và sang cư ngụ tại Côn Minh, Trung Hoa.
Năm 1945 ông trở lại Việt Nam tiếp tục làm báo. Năm 1950 ông dạy học ở trường Quốc Học Huế. Ông mất ngày 8-8-1969 tại Sài Gòn.
Tác phẩm: 1937 - Thần Hổ, 1940 - Kho Vàng Sầm Sơn, v…v…
Tướng mạo con người qua ca dao, dân ca
Miệng rộng, môi mỏng, liếc ngang
Con gái như thế chẳng màng làm chi
Tướng mặt
Khuôn mặt chữ Phong (風) :
Đây là khuôn mặt có hình dáng như chữ Điền nhưng không cân đối như chữ Điền, hai mang tai tóp lại làm khuôn mặt có dạng số 8. Người có khuôn mặt trên, trung niên trắc trở, mới đầu khá, sau suy sụp dần. Cả cuộc đời bình thường, không thể giàu sang.
Đàn bà có tướng như trên dễ lưu lạc phong sương, khá về chồng thì hỏng về con, được con thì lại hỏng chồng.
Tướng mạo con người qua ca dao, dân ca
Lờ đờ như người say rượu
Mắt đỏ hoe, phải liệu mà chơi
Từ điển chính tả sai lỗi… chính tả
“trí: đắc trí. → không viết: chí”. (Gs Nguyễn Văn Khang)
Viết “chí” mới đúng. Vì “chí” 志 ở đây là chí nguyện, chí hướng:
Hán ngữ đại từ điển: “đắc chí: 1. nói lên nguyện vọng; 2. chỉ khát vọng được thoả mãn.
(Hòang Tuấn Công)
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Má ơi đừng gả con xa
Gả con qua Úc, Canada được rồi
Gặp gỡ người làm văn học miền Nam
Bộ sách của ông Nguyễn Q. Thắng đã khiến người đọc nhận thấy sự hiện diện quẩn quanh của một chỉ thị nào đó của bộ chính trị! Cách nhìn của mấy cây viết “phải đạo” như Vũ Hạnh, Lữ Phương, và nay Nguyễn Q. Thắng đã là một cái nhìn mang tính xã hội, chính trị của một quan niệm macho toàn trị.
Gần 10 năm trước, chúng tôi đã có dịp viết về đề tài Tính dục và nữ quyền này:
“Phải đến Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trùng Dương văn chương mới trở thành phương tiện cho nữ quyền và quyền sống. Thật vậy, từ cuối thập niên 1960, người viết nữ đã mạnh bạo đi xa hơn, tự tin hơn và những vấn đề phụ nữ được chính thức trương lên chữ nghĩa. Cái Tôi, nhân vật chính, nội dung, tình cảm, tình yêu, tình dục,… không còn là của riêng những nhà văn thơ phái nam (…) Văn chương dục tính hay có dâm tính lại do người nữ viết hình như hấp dẫn hơn vì có tính tự thuật nhiều hơn. Vì từ nay, người nữ làm chủ con người, tư duy, tình cảm và cuộc đời của họ trong văn chương.
Một quan niệm khác Nguyễn Q. Thắng hay nói đến và gán cho vài nhà văn, là sadisme. Theo các từ-điển thì sadisme có nghĩa là “thói loạn dâm gây đau” trong y học một cách tổng quát chỉ những trò, những lối sống, và cả bút pháp “chủ khoái lạc bạo tàn”.
Bút pháp của nhà văn Duy Lam mà Nguyễn Q. Thắng gọi là “nhà văn của dòng họ” đã được ông gọi là “bút pháp nặng tính sadique của văn chương hiện đại Tây Phương” (tr. 256). Em ông, nhà văn Thế Uyên được xem là “một nhà văn thuộc trường phái sadique như ông tự nhận “có lẽ tôi hơi sadique” (tr. 325). Khuynh hướng này nhà thơ Nguyên Sa ở miền Nam đã là người đầu tiên sử dụng. Sadisme là một ý niệm, một style, nếu áp dụng vào lãnh vực văn chương thì cũng chẳng có gì tai hại cần phải nhấn mạnh.
(Văn học miền Nam qua “Văn học sử” – Nguyễn Vy Khanh)
Gặp gỡ người làm văn học miền Bắc - 1
T.K.: Nếu đặt Văn học miền Nam vào mạch chung của thế kỷ XX, anh thấy nền văn học này đã giữ địa vị nào và đã làm được gì cho nền văn học dân tộc của chúng ta nói chung?
V.T.N.: Thế kỷ XX là một bước chuyển của Văn học VN. Trước đó chúng ta có nền văn học theo mô hình Trung Hoa, ở đó có hai bộ phận chính, một gần với dân gian, một nữa là văn học chức năng, văn dĩ tải đạo. Sang thế kỷ XX, văn học chúng ta hiện đại hóa tức là vận động theo mô hình văn hóa phương Tây, đến năm 1945 đã tương đối hoàn chỉnh. Sau năm 45, có hai mảng văn học như tôi nói ở trên tức là Văn học miền Bắc và Văn học miền Nam.
Văn học miền Bắc đi theo luật riêng, một mặt, nó tiếp theo văn học tiền chiến, và một mặt – mà là mặt chủ yếu thì muốn làm công việc khai phá mới, đi lại từ đầu, tức là đi từ văn học dân gian lên và phủ nhận những kinh nghiệm của thời tiền chiến. Đặt trong cái mạch chung thì đến đây, bên cạnh phần nối tiếp, có sự đứt gẫy. Xét về mối quan hệ với văn học nước ngoài, Văn học miền Bắc trước 75 đứng tách ra, gần như cô lập, chỉ nối tiếp một phần với Trung Hoa và Nga.
Ngược lại, Văn học miền Nam, rõ nhất là thời kỳ 54-75, một cách tự phát vẫn đặt mình trong cái mạch chung. Chúng ta bắt gặp ở đây những bước đi thường thấy ở các nền văn học là sử dụng các quan niệm các phương thức của văn hóa phương Tây để diễn tả đời sống con người hiện đại.
(Nói chuyện với nhà phê bình Vương Trí Nhàn – Thụy Khuê)
Từ điển chính tả sai lỗi… chính tả
“sán: sán lạn, sán lợn. → không viết: xán”. (Nguyễn Văn Khang)
Viết “xán” trong “xán lạn” 燦 爛 mới đúng (chữ ghép): “xán” 燦 có nghĩa là rực rỡ, chói lọi; mà “lạn” 爛 cũng có nghĩa là tươi sáng, rực rỡ. Còn “sán” với tự hình 疝 lại chỉ nhóm giun kí sinh thân dẹt ở người, động vật.
(Hòang Tuấn Công)
Gặp gỡ người làm văn học miền Bắc - 2
T.K.: Nếu cần tìm về bản chất Văn học miền Nam, theo anh, những giá trị nào là cơ bản của nền văn học này?
V.T.N.: Ở đây có hai giá trị cơ bản của văn học, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Tôi hiểu giá trị hiện thực với nghĩa đọc Văn học miền Nam trước 75, tôi hiểu con người Việt Nam trong chiến tranh. Ở thành thị, đời sống hứng chịu bao nhiêu đảo lộn; còn nông thôn thì nay thuộc phe này, mai phe kia, con người bị bom đạn xua đẩy đi khắp mọi nơi... Đấy là những nét chủ yếu làm nên bức tranh hiện thực.
Có lần tôi đọc một cuốn sách không thuộc loại nổi tiếng lắm của Túy Hồng, cuốn Bướm khuya, hay là cuốn Đoàn lữ binh mùa thu của Nhã Ca chẳng hạn, thì thấy những cuốn như thế - qua cách cảm thụ và diễn tả của các nhà văn nữ vẫn có cái chỗ khả thủ của nó. Nó cho thấy một thứ hiện thực mà trước đây chưa từng có. Bức tranh hiện thực diễn tả ở đây không phải là cái hiện thực mà chúng tôi, dân nghiên cứu ở Hà Nội quen nghĩ, tức là ở đó phải có giai cấp, phải có địa chủ, tư bản, nông dân đấu tranh với nhau. Cái quan niệm hiện thực đó nó cổ rồi, nó khô cứng lắm rồi - theo sự hướng dẫn của nó mà đọc văn học miền Nam thì sẽ thất vọng. Hiện thực tôi nói ở đây là không khí đời sống nói chung, một thực tế ngột ngạt, đau đớn, có lúc như ma quái, người ta không thể nắm được, nó nằm ngoài tầm tay người ta, buộc người ta phải chấp nhận. Cái không khí đời sống như thế, tôi thấy rất nhiều trong các tác phẩm của các nhà văn miền Nam. Và như vậy là thực trạng xã hội đã được bộc lộ, được ghi nhận.
Hẳn có một số bạn sẽ thắc mắc tại sao tôi lại nói có thể tìm trong văn học miền Nam tinh thần nhân đạo. Bởi họ -- trong đó có tôi trước đây quan niệm một nền văn học nhân đạo nhất thiết phải làm nổi phần tốt đẹp trong con người rồi thương yêu con người, ca ngợi con người. Lúc này đây tôi nghĩ điều đó đúng nhưng không đủ, và không phù hợp với tinh thần hiện đại. Trong chủ nghĩa nhân đạo thời nay, người ta để ngỏ mọi khả năng mọi cách nghĩ về con người. Mà trước tiên là thông cảm, thấy tất cả những sự phức tạp, cái ghê gớm, cái đa đoan rắc rối của con người, nói chung là chia sẻ với con người trong trạng thái nhân thế nhiều khi kỳ cục của nó và gợi ý để mọi người cùng suy nghĩ tiếp về kiếp nhân sinh. Một quan niệm như thế giúp ta tìm thấy ở Văn học miền Nam những khía cạnh thú vị.
(Nói chuyện với nhà phê bình Vương Trí Nhàn – Thụy Khuê)
“Thơ con cóc”: Một bài thơ hay
Về phương diện giá trị điển hình, hình tượng con cóc không hề thua kém hình tượng Sở Khanh, Xuân Tóc Đỏ, hay Thị Nở. Về phương diện sức sống, nó cũng đã vượt qua bao nhiêu thử thách, từ đời này qua đời khác, cứ tồn tại hoài. Không ngoa chút nào nếu gọi ‘Thơ con cóc’ theo cách nói quen thuộc đã thành sáo ngữ của chúng ta là bài thơ ‘vượt thời gian’. Nhà văn Nhất Linh, trong quyển Viết và đọc tiểu thuyết, đã coi tính chất ‘vượt thời gian’ là cơ sở chắc chắn nhất để xác định một tác phẩm lớn.
Bài ‘Thơ con cóc’ ra đời đã lâu, lâu lắm, được Trương Vĩnh Ký sưu tập, in trong quyển Chuyện đời xưa xuất bản năm 1866.
Tôi đoán, sẽ có người biện bạch, cho hiện tượng ‘vượt thời gian’ của bài ‘Thơ con cóc’ xuất phát từ những nguyên nhân khác, không phải là giá trị nghệ thuật của nó, chẳng hạn, vì nó ngắn nên dễ nhớ, vì nó dở đến cực độ của cái dở hoặc vì nó gắn liền với một câu chuyện tiếu lâm nổi tiếng. [3] Đồng ý ngắn thì dễ nhớ nhưng không phải cứ hễ ngắn là được người ta nhớ. Có khối bài thơ ngắn hơn hoặc bằng bài ‘Thơ con cóc’. Thơ 14 chữ của Thi Vũ hoặc thơ mini của Trần Dần, chẳng hạn. Còn cái dở thì hiếm gì, đầy dẫy, có bài nào được nhớ đâu?
Trong ngôn ngữ xưa nay, chúng ta thường nói: làm thơ hay như Đỗ Phủ, phóng túng như Lý Bạch, giản dị như Bạch Cư Dị, đẽo gọt kỳ khu như Giả Đảo, nhưng không hề có cách nói nào đại loại như làm thơ dở như ông A bà B. Tuyệt đối không. Đã dở thì bị diệt vong, bị tiêu tán tức khắc, không còn lại gì cả, kể cả một cái tên, đừng nói gì là nguyên vẹn một tác phẩm.
Bài ‘Thơ con cóc’ tồn tại cũng không phải nhờ câu chuyện tiếu lâm gắn liền với nó nếu không muốn nói, ngược lại, câu chuyện tiếu lâm ấy sở dĩ còn được lưu truyền là nhờ bài ‘Thơ con cóc’.
(Nguyễn Hưng Quốc)
[3] Câu chuyện có thể tóm tắt đại khái như sau: Có ba anh học trò dốt, một hôm, nhìn một con cóc, nổi hứng rủ nhau làm thơ vịnh. Anh thứ nhất đọc: Con cóc trong hang / Con cóc nhảy ra. Anh thứ hai tiếp: Con cóc nhảy ra / Con cóc ngồi đó. Anh thứ ba nối lời: Con cóc ngồi đó / Con cóc nhảy đi. Làm xong bài thơ, tự trầm trồ khen mình giỏi, rồi sực nhớ lời người xưa nói kẻ tài hoa thường mệnh yểu, ba anh rất lo, sai tiểu đồng ra phố mua sẵn ba cái quan tài. Ngoài phố, nghe lời tiểu đồng kể lại, một khách qua đường dặn: - Mày mua luôn giùm tao một cái nữa, để lỡ cười quá, tao chết mất.
Đến Diên Khánh nhớ tích xưa
(thành Diên Khánh)
Trước nay tôi rất mê đọc sử, đặc biệt là giai đoạn Trịnh Nguyễn phân tranh, sau đó là nhà Tây Sơn, cuộc chiến của Gia Long và Quang Trung.
Nhiều người thường bảo thành Diên Khánh ở Nha Trang hiện nay được xây bởi tướng Võ Tánh của nhà Nguyễn, nhưng thật ra ông chỉ có công tu bổ trong một số giai đoạn nhất định. Còn thành Diên Khánh có từ trước khi cuộc chiến của nhà Nguyễn với nhà Tây Sơn nổ ra. Khi chúa Nguyễn vào lập nghiệp ở Thuận Hoá. Năm 1600… mấy, năm chính xác mình không nhớ chỉ nhớ là thời chúa Nguyễn Phúc Tần, thấy phần đất này địa thế trọng yếu, ông cho người vào lập đồn luỹ để phòng thủ.
Rồi nhà Tây Sơn nổi lên, sau khi chiếm được thành Quy Nhơn, Nguyễn Huệ kéo quân vào Nam rồi chiếm thành Diên Khánh, đó là trận đánh đầu tiên của thành Diên Khánh.
(Trần Ngọc Hiếu)
thổ quán Bạc Liêu, hiện ngụ cư tại Sydney, Australia
người viết tạp bút quê hương, ký sự địa danh, di tích lịch sử
Qua
- Qua (我): chữ Nho là ngã, có nghĩa là tôi. Tiếng Tiều Châu đọc là "wã,” ta nói trại thành qua. Thường dùng để tự xưng cho người hơi lớn tuổi.
Ví dụ ta thường nghe nhất là:
"Hôm qua, qua nói qua qua, mà qua hổng qua
Hôm nay, qua hổng có nói qua qua, mà qua qua"
Chữ nghĩa làng văn
Ba Giai Tú Xuất là ai? - 1
Trong cuốn Lược truyện các tác gia Việt Nam (NXB Khoa Học Xã Hội, 1972), các tác giả Nguyễn Văn Phú và Tạ Phong Châu đã khẳng định Nguyễn Nam Thông là người đầu tiên biên soạn Ba Giai - Tú Xuất.
Nhưng việc NXB Hội Nhà Văn cho in Ba Giai Tú Xuất với tên tác giả đích thực, đáng tiếc, cuốn sách không nêu rõ họ tên, quê quán hay hình ảnh của Ba Giai Tú Xuất chỉ phỏng đoán nên chưa thuyết phục người đọc. Hy vọng lần tái bản bổ sung hình ảnh (nếu có) hay phụ bản in năm 1934 cũng như ảnh cố nhà văn Nguyễn Nam Thông.
(Nguyễn Tý)
Từ huyền sử đến sự thật - 1
Tình trạng này, có lẽ bắt nguồn từ vài khiếm khuyết có từ rất lâu, ngay từ trước 1975 ở miền Nam:
- Thiếu khái niệm về huyền thoại và lý giải hợp lý ;
- Thiếu giải thích địa bàn, thời điểm, bản đồ, di chỉ, đồ thị, tranh ảnh... trong hầu hết các sách giáo khoa hoặc các tác phẩm lịch sử. Sử Địa vì vậy là một môn học rất khó nhá, chỉ cần học thuộc lòng để đi thi rồi thôi. Bài viết ngắn này vì vậy xin gợi sự lưu ý đến địa điểm Hồ Nam và Ngũ Lĩnh, cùng những tồn nghi từ thuở còn ngồi ghế trung học.
Ðịa bàn của truyền thuyết.
Chuyện “tuần thú” phương Nam của vua Ðế Minh rất dế mèn phiêu lưu ký. Không rõ ông bắt đầu từ đâu, đi với ai, đi bằng gì, đi năm nào. Ðến núi Ngũ Linh, Ðế Minh gặp một nàng tiên. Mối duyên tình kỳ bí bắt đầu, làm tiền đề cho truyền thuyết về nguồn gốc dân tộc Việt. Nhân dáng nàng tỏa hương cổ tích: tất cả các tiên đều xuất phát từ miền núi, hang động. Ðộng Bích Ðào (4) vàng rơi ánh nguyệt, động Thiên Thai (5) nơi hoa xuân chưa gặp bướm trần gian. Từ núi, người tiên huyền thoại chỉ hiện ra một lần. Giới sử học hiếm khi lý giải đến tên tuổi lý lịch dòng tộc nàng. Dung nhan mờ ảo của nàng lùi dần rồi khuất xa mãi mãi, dù người Việt vẫn hãnh diện nhận “con rồng cháu tiên”. Nhưng nơi tương phùng lại có thật: núi Ngũ Lĩnh ở phía nam sông Dương Tử, thuộc Hồ Nam bây giờ. 5000 năm trước, nơi đó chưa có tên.
(Trần Thị Vĩnh Tường)
(4) Lê Văn Hảo/Xứ Thanh, Xứ Nghệ: động Bích Ðào, còn gọi là động Từ Thức, huyền thoại về cuộc tình duyên đẹp dở dang giữa người trần Từ Thức với nàng tiên Giáng Kiều. Ðộng Bích Ðào nằm ở dãy núi Thần Phù (huyện Nga Sơn), Thanh Hóa.
(5) Nguyễn Tường Bách/Mùi Hương Trầm, huyền sử chép hai chàng Lưu Thần, Nguyễn Triệu đời Hậu Hán (25-250) đi hái thuốc trong núi gặp tiên. Sống với tiên được nửa năm, hai chàng nhớ nhà xin về. Lúc trở lại nhà thì dưới thế đã qua được 7 đời. Khi trở lại, đào nguyên không còn.
Góp ý về cuộc tranh luận thơ con cóc
Bây giờ Nguyễn Hưng Quốc muốn chứng minh điều ngược lại: Thơ Con Cóc hay. Chúng ta thử khảo sát quan điểm của anh:
Luận điểm 1, theo Nguyễn Hưng Quốc, Thơ Con Cóc hay vì được người ta nhớ.. Anh viết: "Một tác phẩm văn học đã trở thành điển hình và được mọi người, từ thế hệ này qua thế hệ khác, từ thời đại này qua thời đại khác ghi nhớ thì không thể nào dở được" (Thơ, V.V... và V.V..., trang 41). Câu này chứng tỏ Nguyễn Hưng Quốc có cùng một quan điểm với Đỗ Minh Tuấn về quyền năng của ký ức cộng đồng, hay vô thức cộng đồng (chữ của Đỗ Minh Tuấn). Nếu đã chấp nhận: tác phẩm nào được người ta nhớ thì tất phải hay, như vậy còn cần bàn cãi làm gì? Chứng minh bằng cả một quyển sách cũng là thừa. Cho nên, cái "trí nhớ cộng đồng" mà hai tác giả đưa ra, chính nó, cũng không phải là điều làm họ tin tưởng. Vì sao? Vì được nhớ chỉ là điều kiện cần, chứ chưa đủ để bảo đảm tính chất hay của một tác phẩm: Hay thì người ta nhớ, nhưng những gì mà người ta nhớ chưa chắc đã hay.
a- Người ta có thể nhớ một câu thơ tầm thường hoặc dở vì phải học thuộc lòng. Thầy giáo bắt học một trích đoạn Kiều hay Lục Vân Tiên, bạn phải học cả câu hay lẫn câu dở. Đó là trường hợp bị nhớ. Trường hợp này trí nhớ bị huấn luyện, bị chỉ đạo mà không có "choix".
b- Nếu để tự nhiên lựa chọn, trí nhớ có vẻ rất sang, nó thích nhớ những gì ngoại hạng, ví dụ ác như Kiệt, Trụ, Ngọa Triều Lê Long Đĩnh. Đẹp như Tây Thi. Xấu như Quỷ Dạ Xoa, Hay như Truyện Kiều. Dở như Thơ Con Cóc v.v...
c- Sau cùng, người ta cũng nhớ những gì có tính cách điển hình cho một thái độ, một phong cách. Người ta nhớ những câu thơ của Nguyễn Đình Chiểu:
Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai
không phải vì hay mà vì nó ngây ngô, buồn cười, lập lại những điều dĩ nhiên: Khoan khoan thì tất phải ngồi (đứng) đó, mà ngồi đó thì chớ ra. Nàng thì chắc chắn là gái rồi mà ta (chàng) thì không thể không là trai.
(Thụy Khuê)
Từ huyền sử đến sự thật - 2
Nhưng có tìm tòi, mới thấy cái khó khăn của người xưa, khi tài liệu duy nhất là từ Trung Hoa. Ngay bây giờ, chỉ đi tìm núi Ngũ Lĩnh, thiếu điều tẩu hỏa nhập ma. Người Trung Hoa gọi Lĩnh Nam là vùng đất phía Nam núi Ngũ Lĩnh. Họ không để ý đến núi Ngũ Lĩnh này vì họ đã thống nhất các bộ lạc thuộc chủng Yue từ lâu.
Wuling Range ((fuq) chạy dài từ phía Tây Hồ Nam đến phía đông Quí Châu. Ngọn Wulingyuan, hiện được Unesco công nhận là kỳ quan thế giới, là một nơi thu hút khách du lịch và cung cấp dược thảo các loại. Nanling, Nam Lĩnh, còn gọi là Ngũ Lĩnh (Wđ) tên dãy núi ở vùng ranh giới các tỉnh Hồ Nam, Giang Tây, Quảng Ðông, Quảng Tây của Trung Quốc, ngăn cách vùng Lưỡng Quảng với phần lãnh thổ phía bắc của vùng Giang Nam.
Sách vở Việt lại chỉ lưu ý đến Tiểu Ngũ Lĩnh, biên giới thiên nhiên giữa 2 nước Việt-Hoa. Nơi đây là địa bàn của ít nhất hai cuốn dật sử đầu tiên của VN, Lĩnh Nam Dật Sử (1150), và Lĩnh Nam Chích Quái nói trên. Hồ Nam: phía Nam sông Dương Tử, còn được gọi tắt là tỉnh Tương, theo tên sông Tương. Hồ Nam dài 774km, rộng 667km. Hà Nội cách cực Nam Hồ Nam 333km, cách cực Bắc Hồ Nam 999km.
Ðịa bàn có thật, không có nghĩa câu chuyện xảy ra đúng in như vậy. 5000 năm trước, chưa có chữ, không có nước nào có tín sử.
(Trần Thị Vĩnh Tường)
Tiểu sử
Quê ngoại ở Hưng Yên. Hiện ngụ cư tại California
Tác phẩm
Bao Giờ Cho Quên, Gửi Về Em, Mùa Thu Hà Nội,
Ba Sinh Hương Lửa
Dầu cháo quẩy
Chuyện đời Tống bên Tàu: Tần Cối lập mưu hãm hại Nhạc Phi, tấu với vua Cao Tông rằng Nhạc Phi đã xúc phạm tới gia pháp tổ tông của Tống triều... Cuối cùng do âm mưu thâm độc của Tần Cối và vợ là Vương Thị mà Nhạc Phi và con là Nhạc Vân cùng nhiều tướng lĩnh khác bị mang ra xử chém. Sau cái chết của Nhạc Phi, lòng dân khắp nơi oán hận, căm thù Tần Cối...
Thấy bánh dễ làm, lại ăn ngon, món đó được lan truyền rộng rãi khắp nước. Tên của món bánh đó là "Du Gia Quỷ" tức là Con Quỷ bị chan (gia) dầu (Du) lên người, Món bánh này phổ biến sang tận Việt Nam và "Du Gia Quỷ" được đọc thành "Dầu Cháo Quẩy", có người gọi tắt là "cháo quẩy" hay ngắn gọn là "quẩy". Người Tàu và Việt thường ăn kèm món này với cháo.
Đến đời Tống Minh Tông, mọi chuyện sáng tỏ, Nhạc Phi được minh oan, được đem hài cốt về chôn và lập miếu tại Hàng Châu.
Người ta cũng làm 2 pho tượng sắt theo hình vợ chồng Tần Cối đặt quỳ ở trước mộ, trong khuôn viên miếu Nhạc Phi.
Chữ là nghĩa - 1
Hợp kim đồng (bronze) ta cũng mượn của Tàu một cách kỳ lạ.
Các nhà bác học của Viện Bác Cổ Viễn Đông đã chứng minh được bằng cách phân chất rằng đồ đồng Lạc Việt là do chính dân Lạc Việt đúc ra, chớ không phải mua của Tàu, mà đồ đồng ấy, đã tiến qua nhiều thế kỷ rồi chớ không phải là mới phát minh vào đầu Tây lịch Kỷ nguyên, vậy mà lại không có danh từ chỉ món hợp kim ấy hay sao, để đi mượn danh từ đồng của Trung Hoa?
(Gương mặt dân Lạc Việt qua ngôn ngữ Việt – Bình Nguyên Lộc)
Xe ôm Sài Gòn
Trên xe, anh chàng người Mỹ cho biết cảm thấy thoải mái cho đôi chân khi được chở trên chiếc xe có thân dài này (xe Lambretta) hơn là ngồi trên những chiếc xe máy yên nhỏ của người Pháp hay Đức chế tạo đang có ở Sài Gòn. Khi dừng xe, ông X. giơ tay từ biệt thì anh chàng Mỹ rút túi tặng ông một ít tiền và ngỏ ý vào cuối tuần nhờ ông chở đi vòng vòng Sài Gòn chơi. Ông X. nhận lời và từ đó, ý thức rằng có thể kiếm tiền bằng những lần chở người ở yên sau, ông tìm cách tăng lượng khách. Ông chở thêm những người Mỹ khác và nhận ra rằng tiền kiếm được còn nhiều hơn trước kia đi làm nữa.
Lúc đó, khu Kho 18 có hai snack-bar là Rạng Đông và Thúy Phương. Thấy ông X. làm ăn được, mấy ông từng làm sở Mỹ đang thất nghiệp bắt chước theo và thấy có ăn. Họ mua toàn là xe Lambretta vì xe khác người Mỹ lắc đầu. Từ đó hình thành đội ngũ xe ôm đầu tiên ở Sài Gòn đậu dài dài ở hai bar rượu này, đi cùng một loại xe và chủ yếu phục vụ cho các nhân viên dân sự Mỹ. Họ không chỉ đi uống rượu mà bằng xe ôm, có thể vô các khu hẻm nhỏ tìm người quen, tìm bạn gái, tìm bạch phiến. Còn người dân Sài Gòn bình thường không ai quan tâm đến loại xe này. Ai không có xe máy thì đi taxi, xe buýt hay xích lô máy, xích lô đạp...
(Phạm Công Luận - trích Sài Gòn, chuyện đời của phố, tập 3)
Chữ là nghĩa - 2
Bến, đầu, vàng, đồng là những tiếng vay mượn không có lý do, như, chúng tôi đã ám chỉ ở bài trước khi nói về ‘’đùi’’, do bọn sính nói tiếng Tàu vay mượn, còn ta thì đã có danh từ ‘’bắp vế’’.
Qua cuộc tìm tòi nhỏ này, ta chỉ biết được có một sự kiện lịch sử thôi, là nam nữ ta đã sống chung vào thời đó, tức đã có vợ chồng, và dầu còn theo hệ mẹ, vẫn biết có người cha.
(Gương mặt dân Lạc Việt qua ngôn ngữ Việt – Bình Nguyên Lộc)
Văn hóa... hủ tíu cà phê
Lần dự đám giỗ ở hẻm 104 Nơ Trang Long, Bình Thạnh, tôi gặp Cô Ba Nguyễn Thoại Anh, năm nay đã 84 tuổi. Nghe nhắc về quán Đức Thành Hưng, cô như reo mừng vì hầu như đã lâu lắm rồi không nghe ai nhắc đến nó. Tuy vậy, đối với cô là một khung trời kỷ niệm ngày còn bé thơ, trong khoảng thời gian từ tám chín tuổi đến thời thiếu nữ tuổi, còn đang học Nữ tiểu học Gia Định và sau đó là trường Gia Long.
Cô Ba kể: Tiệm Đức Thành Hưng ở Bà Chiểu do bà Ba Truyện, nhà ở khu vực cầu Băng Ky, đứng quản lý. Đó là một tiệm bán hủ tíu cà phê và vài món khác. Nó có tiếng tăm, người đi ăn ở đó thường là khá giả, nếu là bình dân thì thỉnh thoảng mới đến. Tiệm nằm ở góc chợ Bà Chiểu. Hồi đó, cô bé Thoại Anh học giỏi nên hay được giấy khen. Mỗi lần như vậy, ông nội của cô là ông Nguyễn Văn Chỏi, giữ chức Bang Biện làng Bình Hòa dùng xe đạp chở đi chơi ngày cuối tuần. Ông nội chở cháu gái đến xem chiếu bóng ở rạp Asam hay rạp Casino ở Đa Kao, xem xong thì thế nào cũng ghé tiệm Đức Thành Hưng. Ông Bang Chỏi ăn hủ tíu, uống cà phê. Cô cháu gái ăn bánh pâté chaud, uống sữa. Cà phê lúc đó lược bằng vợt vải như cái vớ, dọn ra trong cái ly sành tráng men màu vàng nâu khá xinh.
Trước quán là một bảng hiệu kẻ bằng sơn. Bày trí trong quán hoàn toàn khác với tiệm nước của người Hoa vốn cũ kỹ, tối tối. Đây là quán kiểu Tây, có quầy cho người bán, thu ngân, mua bánh. Nền quán lót gạch bông vuông nhỏ đỏ trắng. Bàn ghế trong quán bày rải rác, bàn vuông có trải khăn bán trắng, bốn ghế bốn góc bằng gỗ. Bồi bàn đi qua lại, lịch sự. Ông Ba chủ tiệm có dáng người cao, mặt mày sáng sủa, hớt tóc cao và chẻ ngang, mặc quần tây áo sơ mi tiếp khách chào ông Bang biện Chỏi.
(Phạm Công Luận)
Khoa trương trong ca dao của người Việt
Khoa trương kiểu nói ngược. Là khoa trương mà hàng loạt các hiện tượng phi lí, ngược đời, không thể xảy ra trong thực tế và trái với quy luật tự nhiên lại xuất hiện trong ca dao, tiêu biểu là bài: “Bao giờ cho đến tháng ba”:
Bao giờ cho đến tháng ba
Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng
Hùm nằm cho lợn liếm lông
Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi
Ở đây, tác giả dân gian đã sử dụng cách nói ngược. Cách nói này thường biểu đạt những ý nghĩa sau:
- Tạo sự hài hước, bật lên tiếng cười nhằm mục đích gây cười, mua vui, giải trí.
- Thể hiện khát vọng về sự đổi thay táo bạo, phá vỡ những ràng buộc “thâm căn cố đế” vốn được xem là chính thống ngự trị, nhất là trong xã hội phong kiến hà khắc. Ví dụ:
Cơm ăn mỗi bữa nồi năm
Ăn đói ăn khát mà cầm lấy hơi
Cơm ăn mỗi bữa nồi mười
Ăn đói ăn khát mà nuôi lấy chồng
Thuốc lá, thuốc lào
Nhưng thời đó thuốc lá chưa được gọi là tabac hay tabaco / tobacco. Tên thông dụng là petun xuất gốc từ danh từ petyma của thổ dân Guarani. Ít lâu sau, Jean Nicot (1530-1600) phổ biến sự tiêu thụ thuốc lá sau khi ông đi sứ (1559) tại Lisboa (Bồ Đào Nha).
Dần dần hút thuốc lá trở nên một thứ khoái lạc thanh nhã trong giới thượng lưu ở Âu Châu. Họ thường hút ống điếu (pipe) và xì gà (cigare). Sau đó kỹ nghệ thuốc lá càng ngày càng thịnh vượng, rồi lại phát minh ra điếu thuốc lá (cigarette) năm 1830.
(Đông Phong Nguyễn Tấn Hưng)
Thành ngữ xuất xứ từ thơ cổ và điển cố
Một đi không trở lại
Một đi không trở lại (一 去 不 復 返) [nhất khứ bất phục phản] là thành ngữ nói lên sự mất mát vĩnh viễn, không thể tìm thấy lại được và nó có xuất xứ từ bài Hoàng Hạc lâu (黃 鶴 樓) bất hủ của nhà thơ Thôi Hiệu đời Đường.
Nguyên tác:
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
Người xưa cưỡi hạc đã lên mây,
Lầu hạc còn suông với chốn này.
Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn
Ngàn năm mây bạc vẩn vơ bay.
Vàng gieo bên Hán, ngàn cây hửng
Xanh ngắt châu Anh, lớp cỏ dày.
Trời tối quê nhà đâu tá nhỉ ?
Đầy sông khói sóng gợi niềm tây!
(Bản dịch: Ngô Tất Tố)
Nếu ta hiểu được bài thơ trên thì ta thấy thành ngữ “Một đi không trở lại” nói lên tâm trạng cảm hoài trước quy luật của tạo vật là không có gì tồn tại vĩnh cửu.
(Nguyễn Ngọc Kiên)
Cua cáy phiếm lược - con còng
Còng là loài cua nhỏ bao gồm những con cua có kích thước giữa con to nhất và bé nhất chỉ 2,5 cm bề ngang. Còng được biết đến với đặc điểm cặp càng dị hình theo giới tính; cua đực có cặp hàng không đều với 1 càng lớn hơn rất nhiều càng kia, trong khi con cái có hai cặp càng đều nhau.
Lẫm đẫm đến đây, tầm khảo tôi chạm mặt đến…‘’huyễn sử’’ cua đực có trứng!
Ừ thì hãy dài hơi dầy chữ với chị cua cái trước đã: Bụng chị chứa ‘’gạch’’, đây chính là buồng trứng của chị. Khi chị cua cái chưa sinh nở, gạch là trứng cua. Chị cua cái nhiều gạch nên gọi… cua gạch. Sau khi trứng thụ tinh, sẽ chuyển xuống bụng thành những ‘’hài nhi’’ cua và bắt đầu sinh sản. Còn anh cua đực cũng có trứng, nhưng vì anh ta không có buồng trứng, do vậy phát triển ở phần thịt nên được gọi là…cua thịt. Ngắn gọn với cua gạch có trứng, giống đàn ông con trai có vú vậy. Vậy đấy.
Bây giờ xin dài hơi dầy chữ đến… “huyền sử” chuyện tình của chị cua cái… Anh cua đực dùng càng lớn nhất để tán tỉnh chị cua. Đầu cua tai nheo (cua không có… đầu và tai – xem ca dao) là nàng sẽ chọn bạn đời dựa trên kích thước của càng… hay của chàng, gần với “xấu dây (gầy) tốt củ”. Vì chị thấy kích thước càng to của anh liên quan đến chiều rộng của cái hang. Chị sẽ đẻ trứng trong hang của anh cua đực.
Sau khi chị chịu đèn rồi, i xì như con người ta, anh tháo yếm của chị để giao phối. Trong thời gian giao phối, khác con người ta: tối thiểu… 5 tiếng hay… cả ngày. Giao phối xong, anh ôm chị trên lưng. Anh cua đực ôm chặt chị cua cái trên mai đi vòng vòng suốt ba, bốn ngày . Thời gian “điên” này, anh đực ôm chị cái áp sát bụng vào nhau đến thời kỳ chị lột vỏ, anh buông chị ra. Nhưng anh cua vẫn đi theo để bảo vệ chị cua. Huyền sử diễn là cuộc tái diễn không ngừng như con bọ ngựa cái, nhưnh tình tiết li kỳ hơn: Chuyện là trong khi anh cua đực trông chừng đám trứng trong hang. Chị cua cái bỏ đi, một hồi sau dẫn về anh nhân tình mới. Anh này thản nhiên kẹp chết anh cua đực, chồng của chị cua cái.
***
Người Ăng-lê gọi còng
là Horned ghost crab: Cua ma có sừng
Trên tuyến tàu xưa Gò Vấp-Sài Gòn
Chợ Gò Vấp 1950
Thằng Cưng ngoài tắm sông lén, thỉnh thoảng xuống Gó Vấp đi xem “hát bóng” ở rạp Lạc Xuân, rạp này bên hông chợ Gò Vấp, thường hát phim cũ nên thỉnh thoảng bị đứt phim, nhưng tiền vé rẻ. Mùa nóng xem phim mà cứ đợi nối phim, thiên hạ thường la ó. La thì la vậy chớ đi xem vẫn đi vì rẻ cho dân địa phương.
Ga Xóm Thơm
(Gò Vấp Xưa, thế kỷ 20)
Trước khi tới quận lỵ Gò Vấp, có ga xóm Thơm (tên địa phương, nhưng cũng gọi là tên ga Gò Vấp). Ga Gò Vấp là một ga nối vì từ ga này đi ra các tỉnh miền Trung, Nha Trang, đi Lái Thiêu, Thủ Dầu Một, dĩ nhiên đi ra Sài Gòn (ngừng tại ga xe lửa Mỹ Tho, cũng gọi là ga Sài Gòn, bây giờ là công viên 23/9 gần chợ Bến Thành)-rồi từ ga Saigon đi Chợ Lớn Bình Tây hay đi Mỹ Tho).
Tuyến đường Gò Vấp Saigon được đưa vào sử dụng ngày 7/9/1897, lúc đầu chạy bằng nưóc sau bằng điện, từ năm 1913. Cũng từ sau 1913 các tuyến đường khác được xây dựng từ Gò Vấp đi Hóc Môn, Gò Vấp đi Lái Thiêu-Thủ Dầu Một. Từ chợ Bình Tây Chợ Lớn đi Phú Nhuận-Dakao-Tân Định.
Tuyến xe đi từ Gò Vấp ra Sài Gòn qua Ga Đông Nhì, lúc rạp Đông Nhì (cùng chủ với Đại Đồng Nguyễn Văn Học và Đai Đồng Cao Thắng, Bàn Cờ, cũng là chủ rạp Đại Đồng Hà Nội di cư vào Nam, có tài liệu cho biết Đại Đồng Hà Nội là rạp chiếu bóng đầu tiên của người Việt Nam cho người Việt Nam )
Rạp Đông Nhì là rạp bình dân, chiếu toàn phim cũ nhưng mới hơn Lạc Xuân, có đặc điểm hát thường trực, lúc nào mua vé vào xem và xem bao lâu cũng được.
Rời Ga Đông Nhì thì đến ga Xóm Gà, ga này có mái che và xây bằng gạch nằm trước tiệm tạp hóa chú Xi. Chú Xi, gia đình ngườì Tàu sang Việt Nam đã lâu nên con cái chú ăn mặc theo kiếu Việt Nam và các con nói tiếng Nam rành rọt, tiệm chú Xi bán tạp hóa nên cái gì cũng có kể cả nước màu (nước đường nấu lên cho có màu nâu đen dùng để kho thịt hay cá)
(Y Nguyên - Mai Trần)
Những truyện ngắn Việt Nam làm liên tưởng đến điện ảnh
Chính điều bí ẩn được nói ra một cách cũng lạ lùng trong phim, nhân vật nói với mình hơn là nói với hai cô gái không cần nghe, phải chăng đã gây cảm hứng cho nhà văn Mai Thảo viết truyện ngắn “Bản Chúc Thư Trên Ngọn Đỉnh Trời” (do Sáng Tạo xuất bản, Sài Gòn, 1963):
Truyện một người có nguồn gốc thuộc tộc người thích mạo hiểm, thừa hưởng bản năng của tổ tiên từ ngàn xưa thường đi xâm chiếm chinh phục đất đai. Tiếng gọi huyền bí thúc đẩy nhân vật phải chinh phục ngọn đỉnh trời, nhưng khi gần đạt tới thì tự buông mình xuống khe sâu, vì cảm thức một cách không hiểu nổi đối với thế gian: ngọn đỉnh trời chỉ là vật đang bị chinh phục, cần phải đi vào vô hạn mới là Vực Thẳm. Có khác nào con beo từ chốn bình địa bạt ngàn hoang dã, có tiếng gọi huyền bí nào đó bắt nó lần mò lên sườn tuyết phủ cao ngất phía Tây núi Kilimanjaro, nơi mà người bản địa Masai gọi là “nhà của Thượng Đế”.
Xin nhắc lại, sự liên đới giữa phim “Tuyết Trên Đỉnh Kilimanjaro” và truyện ngắn “Bản Chúc Thư Trên Ngọn Đỉnh Trời” chỉ là sự liên đới với chừng mực nào thôi, vì như đã nói truyện của Hemingway hàm chứa nhiều thông điệp chủ đề do các nhà phê bình văn học đã đề cập, không phải chỉ với chủ đề niềm khát vọng vô hạn (trong Bản Chúc Thư Trên Ngọn Đỉnh Trời thì khát vọng vô hạn là chủ đề duy nhất).
(Trần Văn Nam)
Tác giả : Trần Văn Nam sinh ngày 18-11-1939 tại Bến Tre. Ðến Mỹ cuối năm 1981, ở tiểu bang Virginia, rồi California. Mất ngày 10-1-2018 tại City of Walnut, CA.
Tốt nghiệp Ðại Học Sư Phạm Sài Gòn, khóa Việt Văn cấp tốc 1967, và Cử Nhân Giáo Khoa Triết Học Tây Phương, Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn 1973. Dạy học ở nhiều tỉnh miền Tây: Vĩnh Long, Sa Ðéc, Kiên Giang.
Tác phẩm : Trước 1975 ở trong nước và sau 1975 tại hải ngoại có một số bài tiểu luận văn học (Tuyển chọn lại được 550 trang).
Thập niên 30, Sài Gòn lai rai
Còn món thịt chó, món nhậu trứ danh gốc Bắc có ở Sài Gòn từ khi nào?
Chắc chắn phải sau 1954, cùng với làn sóng di cư vào Nam của người miền Bắc, thịt chó mới thành món ăn phổ biến. Qua bài báo “Ăn thịt chó sẽ có tội” trên báo Sài Gòn 11 Tháng Mười 1939, chuyện ăn thịt chó được xem là một tội ở Nam kỳ.
Bài báo kể rằng cô Triệu Thị Lựu ở Phú Nhuận, xóm Thầy Đội Có (nay là đường Cô Giang, quận Phú Nhuận) có làm mất con chó rất cưng kiếm hoài không ra. Vài ngày sau, tình cờ đi ngang nhà của tên Tài tức Chiểu, cô nghe có tiếng cãi lẩy om sòm. Họ đang cãi về chuyện thịt chó thịt heo rùm cả tai. Sinh nghi, cô đi vòng ngả sau, xem thử và quả quyết rằng đùi chó là của con chó cưng của cô nên cầm nó luôn, đến nhà làng thưa với thầy Hương Quản. Có lẽ có người nói lại, Tài và mấy người khác bỏ nhà trốn mất. Đến khi bài báo đăng, thầy Hương Quản đến nhà đón bắt Tài cũng không gặp. Bài báo kết luận: “Ăn thịt chó là một tội, lại là chó ăn cắp của người ta, thế anh Tài bị thêm một tội thứ nhì nữa”. Luật lệ thuộc địa Nam kỳ là của người Pháp, cấm ăn thịt chó.
(Phạm Công Luận)
Gái một con và tiếp…
Gái một con trông mòn con mắt
Gái hai con, con mắt liếc ngang
Ba con cổ ngẳng, răng vàng
Bốn con quần áo đi ngang khét mù
Năm con tóc rối tổ cu
Sáu con yếm trụt, váy dù vặn ngang
Ngoài ra trong dân gian còn truyền ngôn:
Gái một con, thuốc ngon nửa điếu
Thuốc ngon nửa điếu, rượu ngon nửa bình
(Chữ nghĩa chúng ta – Bùi Bảo Trúc)
Chân dung và đối thoại : Lưu Trọng Lư
(phụ bản tiết mục Nhà thơ Trần Đăng Khoa
lên tiếng về bài của Nguyễn Vỹ)
Và con nai Việt Nam cũng nhanh nhẹn lắm, tinh ranh lắm, nó đâu có ngơ ngác? Ơ hay, Lưu Trọng Lư có nhìn thiên nhiên bằng con mắt thịt đâu! Lại phải mời Hoài Thanh về làm luật sư bào chữa cho ông thôi: Trong thơ Lư, nếu có cả chim kêu, hoa nở, ta cũng chớ tin. Hay ta hãy tin rằng tiếng ấy, màu kia chỉ có ở trong mộng. Mộng! Đó mới là quê hương của Lư. Thế giới thực của ta với bao nhiêu thanh sắc huy hoàng. Lư không nghe thấy gì đâu. Sống ở thế kỷ 20, ngày ngày nện gót trên các con đường Hà Nội mà người cứ mơ màng thấy mìn gò ngựa ở những chốn xa xăm nào
Tương truyền khi viết bài thơ này, Lưu Trọng Lư đến thăm nhà một người bạn. Rồi nhân cớ thấy cái bình gốm cổ có vẽ con nai đứng giữa núi non. Lưu Trọng Lư bèn vịnh ngay bài thơ này. Thực chất, nếu chuyện đó là thật, thì con nai trên bình gốm chỉ là cái cớ rất nhỏ, là tiếng động rất nhỏ đánh thức con nai vàng và khu rừng vàng trong tâm hồn Lưu Trọng Lư thức dậy và toả hương. Nhờ thế, thi ca Việt Nam đã có một kiệt tác thật hiếm có, ngỡ như đó là khúc nhạc huyền bí của thần linh, chứ quyết không phải là tiếng ca phàm tục của người đời...
(Trần Đăng Khoa)
Tiểu sử : Trần Đăng Khoa sinh ngày 28.4.1958 tại Nam Sách, Hải Dương – Hiện đang ở Hà Nội.
Tác phẩm: Chân dung và đối thoại (ký: Bình luận văn chương) - Đảo chìm (truyện dài) - Thơ: Từ góc sân nhà em - Biển và em - Góc sân và khoảng trời – Bên cửa sổ máy bay
Kỷ vật Hồ Trường
Những ngày trai trẻ lang bạt kỳ hồ. Những đêm ngồi đàn đúm với bạn bè bên cốc rượu trong những quán nhỏ tối tăm, nhìn về cuộc đời rộng lớn, khó lòng định hướng được tương lai, tôi vẫn thường thích nghe những câu thơ sang sảng:
“Hồ trường
Hồ trường
Ta biết rót về đâu?
Rót về Đông phương?
Nước biển Đông chảy xiết sinh cuồng loạn
Rót về Tây phương?
Mưa Tây sơn từng trận chứa chan
Rót về Bắc phương?
Ngọn Bắc phong vi vút, cát chạy đá bay
Rót về Nam phương?
Trời Nam mù mịt
Có người quá chén say như điên cuồng... “
Bài thơ Hồ Trường viết từ bao giờ? Tác giả là ai? Thời ấy chừng như tôi không hề để ý. Chỉ biết rằng, đó là một bài thơ đầy tâm trạng của một chàng "Trai trẻ bao lăm mà đầu bạc" . Đó là một bản tửu ca để sớt chia một Hồ Trường cùng người tri kỷ.
Bạn tôi có người yêu Hồ Trường đến độ ghép tên mình thành Ph. Hồ Trường. Khi chút men cay đã ngấm vào người, hắn chỉ ngâm độc những câu thơ Hồ Trường mà hắn không biết xuất xứ từ đâu. Nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng cũng là một môn đệ của Hồ Trường. Khi ngâm Hồ trường, mắt ông lim dim, hàm râu quai nón rậm rịt như xù lên giật giật:
”Vỗ gươm mà hát
Nghiêng bầu mà hỏi
Thiên hạ mang mang ai người tri kỷ
Lại đây cùng ta cạn một Hồ trường “
(Trần Trung Sáng)
Tiểu sử: Trần Trung Sáng là họa sĩ, nhà văn
Sinh năm 1954, người Hội An, Quảng Nam. Hiện ở Đà Nẵng.
Tác phẩm: Tập truyện: Dấu xưa xứ Quảng, Ký ức thành phố tiếng còi tàu, Ký sự về người hoạ sĩ ở ngục tù Côn Đảo.
***
Phụ đính
40 Năm hải ngoại - Một nén hương - Cho những nhà văn
nhà thơ đã khuất núi
(Danh sách cập nhật tới tháng 6/2017 – Nhật Tiến biên soạn
Tổng hợp từ nhiều nguồn)
Nhà văn Phùng Nguyễn tên thật Nguyễn Ðức Phùng, sinh năm 1950 tại Quảng Nam. Năm 1961 thi đậu vào trường trung học Trần Quý Cáp tại Hội An.
– Năm 1968 nhập ngũ.
– Ðến Hoa Kỳ năm 1984, theo học cao học quản trị kinh doanh.
– Ông bắt đầu viết văn năm 1994, cộng tác với các tạp chí Văn, Văn Học, Hợp Lưu, Thế Kỷ 21, talawas.org, tienve.org
– Ông đã từng làm chủ bút tạp chí Hợp Lưu (năm 2002), đồng chủ trương tạp chí mạng Da Màu (2006).
Ông qua đời ngày 17-11-2015 vì bệnh tim, tại tiểu bang Maryland.
Phùng Nguyễn
(1950-2015)
Tác phẩm:
– “Tháp Ký Ức,” NXB Văn, 1998,
– “Ðêm Oakland và Những Truyện Khác,”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét