Hôm Nay Cuối Tháng Sáu
Thứ Hai, 30 tháng 6, 2025
Hôm Nay Cuối Tháng Sáu - Quách Như Nguyệt
TÌM HIỂU Ý NGHĨA ĐỨC NHÂN TRONG LUẬN NGỮ CỔ NGHĨA CỦA ITÔ JINSAI (Bài 13)
TÌM HIỂU Ý NGHĨA ĐỨC NHÂN TRONG LUẬN NGỮ CỔ NGHĨA CỦA ITÔ JINSAI (Bài 13)
Đức nhân trong chương 20 Nghiêu Viết
Nguyễn Sơn Hùng
***
Phàm lệ
- Dịch là của Nguyễn Hiến Lê.
- Chú thích và Bàn thêm là của Jinsai.
- Các hạng mục khác là của người dịch.
CHƯƠNG 20 NGHIÊU VIẾT
Bài 20.1 Triết lý căn bản chính trị của các tiên vương là kính thiên và trọng dân. Khen thưởng việc tốt, trừng phạt việc xấu, nghiêm trách bản thân, tha thứ độ lượng người khác đều là phương pháp phổ biến rộng rãi tinh thần kính thiên. Căn bản của đạo Khổng là nhân và nghĩa, không phải “công” (không thiên lệch) như Tống Nho chủ trương. Chủ trương của Khổng học: che dấu tội cho người thân là hợp nghĩa!
Chú thích: Trong sách “Khổng Tử và Luận Ngữ” của Nguyễn Hiến Lê chia chương này thành 3 bài giống như sách “Luận Ngữ Tập Chú” của Chu Hy. Trong “Luận Ngữ Cổ Nghĩa” của Itô Jinsai chia chương này thành 4 bài. Ở đây theo phân chia bài của cụ Lê. Do đó Bài 1 (a,b) của Jinsai tương ứng với 2 phần đầu Bài 1 của cụ Lê, và Bài 2 của Jinsai tương ứng câu cuối cùng Bài 1 trong sách cụ Lê.
Bài 20.1 (a)
Nghiêu viết: “Tư! Nhĩ Thuấn, thiên chi lịch số tại nhĩ cung, doãn chấp kỳ trung. Tứ hải khốn cùng, thiên lộc vĩnh chung”. Thuấn diệc dĩ mệnh Vũ.
堯 曰:咨!爾 舜!天 之 曆 數 在 爾 躬,允 執其 中!四 海 困 窮,天 祿 永 終。舜 亦 以 命 禹。
Dịch
(Khi nhường ngôi cho ông Thuấn) vua Nghiêu bảo: “Hỡi ông Thuấn, mệnh trời tuần hoàn, nay ngôi vua về ông; ông nên thành thực giữ đạo trung chính. Nếu dân trong bốn bể khốn cùng, thì lộc trời (ban cho ông) sẽ mất hẳn đấy. (Về sau) vua Thuấn lại truyền những lời đó cho vua Vũ.
Chú thích
1) “Nghiêu viết... thiên lộc vĩnh chung”. “Tư” là tiếng để diễn tả lòng cảm thán. “Lịch số” là dựng lên thứ tự của thời tiết và khí hậu của năm, dùng để hướng dẫn dân các thời kỳ làm nông nghiệp. “Tại nhĩ cung” phụ giúp người dân sống thích hợp với quy luật tự nhiên (đạo của trời đất) (Trích dẫn từ kinh Dịch, tượng văn của”thái”); trong kinh Thư viết “người thay trời là” (bởi vì ngày xưa quan niệm vua là thiên tử, con của trời) (thiên Cao Đào Mô: “thiên công nhân kỳ đại”) là ý này.
“Doãn” là “tín” (sự thật). “Trung” là tiếng để chỉ trạng thái không thừa mà cũng không thiếu (vừa đủ, đúng mức độ cần thiết). Nếu như người trên thế giới (tứ hải) khổ sở trong cuộc sống thì hạnh phúc trời ban cho vị vua sẽ mất vĩnh viễn, đây là lời vua Nghiêu cảnh giác vua Thuấn. Đây là lời vua Nghiêu ra lệnh khi nhường ngôi lại cho vua Thuấn, là lời được kèm theo khi truyền ngôi vua.
“Thuấn diệc dĩ mệnh Vũ.” Về sau khi vua Thuấn truyền ngôi cho vua Vũ, ông cũng dùng câu nói trên ra lệnh cho vua Vũ.
Giải thích
Đạo của các thánh nhân thời thượng cổ bởi vì thật là rộng lớn mênh mông, nội dung quá trung chính (1) nên không khít khao với các quan hệ trong sinh hoạt xã hội, đôi lúc có chỗ không thích hợp với việc quản trị quốc gia. Do đó, vua Nghiêu mới ra mệnh lệnh cho vua Thuấn bằng lời sau “Doãn chấp kỳ trung (Hãy giữ cho chắc đạo trung chính)”. Và vua Thuấn rất thông hiểu nguyên lý mọi sự việc trên đời cũng như rất rõ ràng các quan hệ con người trong xã hội, ông quản trị quốc gia và dân chúng theo tinh thần nhân nghĩa sẵn có của ông chứ không vì sự tốt đẹp của nhân nghĩa mà thử làm (2). Đó là lý do vua Thuần tiếp nhận đầy đủ đạo của vua Nghiêu (nghĩa là phương châm chính trị của vua Nghiêu).
Ghi chú
(1) Nguyên văn là “trung hành 中 行”.
(2) Lời này Jinsai dùng lời trong bài 19 chương 8 Ly Lâu hạ của sách Mạnh Tử, nguyên văn: “Thuấn minh ư thứ vật, sát ư nhân luân, do nhân nghĩa hành; phi hành nhân nghĩa dã 舜 明 於 庶 物,察 於 人 倫;由 仁 義 行,非 行 仁 義 也。”
Bàn thêm
Trong thiên Đại Vũ Mô của sách Cổ Văn Thượng Thư cũng có ghi lời trong bài này tuy nhiên sách này thêm các từ “nhân tâm 人 心 (tâm có lòng ham muốn riêng tư), đạo tâm 道 心 (tâm đúng đắn do trời ban phú), tinh nhất 精 一(tâm thuần túy không có thứ khác xen vào), nguy vi 危 微 (nhân tâm thì không ổn định, đạo tâm thì mờ mịt không rõ ràng). Tuy nhiên, ở chương này của sách Luận Ngữ chỉ nói “Thuấn diệc dĩ mệnh Vũ” (Vua Thuấn cũng lại mệnh lệnh cho vua Vũ), nội dung mệnh lệnh của vua Thuấn cho vua Vũ chỉ gồm có 22 chữ như sau “Tư! Nhĩ Thuấn, thiên chi lịch số tại nhĩ cung, doãn chấp kỳ trung. Tứ hải khốn cùng, thiên lộc vĩnh chung”, không có các từ vi nguy, tinh nhất... Chúng ta có thể hiểu rõ như vậy.
Các Nho gia đời Tống, đời Minh nghi ngờ phải chăng thiên Đại Vũ Mô thật sự không phải của Cổ Văn Thượng Thư, có người cho là ngụy tác (tác phẩm giả tạo) của Nho gia đời Hán. Có lẽ người nào đó bắt chước lời viết trong lục kinh hoặc Luận Ngữ, Mạnh Tử rồi ăn cắp các câu trong các sách này để tô điểm thêm.
Trong sách Tuân Tử cũng trích 2 câu “Nhân tâm chi nguy” , “Đạo tâm chi vi” và nói “Trong“Đạo Kinh” nói như vậy” (trong thiên 21 Giải Tế của sách Tuân Tử). Tuy nhiên sách này không nói “trong “Ngu Thư” nói như vậy” nên chúng ta hiểu rõ lời này vốn không phải lời tiếp nhận từ vua Nghiêu, vua Thuấn.
Tôi (Jinsai) nghĩ rằng vào đời Đường (vua Nghiêu), đời Ngu (vua Thuấn), nội dung nghị luận bình dị, thành thật không tô điểm màu mè, chủ yếu nghị luận trong phạm vi về cách phân biệt xấu tốt của con người, thiện ác của chính trị, không có nghị luận về quan hệ giữa tâm và tính của người hoặc đặc tính không ổn định rõ ràng của bản tính con người như thời sau này thường nghị luận.
Từ nhận định trên thiên Đại Vũ Mô nói trên thật ra là do Nho gia đời Hán lập ra, lời của vua Nghiêu, vua Thuấn ra trong mệnh lệnh chỉ gồm có 22 chữ như đã nói ở trên.
Nhận xét
(1) Phần đầu Giải thích (của Jinsai) từ “nội dung quá trung chính... “Doãn chấp kỳ trung” giảng giải không cụ thể, khó hiểu, cần tìm hiểu thêm. Bởi vì Jinsai chủ trương “trung” là thích đáng, vừa đúng chứ không phải “trung bình” hoặc “không thiên lệch”.
(2) Ý trong lời “do nhân nghĩa hành; phi hành nhân nghĩa dã” câu này hơi khó hiểu nhưng ý nghĩa rất thâm thúy. Ý nghĩa là làm điều tốt do lòng nhân nghĩa sẵn có hoặc do bẩm sinh, do tự nhiên chớ không phải vì thánh nhân hoặc người đời cho rằng nhân nghĩa tốt mà làm. Điểm khác của phần trước và phần sau của câu này như sau: “phần trước” (của câu nói) là lòng nhân nghĩa đã có sẵn trong người của vua Thuấn, do bẩm sinh hoặc đã tập luyện thấm nhuần như thói quen không cần phải đắn đo lợi hại. Trong khi “phần sau” là mục tiêu hướng tới hoặc mục đích của việc làm. Trong trường hợp này có thể vì mục đích hoặc lòng muốn làm cho bằng được mà nhiều khi việc làm lại trái ngược với nhân nghĩa mà bản thân không biết! Khó là ở điểm này!
Bài 20.1 (b)
Viết: “Dư tiểu tử Lý, cảm dụng huyền mẫu, cảm chiêu cáo vu hoàng hoàng hậu Đế: Hữu tội bất cảm xá. Đế thần bất tế, giản tại Đế tâm. Trẫm cung hữu tội, vô dĩ vạn phương; vạn phương hữu tội, tội tại trẫm cung.”
Chu hữu đại lại, thiện nhân thị phú. Tuy hữu chu thân, bất như nhân nhân. Bách tính hữu quá, tại dư nhất nhân.”
Cẩn quyền lượng, thẩm pháp độ, tu phế quan, tứ phương chi chính hành yên. Hưng diệt quốc, tu phế quan, kế tuyệt thế, cử dật dân, thiên hạ chi dân qui tâm yên. Sở trọng: Dân, thực, tang, tế.
曰:予 小 子 履,敢 用 玄 牡,敢 昭 告 於 皇 帝:有 罪 不 敢 赦,帝 臣 不 蔽,簡 在 帝 心!朕 躬 有 罪,無 以 萬 方;萬 方 有 罪,罪 在 朕 躬。
周 有 大 賚,善 人 是 富。雖 有 周 親,不 如 仁 人;百 姓 有 過,在 予 一 人。 謹 權 量,審 法 度,修 廢 官,四 方 之 政 行 焉。興 滅 國,繼 絕 世,舉 逸 民,天 下 之 民 歸 心 焉。 所 重 民,食,喪,祭。
Dịch
(Khi lên ngôi – có sách giảng là nhân một lần đảo vũ) (vua Thành Thang) cáo (với Trời): “Đứa tiểu tử (con nhỏ) này tên là Lý, mạo muội dùng con bò đực đen để tế, mạo muội cáo bạch với Thượng Đế chí tôn chí cao rằng: “Kẻ có tội (có sách bảo đây ám chỉ vua Kiệt), tiểu tử không dám tha. Nhưng kẻ bề tôi của Thượng Đế ai thiện, ai ác, tiểu tử không dám giấu, vì lòng Thượng Đế rõ rồi. (Bản thân trẫm....) Nếu trẫm có tội, xin đừng để lụy đến dân chúng bốn phương, nếu dân bốn phương có tội thì đó là tội của trẫm”.
(Sau khi Võ vương diệt Trụ) nhà Chu được trời thưởng lớn, nên có nhiều người thiện. (Và những người này được Võ vương phong làm vua chư hầu). (Khi phong Tề Thái công, Võ vương bảo:) “Tuy có người thân thích rất gần, cũng không bằng có người nhân đức. Trăm họ có lỗi, đều tại một mình ta (không biết giáo hoá).”
(Võ vương) định lại cẩn thận cái cân và đồ đo lường, chế định pháp độ, khôi phục lại những quan chức đã bị (vua Trụ) bãi bỏ, chính lệnh trong thiên hạ được thi hành. Ông phục hưng những nước chư hầu đã bị diệt, cho người nối tiếp những dòng họ đã bị tuyệt, đề bạt những người ẩn dật có tài đức nên nhân dân khắp nơi qui phục. Ông coi trọng những việc này nhất: Thương dân, lương thực, tang lễ, tế tự.
Chú thích
1) “Viết: “Dư tiểu tử Lý, ...vu hoàng hoàng hậu Đế””. Chu thị (tức Chu Hy) nói “Trên chữ “Viết” phải có chữ “Thang” (tên vua nhà Ân) là đúng. “Lý” là tên của vua Thành Thang của nhà Ân. Nhà Ân xem màu trắng là màu tốt lành mà ở đây dùng bò đực đen để tế lễ bởi vì lúc đó chính quyền mới chưa đổi quy định lễ của nhà Hạ (Hạ là triều đại trước đó. Nhà Hạ xem màu đen là cấp bậc cao). “Hoàng hoàng” là tiếng để diễn tả sự vĩ đại. “Hậu” là vua, dùng để chỉ thiên đế (thần của trời). Nội dung câu này rõ ràng là tấu lên thần của trời ý hướng muốn chinh phạt vua Kiệt của nhà Hạ.
2) “ “Hữu tội bất ... giản tại Đế tâm.”” “Giản” là duyệt, nghĩa là chọn lựa. “Hữu tội” là chỉ vua Kiệt. “Đế thần bất tế” (Đế thần là người tài có đức độ, bất tề là bổ nhiệm) có lẽ để chỉ Y Doãn (công thần của vua Thang). Câu này ý nói việc xấu tốt của thiên hạ không phải do xử lý của vua mà chỉ do lòng trời chọn lựa
3) “Trẫm cung hữu tội... tội tại trẫm cung”.” Tất cả đều là lời bẩm báo lên trời. “Vô dĩ vạn phương” nghĩa là không có việc giáng tai hại và hạnh phúc xuống cho dân. Dân có tội thì đó chính là vua gây ra nguyên nhân, do đó trời nên phạt tội vua, không nên phạt tội dân. Câu này hiện nay có trong thiên Thang Cáo của sách Cổ Văn Thượng Thư. Tuy nhiên trong (thiên Kiêm Ái hạ) sách Mặc Tử cũng có trích dẫn “vạn phương hữu tội” và được cho là trích từ thiên “Thang Thệ” (Jinsai căn cứ theo Luận Ngữ Tập Giải của Khổng An Quốc nên cho rằng từ xưa đã có thiên Thang Thệ nên nói thiên Thang Cáo là ngụy tạo. Tuy nhiên trong sách Mặc Tử hiện nay viết là Thang Cáo). Do đó, sách Cổ Văn Thượng Thư càng đáng nghi ngờ.
4) “Chu hữu đại lại... thiện nhân thị phú.” Hà thị (tức Hà Yến) giải thích “Chu” là dòng họ vua của nhà Chu, “lại” là “tứ” nghĩa là trời ban cho. Câu này ý nói dòng họ vua nhà Chu nhận được nhiều ơn trời, được trời ban phú trong các bề tôi có nhiều người tốt. (Trong thiên Thái Thệ của kinh Thư) viết “Hữu thập loạn thần (1)” (có 10 bề tôi trị thiên hạ giỏi) là để chỉ điều này.
5) “Tuy hữu chu thân, bất như nhân nhân.” Khổng thị (Khổng An Quốc) nói như sau “Dù cho cùng một dòng tộc mà không trung nghĩa, không phải là người tài đức thì cũng chống đối hoặc giết hại người thân vì lợi ích riêng tư. Quản Thúc (Quản Thúc Tiên, tên Cơ Tiên) là và Thái Thúc (Thái Thúc Độ, tên Cơ Độ) (cả 2 đều là em của Võ vương) là thí dụ xấu này. “Nhân nhân (người có đức nhân)” là Cơ tử và Vi tử (Bài 1 chương 18 Vi Tử ). Về sau cả 2 đều đến dưới trướng của Võ vương và được bổ nhiệm làm quan.
6) “Bách tính hữu quá, tại dư nhất nhân.” Ý của Võ vương là nói hãy trị tội 1 mình ông thôi.
7) “Cẩn quyền lượng... tứ phương chi chính hành yên.” “Quyền” là quả cân của cái cân đo trọng lượng. “Lượng” là chén dùng để đo dung tích của gạo hoặc chất lỏng. “Pháp độ” là tất cả các chế độ quy định lễ nghi và âm nhạc. Thời xưa, quan chức là cha truyền con nối nên con cháu trân trọng tuân giữ pháp độ. Nếu như quan chức đó bị phế bỏ thì việc quản trị địa phương bị trống không. Do đó các chức quan được chuẩn bị.
8) “Hưng diệt quốc... chi dân qui tâm yên.” Chu thị (Chu Hy) nói như sau. ““Hưng diệt kế tuyệt” là phong các con cháu hậu duệ của các vua Hoàng Đế, Nghiêu Thuấn, Hạ, Thương (Ân) làm chư hầu. “Cử dật dân” là phóng thích Cở tử đã bị vua Trụ tù đày, bổ nhiệm lại Thương Dung (quan đại phu thời vua Trụ, bị đuổi đi vì can gián) làm quan đại phu. Cả 3 việc, việc nào cũng là nguyện vọng của dân chúng.”
9) “Sở trọng: Dân, thực, tang, tế.” Khổng thị (Khổng An Quốc) nói như sau. “Điều mà bậc đế vương xem trọng là 4 điều nói trong bài. Xem trọng dân bởi vì dân là căn bản của quốc gia. Xem trọng thực bởi vì thực là gốc sinh mệnh của dân. Xem trọng tang bởi vì tang đủ cho thấy tâm tình buồn đau. Xem trọng tế bởi vì tế (lễ cúng) là cơ hội để diễn tả hết tấm lòng kính trọng.” Nội dung trên là nói về việc làm của Võ vương. Thử nghĩ, lời của Võ vương hiện nay thấy được ở trong các thiên như Võ Thành, Thái Thệ ...Tuy nhiên, các lời của Võ vương ở trong sách Cổ Văn Thượng Thư có rất nhiều chỗ không ăn khớp với nhau, và có nhiều Nho gia có nghi vấn. Do đó, ở đây tôi không trích dẫn Cổ Văn Thượng Thư để giải thích các bài ở chương này.
Ghi chú
(1) Nên lưu ý trong tự điển tiếng Nhật thông thường như Hán Tự Điển Obunsha, Digital Đại Từ Tuyền đều ghi “Loạn thần 乱 臣” có 2 nghĩa trái ngược nhau: 1) bề tôi là mưu tính việc phản nghịch làm rối loạn quốc gia, còn gọi là “nghịch thần”; 2) bề tôi quản trị quốc gia giỏi (loạn: trị giỏi). Trong Hán Việt Tự Điển của Thiều Chửu ghi nghĩa thứ 7 của “loạn” là trị yên. Tiếng Hán thật khó, dễ hiểu sai!
Trong khi từ điển tiếng Việt như Từ Điển Hán Việt của Đào Duy Anh, Hán Việt Tân Từ Điển của Nguyễn Quốc Hùng chỉ ghi nghĩa đầu. Trong Đại Tự Điển Hán Việt của Trần Văn Chánh (2022) ghi nghĩa thứ 11 của “loạn” là cai trị. Thí dụ, “Kỳ năng nhi loạn tứ phương”: Ông ấy có khả năng cai trị bốn phương (trích dẫn: Thượng Thư: Cố Mệnh)
Giải thích
Dương thị (Dương Thì) nói như sau. “Nội dung ghi lại trong sách Luận Ngữ đều là của thánh nhân (Khổng tử) nên lời nói có ý nghĩa vi diệu sâu xa, các đệ tử của phu tử đã trân trọng giữ gìn truyền đạt lại, nhờ đó mà tư đạo 斯 道 (lời dạy của thánh nhân) được hiểu rõ. Do đó chương cuối cùng của sách ghi chép lại các lời khuyên nhủ, mệnh lệnh của vua Nghiêu, vua Thuấn, chí hướng, lời thề với quân sĩ, những sự tích đã được thực hiện cụ thể trong các chính sách trị quốc của vua Thang, vua Võ để làm rõ rằng nội dung mà Khổng học truyền đạt lại trong sách nhất trí với nội dung của bài này. Đồng thời nội dung của bài này cũng nói lên đại ý của 20 chương của Luận Ngữ.”
Đạo (triết lý căn bản chính trị) của các vua Nghiêu, vua Thuấn, vua Võ (Võ vương) là không ngoài 2 điều: kính thiên và trọng dân (trân trọng dân chúng). Và kính thiên là căn bản của triết lý chính trị này. Do đó, trong bài có các câu “thiên chi lịch số tại nhĩ cung”, “giản tại Đế tâm”, “Chu hữu đại lại”, câu nào cũng cho thấy thái độ kính thiên.
Nói chung, khen thưởng việc tốt, trừng phạt việc xấu, nghiêm trách bản thân, tha thứ độ lượng người khác đều là phương pháp phổ biến rộng rãi tinh thần kính thiên này.
Lý do phu tử (Khổng tử) tiếp nhận và phát triển đạo của vua Nghiêu, vua Thuấn cũng như làm rõ ràng các mẫu mực đạo của Văn vương và Võ vương cho người đời hiểu cũng là không ngoài việc phổ biến rộng rãi tinh thần kính thiên nói trên.
Bài 20.1 (c)
Khoan tắc đắc chúng, tín tắc dân nhiệm yên, mẫn tắc hữu công, công tắc duyệt.
寬 則 得 眾,信 則 民 任 焉。敏 則 有 功,公 則 說。
Ghi chú: Bài này tương đương Bài 20.2 của Jinsai.
Dịch
(Võ vương) khoan hậu nên được lòng người, thành thực nên được trăm họ tín nhiệm, cần mẫn nên thành công, công bình nên mọi người vui vẻ.
Chú thích
Chữ “công” 公 không có trong sách Luận Ngữ ở các bài khác (“công” với nghĩa là “của chung” phản nghĩa của “tư” (của riêng), ngoài ở trong bài này không có ở các bài khác; chỉ có để chỉ chức quan lại). So sánh lời của bài này vớ Bài 6 chương 17 Dương Hóa (theo Cổ Nghĩa là Bài 5) thì chữ “công” nên sửa đổi sang chữ “huệ” 惠.
Giải thích
Trong phiên bản của sách Luận Ngữ xuất bản trước đây thì bài này được sắp xếp vào Bài 1. Tuy nhiên, nội dung của bài này không có liên quan về sự tích của Võ vương. Hơn nữa, Khi so sánh bài này với nội dung của Tử Trương hỏi về đức nhân trong Bài 6 chương 17 Dương Hóa thì đại khái giống nhau, trừ đi 1 nửa phần đầu. Ở Bài 17.6 thì trước “Khoan tắc đắc chúng” là “Cung tắc bất vũ” (Cung kính thì không bị khinh nhờn). Có lẽ bởi vì bài kế trong chương này cũng là câu hỏi Khổng tử của Tử Trương nên sai lầm, ghi lại 2 lần.
Ghi chú
Bài 16. 6 như sau:
“Tử Trương vấn nhân ư Khổng tử. Khổng tử viết: “Năng hành ngũ giả ư thiên hạ, vi nhân hĩ” “Thỉnh vấn chi”. Viết: “Cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Cung tắc bất vũ, khoan tắc đắc chúng, tín tắc nhân nhiệm yên, mẫn tắc hữu công, huệ tắc túc dĩ sử nhân.”
Bàn thêm
Học thuyết của Tống Nho thường xem trọng đề tài về chữ “công” 公. Thí dụ chữ “công” trong các câu như sau “Thiên lý chi công 天 理 之 公” (nghĩa là lẽ trời không có thiên lệch), “Công nhi dĩ nhân thể 公 而 以 人 体” (nghĩa là lấy sự không thiên lệch làm lập trường của con người) (Trình Y Xuyên Ngôn Lục, Cận Tư Lục, quyển 2). Tuy nhiên, chữ “công” xuất hiện nhiều lần trong các sách Lão Tử và Trang Tử nhưng không được sử dụng trong kinh sách (Luận Ngữ) của các thánh nhân (Khổng Tử) mà chúng tôi tôn sùng. Lý do như sau. “Công” có nghĩa đối với điều đúng thì cho là đúng, đối với điều sai thì cho là sai, một ít không công bình cũng không có. Tuy nhiên nếu cho rằng không có sự phân biệt giữa ruột thịt và người dưng (không họ hàng) là “công” (không thiên lệch) thì nhất định sẽ đem đến việc gây tổn thương đức nghĩa (mặt đạo đức của quan hệ giữa người và người). Bởi vì “Cha vì con mà che dấu điều xấu của con để con không bị tội, con vì cha mà che dấu tội của cha” (Bài 18 chương 13 Tử Lộ). “Trường hợp người nước Việt giương cung định bắn người, bởi vì không liên quan với bản thân mình nên vừa cười vừa kể lại câu chuyện. Tuy nhiên, nếu anh ruột của bản thân mình giương cung định bắn người thì vừa đau khổ vừa khóc mà thuật lại câu chuyện” (Bài 3 chương 12 Cáo Tử hạ, sách Mạnh Tử). Đối với những trường hợp vừa kể không thể gọi là công bình vô tư. Tuy nhiên, đỉnh cao mà đạo Khổng đem đến cho con người chính là tình người. Đó là lý do thánh nhân lập tiêu chuẩn đức nghĩa để phân biệt đúng hay không khi hoàn thành tình yêu thương con người bằng đức nhân (nghĩa là, nhân và nghĩa là căn bản của đạo làm người) . Điều này giống như đạo của trời có dương và âm, đạo của đất có cương và nhu (tư tưởng theo thiên Thuyết Quái của kinh Dịch). Đạo không thể chỉ có 1 trong 2. Do đó, nếu hợp với đức nhân mà không hợp với đức nghĩa thì đó là nhân của Mặc tử, (đối với người của Khổng môn) không thể thực hiện được. Nếu hợp với đức nghĩa mà không hợp với đức nhân thì đó chỉ là nghĩa của chủ trương Dương tử (tức Dương Chu), (đối với người của Khổng môn) không thể tuân theo được. Nếu như hợp cả nhân và nghĩa thì không cần phải chờ nói đến “công” mà tự nhiên là không có sự thiên vị riêng tư (nghĩa là che dấu cho người thân là hợp với nghĩa, không phải thiên vị vì riêng tư).
Nhận xét
(1) Chủ trương của Khổng học “Che dấu tội cho người thân là hợp nghĩa” đúng là hợp với tình người nhưng đúng hay sai thật sự là điều khó kết luận đối với người dịch. Điều có thể nói là tùy theo trình độ của tội và thái độ của người thân sau khi phạm tội, cụ thể là biết hối cải hay không.
Một bài học khác là nhắc nhở mỗi người chúng ta nên biết tự học hỏi luôn cảnh giác giữ lấy mình sống cho tốt để tránh gây cho người thân khó xử. Đồng thời ngoài việc tu dưỡng bản thân còn cần phải lưu tâm đến vấn đề giáo dục con cháu và nhắc nhở người thân sống tốt để tránh trường hợp khó xử xảy ra.,
Bài 20.2 Giữ 5 điều tốt: ban ơn nhưng không phí, bắt dân đóng góp nhưng quá đáng, muốn nhưng không tham, thành công nhưng kiêu căng, uy nghi nhưng không nghiêm khắc dữ tợn, và loại bỏ 4 điều xấu: không dạy mà trừng trị, không báo trước mà bắt hoàn thành gấp, lúc đầu để chểnh mảng sau lại định kỳ hạn gắt gao, và không giữ lời hứa, thì có thể quản trị dân
Tử Trương vấn ư Khổng Tử viết: “Hà như, tư khả dĩ tòng chính hỹ”. Tử viết: “Tôn ngũ mỹ, bính tứ ác, tư khả dĩ tòng chính hỹ”. Tử trương viết: “Hà vị ngũ mỹ?” Tử viết: “Quân tử huệ nhi bất phí, lao nhi bất oán, dục nhi bất tham, thái nhi bất kiêu, uy nhi bất mãnh”. Tử Trương viết: “Hà vị huệ nhi bất phí?” Tử viết: “Nhân dân chi sở lợi nhi lợi chi, tư bất diệc huệ nhi bất phí hồ? Trạch khả lao nhi lao chi, hựu thùy oán? Dục nhân nhi đắc nhân, hựu yên tham? Quân tử vô chúng quá, vô tiểu đại, vô cảm mạn, tư bất diệc thái nhi bất kiêu hồ? Quân tử chính kỳ y quan, tôn kỳ chiêm thị, nghiễm nhiên nhân vọng nhi uy chi, tư bất diệc uy nhi bất mãnh hồ?” Tử Trương viết:“Hà vị tứ ác?” Tử viết:“Bất giáo nhi sát, vị chi ngược; bất giới thị thành, vị chi bạo; mạn lệnh trí kỳ, vị chi tặc; do chi dữ nhân dã, xuất nạp chi lận, vị chi hữu ty.”
子 張 問 於 孔 子 曰:何 如 斯 可 以 從 政矣? 子 曰:尊 五 美,屏 四 惡,斯 可 以 從 政矣。 子 張 曰:何 謂 五 美? 子 曰:君 子 惠 而 不 費,勞 而 不 怨,欲 而 不 貪,泰 而 不 驕,威 而 不 猛。子 張 曰:何 謂 惠 而 不 費? 子 曰:因 民 之 所 利 而 利 之,斯 不 亦 惠 而 不 費 乎?擇 可 勞 而 勞 之,又 誰 怨?欲 仁 而 得 仁,又 焉 貪?君 子 無 眾 寡,無 小 大,無 敢 慢,斯 不 亦 泰 而 不 驕 乎?君 子 正 其 衣 冠,尊 其 瞻 視,儼 然 人 望 而 畏 之,斯 不 亦 威 而 不 猛乎? 子 張 曰:何 謂 四 惡?子 曰:不 教 而 殺 謂 之 虐;不 戒 視 成 謂 之 暴;慢 令 致 期 謂 之賊;猶 之 與 人 也,出 納 之 吝,謂 之 有 司。
Dịch
Tử Trương hỏi Khổng tử: “Thế nào thì có thể tòng chính (gánh việc được) được?” Khổng tử đáp: “Phải trọng năm điều tốt, trừ bốn điều xấu thì có thể tòng chính được”. Tử Trương hỏi: “Thế nào là năm điều tốt?” Khổng tử đáp: “Người quân tử ban ân huệ cho dân mà không hao tốn, khiến dân làm việc khó nhọc mà dân không oán, có lòng muốn mà dân không tham, thư thái mà không kiêu căng, uy nghiêm mà không dữ tợn”. Tử Trương hỏi: “Thế nào mà ban ân huệ cho dân mà không hao tốn?…”. Khổng tử đáp: “Nhân cái lợi của dân mà làm lợi cho dân (chẳng hạn dân ở miền núi, miền biển… cái lợi của núi, của biển, khuếch trương những lợi đó cho dân) thì chẳng phải là ban ân huệ cho dân mà không hao tốn ư? Chọn việc phải làm và lúc nào đáng làm mà khiến cho dân làm, như vậy thì ai oán? Muốn có điều nhân mà được điều nhân thì còn gì mà tham? Người quân tử đối với dân, chẳng kể là đám đông hay ít, người lớn hay người nhỏ (có người dịch là chẳng kể việc lớn hay việc nhỏ), không dám khinh thường, trễ biếng, như vậy chẳng phải là thư thái mà không kiêu căng ư? Người quân tử mũ áo chỉnh tề, nhìn ngó đoan chính, dáng mạo trang trọng, ai trông thấy cũng kính sợ, như vậy chẳng phải uy nghiêm mà không dữ tợn ư?” Tử Trương hỏi: “Thế nào là bốn điều xấu?” Khổng tử đáp: “Không giáo hoá dân, để dân phạm tội rồi giết, như vậy là tàn ngược; không cắt đặt, răn bảo trước mà muốn có thành tích, như vậy là hung bạo; khi ra lệnh thì không bảo là cấp bách rồi đột nhiên bắt dân phải làm xong trong một kỳ hạn gấp, như vậy là hại dân; khi cho dân cái gì mà so đo bỏn xẻn với dân, như vậy là có thói nhỏ nhen của một viên chức thấp (hữu ty)”
Chú thích
1) Theo Khổng thị (Khổng An Quốc), “bính” trong “bính tứ ác” nghĩa là sự loại bỏ đi.
2) “Tử Trương viết: “Hà vị ngũ mỹ?” Tử viết: “Quân tử huệ nhi bất phí, lao nhi bất oán”. Hai việc: không phung phí ban ơn huệ và không bắt dân đóng góp công sức quá đáng, là trọng yếu của việc quản trị dân.
3) “Dục nhi bất tham, thái nhi bất kiêu, uy nhi bất mãnh”. Ba điều: muốn mà không tham lam, thuận lợi suôn sẻ mà không kiêu căng, và uy nghi mà không khắc khe, là những điểm trọng yếu của việc tu sửa hành động việc làm của bản thân cho đúng. Việc tu sửa hành động việc làm của bản thân cho đúng là căn bản của của việc quản trị dân.
4) “Tử Trương viết: Hà vị huệ nhi bất phí?” Tử viết: “Nhân dân chi sở lợi nhi lợi chi,.... tư bất diệc uy nhi bất mãnh hồ?”. Đối với “huệ” dễ có khuynh hướng ban cho một cách lãng phí; “lao” (dùng sức của dân làm việc công) dễ sinh ra việc dân chúng oán giận; “dục” (lòng ham muốn) dễ sinh ra tham lam; “thái” (thuận lợi suôn sẻ) dễ sinh ra kiêu ngạo; “uy” dễ sinh ra nghiêm ngặt, dữ tợn. Người quân tử không có những khuyết điểm này, nên đó là những điểm tốt.
5) “Tử Trương viết: “Hà vị tứ ác?”... Tử viết: “Bất giáo nhi sát, vị chi ngược””. “Ngược” là tàn khốc bất nhân.
6) “Bất giới thị thành, vị chi bạo” nghĩa là không thông báo trước mà đốc thúc hoàn thành công việc, công trình. (Trong Sư Đơn Truyện của chương 56, quyển 5 sách Hán Thư) gọi việc này là “tốt bạo vô tiệm 卒 暴 無 漸” (nghĩa là thực hiện đột ngột không theo tuần tự)
7) “Mạn lệnh trí kỳ, vị chi tặc”. Chu thị (Chu Hy) nói “trí kỳ” là định ngày hết thời hạn. “Tặc” có nghĩa là làm hại. Nghĩa trong trường hợp này giống như nghĩa “tặc” trong câu“Tặc phù nhân chi tử” (làm hư hại con người (của Tử Cao) trong bài 24 chương 11 Tiên Tiến). Ý nói khi mới bắt đầu công trình thì để cho chậm rãi giữa chừng lại bắt dân phải gấp rút lên, cách làm như vậy là hại dân.
8) “Do chi dữ nhân dã, xuất nạp chi lận, vị chi hữu ty.” Chu thị (Chu Hy) nói như sau. “Khi nói thì nói phân chia các đồ vật đồng đều cho mọi người nhưng khi thực hiện thì lại tiếc của không giữ lời hứa. Đây là cách làm của các chức quan thấp không phải là việc làm của những nhà chính trị hoặc quan chức lớn như vua hoặc tể tướng.”
Giải thích
Ý của bài này là chính trị là lấy đức nhân làm căn bản và cảnh giác không nên bất nhân. Nội dung của bài này phải nói là quá dài nhưng điểm trọng yếu xuất phát từ 2 điểm nói trên, người học cần phải nhận rõ ra điều này.
Bài 20.3 Hiểu sống để làm gì (tri mệnh), giữ lễ (tri lễ), hiểu lời của người khác (tri ngôn) là cơ sở căn bản để sống tốt.
Tử viết: “Bất tri mệnh, vô dĩ vi quân tử dã. Bất tri lễ, vô dĩ lập dã. Bất tri ngôn, vô dĩ tri nhân dã.
子 曰:不 知 命,無 以 為 君 子 也;不 知 禮,無 以 立 也;不 知 言,無 以 知 人 也。
Dịch (của NHL)
Khổng tử nói: “Không biết mệnh trời thì không phải là người quân tử; không biết lễ thì không biết cách đi đứng ở đời (hoặc không biết lập thân trong chính đạo); không biết phân biệt lời nói của người thì không hiểu người.”
Dịch (của người biên dịch)
Khổng Tử nói: “Không biết mệnh trời thì không biết lấy gì để căn cứ theo đó mà làm người quân tử được. Không biết lễ thì không biết lấy gì để căn cứ theo đó mà sống thành công trong xã hội. Không biết ý nghĩa muốn nói của người khác thì không biết lấy gì để căn cứ vào đó mà hiểu biết tâm tư tình cảm của người khác.”
Chú thích
1) “Tử viết: “Bất tri mệnh, vô dĩ vi quân tử dã.””Đối với trời, chắc chắn có cái lý (nguyên tắc, quy luật) để trời ban phúc hoặc trao họa. Đối với con người, có cái đạo để tự bản thân mình đem tới phúc hay họa. Do đó, nếu như hiểu rõ tính cách của thiên mệnh (mệnh trời) thì sống vui vẻ, không có lo lắng quá mức, và không có việc lười biếng hoặc úy sợ mệnh trời. Đây là căn bản của người quân tử.
2) “Bất tri lễ, vô dĩ lập dã.” Nếu lấy thân thể con người làm tỉ dụ, thì lễ là bộ xương. Do đó, nếu biết rõ thế nào là lễ thì sẽ được xã hội xem là 1 con người đã trưởng thành thật sự.
3) “Bất tri ngôn, vô dĩ tri nhân dã.” Lời nói là dấu hiệu xuất hiện ở bên ngoài của con người. Do đó, nếu hiểu lời nói của người nói thì có thể hiểu tính cách, suy nghĩ bên trong của con người đó
Giải thích
Phụ Quảng 輔 廣nói như sau: “Nếu biết rõ thiên mệnh thì tự bản thân sẽ trở nên có cách nhìn cách suy nghĩ nhất định về sự vật, nghĩa là có rõ nhân sinh quan về cuộc sống. Nếu hiểu rõ lễ là gì thì sẽ trở nên biết giữ gìn hành vi, việc làm của mình theo một khuôn khổ nhất định. Nếu hiểu ý nghĩa của ngôn từ (của người khác) thì không làm tổn thương tâm tình của người khác. Nếu hiểu rõ hết cả thiên mệnh, lễ và ngôn từ thì về mặt nội tâm đủ để hoàn thành đức của bản thân và về mặt đối với bên ngoài, mặt xã hội thì đủ để nắm hết tâm tình suy nghĩ của người khác. Do đó, có được 3 đức này thì đủ để làm người quân tử”.
Duẫn thị (Duẫn Phanh 尹 焞, 1071~1142) nói như sau. “Các đệ tử của Khổng tử ghi lại lời của Khổng tử để làm bài cuối cùng cho sách Luận Ngữ có ý nghĩa quan trọng tương ứng (của bài cuối cùng). Người học lúc trẻ đọc Luận Ngữ và khi tuổi đã cao nếu không phát hiện ra việc: dù cho 1 chữ của sách mà không nghĩ là có thể thực hiện trong thực tế thì hầu giống như xem thường lời nói của thánh nhân. Là tội nhân đối với Khổng tử. Do đó luôn luôn cần phải để tâm suy nghĩ về nội dung từng chữ của sách.
Nhận xét
(1) Hay thay cho 3 điều: tri mệnh, tri lễ, tri ngôn! Ngắn gọn nhưng chứa đầy đủ cơ sở của cách sống ở đời. “Tri mệnh” là biết phương châm sống, biết bản thân nên sống để làm gì, định phương hướng đi của cuộc đời mình.
“Tri lễ” là biết cách ứng xử với người trong xã hội như thế nào để được thuận lợi suông sẻ trong cuộc sống, để cho người khác tôn trọng và yêu thương mình. Bởi vì đối với con người, 1 mình không thể sống an vui. Người dịch nghĩ rằng cơ sở của lễ là lòng biết ơn người khác. Có người nghĩ rằng trọng lễ là trọng hình thức, trọng bề ngoài, không thật lòng, không thật tình. Không phải như vậy nếu chúng ta thực hiện lễ với lòng biết ơn thật sự. Dĩ nhiên, ơn đó có nhiều cấp bậc. Ít nhất giữ lễ giúp chúng ta tránh được nhiều phiền toái vô ích. Và điều quan trọng cần nên hiểu ý nghĩa thực sự của lễ là gì! Đến mãi về sau này sống lâu ở Nhật Bản, người dịch mới hiểu cái hay của Khổng học là xem trọng việc học và giữ lễ!
“Tri ngôn” không phải là hiểu ngôn ngữ mà là hiểu nội dung của người khác muốn truyền đạt qua lời nói hay văn từ của họ. Mới đầu người dịch không hiểu ý này nên cho rằng nhận xét của Phụ Quảng không hiểu tầm quan trọng và khó khăn của việc truyền đạt ý tưởng bằng ngôn ngữ giữa người và người. Qua việc dịch thuật người dịch phát hiện: 1) đối với một từ ngữ, có nhiều trường hợp có nhiều nghĩa, đôi lúc cùng 1 từ có 2 nghĩa hoàn toàn đối ngược nhau, 2) mỗi người dùng ngôn từ với cách hiểu riêng của họ, ngay cả trong các từ điển đôi lúc cũng có sự khác biệt. Đó chỉ là ý nghĩa của từ vựng. Ngoài ra, còn cách diễn tả, có người diễn tả không chính xác điều họ muốn nói nên có thể làm người tiếp nhận hiểu sai ý của họ là việc thông thường. Tóm lại hiểu được tâm ý tình cảm của người khác là việc rất quan trọng để sống hoặc sinh hoạt chung nhưng hiểu rõ ngôn từ của họ muốn truyền đạt không phải dễ!
Biết tâm tình của người khác (tri ngôn), biết cách ứng xử với họ (tri lễ) và biết mình phải đi về đâu (tri mệnh) không phải là cở sơ căn bản nhất của cuộc sống sao?
Bài 20.1 trong Luận Ngữ Trưng
Nghiêu viết: “Tư! Nhĩ Thuấn, thiên chi lịch số tại nhĩ cung, doãn chấp kỳ trung. Tứ hải khốn cùng, thiên lộc vĩnh chung”. Thuấn diệc dĩ mệnh Vũ.
Viết: “Dư tiểu tử Lý, cảm dụng huyền mẫu, cảm chiêu cáo vu hoàng hoàng hậu Đế: Hữu tội bất cảm xá. Đế thần bất tế, giản tại Đế tâm. Trẫm cung hữu tội, vô dĩ vạn phương; vạn phương hữu tội, tội tại trẫm cung.”
Chu hữu đại lại, thiện nhân thị phú. Tuy hữu chu thân, bất như nhân nhân. Bách tính hữu quá, tại dư nhất nhân.”
Cẩn quyền lượng, thẩm pháp độ, tu phế quan, tứ phương chi chính hành yên. Hưng diệt quốc, tu phế quan, kế tuyệt thế, cử dật dân, thiên hạ chi dân qui tâm yên. Sở trọng: Dân, thực, tang, tế.
Khoan tắc đắc chúng, tín tắc dân nhiệm yên, mẫn tắc hữu công, công tắc duyệt.
Giải thích
“Thiên chi lịch số tại nhĩ cung”. Hà Yến nói “Lịch số là thứ tự”. Chu tử căn cứ vào chú giải này nói “Thứ tự truyền ngôi vua của đế vương giống như thứ tự trước sau của các năm và các mùa”. Jinsai nói “Lịch số là ghi chép thời điểm năm, mùa và tiết khí (1 năm có 24 tiết khí như lập xuân, vũ thủy...) để truyền thụ lại cho dân. “Tại nhĩ cung” là phụ giúp dân chúng sống thuận theo đạo của trời đất (tài thành phụ tướng thiên địa chi đạo) (trích dẫn từ Thái Quái Tượng Truyện của kinh Dịch). Trong kinh Thư viết “người thay trời (thiên công nhân kỳ đại chi)” (bởi vì ngày xưa quan niệm vua là thiên tử, con của trời) (thiên Cao Dao Mô) là điều này.”
Sách cổ đại thật là thâm sâu khó hiểu! Tuy nhiên, cả 2 giải thích này đều giống như câu đố không có câu trả lời! Chắc chắn là không việc như vậy! Hơn nữa, giải thích “tài thành phụ tướng” của Jinsai lại cao xa tinh xảo làm sao! Vào thời Đường Nghiêu làm sao có lời như vậy!
Đạo của tiên vương ở cổ đại lấy “phụng thiên” (kính nghe theo mệnh lệnh, ý hướng của trời) làm gốc. Do đó, trong thiên Nghiêu Điển của kinh Thư không có ghi nội dung nói trên chỉ ghi “Khâm nhược hạo thiên” (kính cẩn tuân theo trời xanh) và “thụ nhân thời” (truyền đạt thời đến dân). Việc trong thiên Nghiêu Điển (đúng ra là thiên Cao Dao Mô) dùng chữ “thiên (trời)” trong các từ “thiên tự” (sắp xếp có hàng ngũ của trời), “thiên trật” (trật tự của trời), “thiên công” (việc làm, vận hành của trời) tất cả đều để chỉ hành động của trời. Căn cứ vào nghĩa và hòa đặt ra chức thiên quan để lo việc quản lý cả quốc gia, toàn cung đình, phong chức cho các chư hầu và đặt ra chức tứ nhạc để thống lãnh các chư hầu 4 phương. Đạo của 3 thời đại Đường Ngu Hạ đều là giống nhau. Do đó trong sách Tả Truyện (Trang Công Bát Niên, Hy Công Nhị Thập Tứ và Nhị Thập Thất Niên, Tương Công Nhị Thập Lục Niên), sách Lữ Giám (tức Lã Thị Xuân Thu, thiên Dụ Đại) gọi chung 2 điển và 3 mô là Hạ Thư (kinh Thư của nhà (thời) Hạ), và (trong Bài 10 chương 15 Vệ Linh Công của Luận Ngữ) viết “Khổng tử viết “hành Hạ chi thời” (thi hành vào thời Hạ) như vậy có nghĩa là (lời nói trên) đã có ở thời của vua Nghiêu,vua Thuấn (bởi vì kinh Thư của 3 đời giống nhau như đã nói trên), và cái gọi “lịch số” rốt cuộc để chỉ “đạo chính trị” (đạo trị dân). Do đó ý nghĩa “Hạ chi thời” không phải chỉ để nói “ngày nguyên đán (đầu năm)”. “Lịch số” là do con người lập ra nhưng cái gọi là “thiên chi lịch số” (lịch số của trời) thì lại giống như “thiên tự”,“thiên trật”, “thiên công”. “Tứ nhạc” tức là “Bách quỹỷ 百 揆” (chức quan Tể tưởng, bách quỹ: toan lường trăm việc) (thiên Thuấn Điển, kinh Thư). Đó là nhắc lại tư cách làm “bách quỹ” của vua Thuấn. Do đó một khi đã nói “cung nhiệm kỳ chức” tức là “tại nhĩ cung” (giao cho ông chức này). Cách nói này đã có từ trước.
“Doãn chấp kỳ trung” là để nói “đặt thân vào đế vị (lên ngôi vua)”. Cách giải thích được truyền lại từ trước đến nay cho là “nắm giữ lý (lẽ) không quá đáng và cũng không thiếu” (ý nói cách giải thích của Chu Hy) là sai lầm. “Chấp trung” giống như nắm lấy vị trí khu 樞 (trung tâm, ngôi sao đứng đầu của 7 ngôi sao Bắc Đẩu, Thiên Khu). Ở cổ đại người ta đọc chữ hoàng cực 皇 極là đại trung 大 中 (thiên Hồng Phạm, thiên Ngụy Khổng Truyện trong kinh Thư). Giải thích này được tương truyền từ cổ đại đến đời Hán nên không thể nào sai. Các tiên vương ở cổ đại cung kính tuân theo trời xanh (hạo thiên) để tiếp xúc, quản trị dân chúng. Ở phía trên có trời, ở phía dưới có dân, thiên tử ở chính giữa, nắm giữ khu bính 樞 柄 (quyền thế). Điều này gọi là hoàng cực. Do đó, việc lên ngôi vua gọi là “chấp kỳ trung”. Do đó, nếu không phải vậy, thì tại sao khi Tử Tư viết sách Trung Dung (theo như giải thích của Chu Hy) không có lần nào trích dẫn lời truyền thụ của vua Nghiêu, vua Thuấn để làm cơ sở căn bản.
Đối với chú thích của câu “Tứ hải khốn cùng, thiên lộc vĩnh chung” thì chú thích của Hà Yến là lộn xộn không đúng, của Chu tử là thích hợp. Nội dung vua Nghiêu truyền đạt cho vua Thuấn, vua Thuấn truyền đạt cho vua Vũ chỉ là cảnh giác vị vua kế tiếp cần phải kính phụng theo ý trời.
Khổng tử khi nói với Nhan Hồi về việc thực hiện đức nhân chỉ đề cập đến việc tu thân (Bài 1 chương 12 Nhan Uyên) (bởi vì Nhan Uyên không phải là vua). Phải nói rằng đạo (quỹ 揆). của tiên thánh (thánh nhân đời xưa) và hậu thánh (thánh nhân đời sau) chỉ là một (“Tiên thánh, hậu thánh kỳ quỹ nhất dã”, Bài 1 chương 8 Ly Lâu hạ, sách Mạnh Tử).
Các Nho gia đời sau nhất định muốn lời trong sách phải có ý nghĩa vi diệu như giảng giải đạo đức nhân nghĩa, nên không chịu nhìn thấy phương châm của Khổng tử là chỉ thuật y hệt lại việc làm của tiên vương không thêm bớt hay đặt ra điều mới. Phải chăng việc này tự bộc lộ cách nhìn hũ lậu của các Nho gia chủ trương lý học.
Jinsai lại căn cứ vào bài này, lời đề cập đến “đạo kinh” trong thiên Giải Tế của sách Tuân Tử, và câu “nguy vi tinh nhất” của thiên Đại Vũ Mô (trong kinh Thư) mà cho rằng thiên này là tác phẩm giả tạo của các Hán Nho. Lý do của chủ trương này là bởi vì Jinsai đặt tin tưởng sâu đậm vào Mạnh tử, không để tâm nhiều vào kinh Thư nên lấy giải thích của Chu tử để lý giải nội dung của kinh Thư và tỏ ý chê kinh Thư.
Lòng dân đáng kinh sợ (dân tâm khả úy) giống như “chế ngự 6 con ngựa bằng dây thừng cũ mục” (“nhược hủ tác chi ngự lục mã” ở thiên Ngũ Tử Chi Ca trong kinh Thư). Do đó, nói “dân tâm duy nguy” (ý nói quản trị lòng dân rất khó khăn). Hướng dẫn lòng dân cần phải tinh tế theo dõi sát các biểu hiện mới có thể quản trị an lành. Do đó sách mới nói “đạo tâm duy vi”. “Tinh” nghĩa là “tĩnh”. Người quản trị thiên hạ cần một mực thanh tĩnh không được hấp tấp vội vả. Cách viết của chữ “đạo kinh” rất gần với hình dạng chữ triện của “hạ” và “đạo” do đó sinh ra đọc sai. Bởi vì Tuân tử là Nho gia nên có lẽ nào trích dẫn lời trong sách của Lão tử, Mặc tử.
Ý muốn nói của sách Thượng Thư cũng chỉ là lời cảnh giác nên nội dung không khác với ý trong sách Luận Ngữ. Do đó, mới nói “vua Thuấn mệnh lệnh cho vua Vũ”, không có việc câu chấp vào số chữ như Jinsai đã đề cập. Trong (bài 26 chương 13 Tận Tâm thượng) sách Mạnh Tử chê “Tử Mạc chấp trung”. Cần phải hiểu từ “chấp trung” ở bài này không phải có nghĩa như từ “chấp trung” (nghĩa là lấy chính giữa của 2 cái) trong sách Mạnh Tử vừa nói.
Đối với câu “hoàng hoàng hậu Đế” trong bài, Khổng An Quốc chú giải “Hoàng là to lớn, hậu là vua. “Vua lớn lớn” ý nói là thiên đế ” (Cổ Chú). Trong Luận Ngữ Tập Chú, Chu tử không trích dẫn nội dung này. Bởi vì, ý nghĩa câu này đã rõ ràng. Đối với “Đế thần” thì Chu tử theo Cổ Chú cho là vua Kiệt. Giải thích này đúng.
Đối với “Chu hữu đại lại, thiện nhân thị phú.”, Hà Yến nói “Nhà Chu được trời ban cho ơn lớn, có nhiều người tốt. Quan chức cai trị tài giỏi (loạn thần) có đến 10 người (Bài 20 chương 8 Thái Bá, Luận Ngữ)”. Giải thích này đúng. Chú thích của Chu tử viết ““thiện nhân thị phú” là mọi người đểu là người tốt”. Mặc dù đương thời có thể là xã hội của thánh nhân nhưng làm sao có việc tất cả mọi người đều là người tốt! (Ý nói chú thích của Chu Hy sai)
Đối với “Tuy hữu chu thân, bất như nhân nhân.” Chu tử chú thích “Mặc dù vua Trụ có nhiều người thân thuộc nhưng không bằng việc nhà Chu có nhiều người có đức nhân”. Giải thích này đúng. Khổng An Quốc chú thích ý câu trên chỉ việc (Chu Công Đán, con thứ 4 của Văn vương) giết chết Quản (tức Quản Thúc, con thứ 3 của Văn vương), Thái (tức Thái Thúc con thứ 5 của Văn vương), và dùng Cơ (tức Cơ Tử, chú của Trụ vương), Vi (Vi Tử, anh của Trụ vương). Nội dung giải thích này không hợp lý.
Đối với “tu phế quan”, Jinsai giải thích là “Quan lại thời xưa theo cách cha truyền con nối, từ đời này qua đời khác”. Ở cổ đại quả đúng là có việc này. Tuy nhiên tại sao lại phải trích dẫn việc này ở đây để giải thích câu này! Hơn nữa, ở cổ đại, đối với việc cha truyền con nối chỉ có quan lại cấp thấp (hữu tư). Trong sách Xuân Thu (Công Dương Truyện, Ẩn Công Tam Niên) phê phán việc cha truyền con nối của các chức quan, đạo của cổ đại không có việc cha truyền con nối đối với các chức công, khanh và đại phu.
Đối với “Khoan tắc đắc chúng, tín tắc dân nhiệm yên, mẫn tắc hữu công, công tắc duyệt.”, Jinsai nói “Trong phiên bản của sách Luận Ngữ xuất bản trước đây thì bài này được sắp xếp vào Bài 1. Tuy nhiên, nội dung của bài này không có liên quan về sự tích của Võ vương. Hơn nữa, Khi so sánh bài này với nội dung của Tử Trương hỏi về đức nhân (trong Bài 6 chương 17 Dương Hóa) thì đại khái giống nhau, trừ đi 1 nửa phần đầu. Ở đó (tức Bài 17.6) thì trước “Khoan tắc đắc chúng” là “Cung tắc bất vũ” (Cung kính thì không bị khinh nhờn). Có lẽ bởi vì bài kế trong chương này cũng là câu hỏi Khổng tử của Tử Trương nên sai lầm, ghi lại 2 lần.” Phải nói Jinsai đọc Luận Ngữ kỹ lưỡng! Tuy nhiên, tại sao ngoài câu nói của Khổng tử trả lời cho câu hỏi của Tử Trương không thể có một câu nói tương tự khác!
Việc Jinsai căn cứ không có chữ “công公” trong sách Luận Ngữ để phản đối Tống Nho thì có thể nói giống như “kiềng canh nóng mà thổi rau nguội” (Trích dẫn từ thi tập Sở Từ: “trừng ư canh nhi xuy tê hề”) (nghĩa là bị 1 lần phỏng lưỡi mà sau đó đối với các món ăn nguội cũng thổi rồi mới dám ăn). Nguồn gốc của cái mà Tống Nho gọi là “công của thiên lý” thật sự là xuất xứ từ quan niệm của Lão Trang. Tuy nhiên, bậc thánh nhân nào có chán ghét “công” đâu! “Không thiên vị, không bè phái” (“vô thiên vô đảng”, thiên Hồng Phạm, kinh Thư) là châm ngôn của người làm vua. “Yêu thích cái dân chúng yêu thích, chán ghét cái dân chúng chán ghét” (thiên Đại Học, sách Lễ Ký) không phải là tinh thần của “công” sao? Đạo của người quân tử “chán ghét việc nắm giữ 1 mà bỏ đi cả 100”. Do đó, sự thiếu thích đáng của Tống Nho cố chấp 1 chữ “công” và việc Jinsai chán ghét chữ “công” có thể nói như nhau.
Nhận xét
(1) Giải thích của Sorai cho Bài 20.1 trong Luận Ngữ Trung của ông rất đáng tham khảo nên người dịch đã cố gắng biên dịch để giới thiệu quý độc giả. Bài giải thích này là một trong số ít các bài giải thích dài trong Luận Ngữ Trưng. Ông là người chủ trương ngôn từ chữ Hán cổ đại có ý nghĩa khác với thời sau này, nên không thể dùng ý nghĩa hiện tại của chữ Hán để lý giải các kinh sách cổ điển. Nội dung chú thích trên của ông cho chúng ta thấy được điều này. Một điều đáng chú ý là Tuân tử cũng có quan điểm tượng tự.
Vì nội dung bài này đã quá dài nên phần giải thích của Sorai cho các bài 20.2, 20.3 xin phép dành cho cơ hội khác trong tương lai.
(2) Việc Sorai phê phán chủ trương của Jinsai về “công” theo người biên dịch nghĩ là quá đáng vì “công” của Jinsai muốn nói, cụ thể là “cách ứng xử khi người thân như cha mẹ hoặc con cái bị phạm tội không thể giống hệt như cách ứng xử với người không thân thuộc bị phạm tội”, khác với “công” của Sorai, “yêu thích cái dân chúng yêu thích, chán ghét cái dân chúng chán ghét”.
Nguyễn Sơn Hùng
5~8/6/2025
(Phần Luận Ngữ Trưng xong 20/6/2025)
Tài liệu tham khảo
1) Kaitsuka Shigeki (1983): Itô Jinsai, Danh Tác của Nhật Bản 13, Chuokouronsha
2) Itô Jinsai: Luận Ngữ Cổ Nghĩa (nguyên văn)
3) Ogyu Sorai: Luận Ngữ Trưng, Ogawa Tamaki dịch chú (1994), Heibonsha.
4) Ogyu Sorai: Luận Ngữ Trưng (nguyên văn chữ Hán) (phiên bản của Quốc Lập Công Văn Thư Quán)
5) Chu Hy: Luận Ngữ Tập Chú, Tsuchida Kenjirô dịch chú (2014), Heibonsha.
Chủ Nhật, 29 tháng 6, 2025
NGHE LỜI TRUMP BẢO - Thơ Duy Anh và Thơ Họa
NGHE LỜI TRUMP BẢO
Giấc mộng Hạt Nhân phút chốc trôi
Iran đành ngậm bồ hòn thôi.
Hầm sâu bom phá, Trời Thiên hỡi
Nhiệt nóng lửa thiêu, Đất Địa ôi!
Tiêu diệt Israel, không lối nữa
San bằng Do Thái, hết phương rồi!
Nghe lời Trump bảo*, vào bàn họp
Giáo Chủ! Ông nên dẹp cái "tôi"
DUY ANH
06/22/2025
*Statement by President: We have completed our very successful attack on the three Nuclear Sites in IRAN, including Fordow, Natanz, and Esfahan...
Thơ Họa:
CÁI TÔI
Hạt nhân mộng tưởng bấy lâu trôi…
Cay đắng bồ hòn ngậm nuốt thôi
“Hiện đại tối tân” ma quỷ hởi
“Văn minh vũ khí” Thánh Thần ơi…!
Quân thù tiêu diệt không kham nữa
Kẻ địch san bằng hết cách rồi
Sứ mạng hoà bình Trump bảo họp
Vào bàn đàm phán há vì “tôi” …!
MAI XUÂN THANH
Silicone Valley, June 22, 2025
NGƯỠNG MỘ DƯƠNG NGUYỆT ÁNH
Tuệ ngời Nguyệt Ánh mộng êm trôi
Vũ khí tối tân ra mắt thôi
Bộc phá, boong ke tan nát hết
Triệt tiêu, hầm lũy lụi tàn ơi
Phát minh kiệt xuất, thù kinh sợ
Huyền thoại lẫy lừng, địch hãi rồi
Ngưỡng mộ tài năng thân má phấn
Tỏ lòng cảm ái của riêng tôi.
LAN
(23/06/2025)
ĐIÊN CUỒNG TRỤC QUỶ
Ước nguyện hòa bình cứ mãi trôi
Điên cuồng trục quỷ mộng chưa thôi
Liên minh bộ tứ tà ma ấy
Sách lược toàn cầu ác hiểm ôi
Do Thái, Ba Tư vừa “thập nhị”
Mát-va, Ki-íp mấy năm rồi
Bàn cờ chiến thuật đang gài bẫy
Giấu mặt Nga Tàu xúi tớ tôi
Lý Đức Quỳnh
25/6/2025
TRUMP THEO Ý CHÚA
Hoạ 4 vần
Bê hai (B2) rót nhẹ… banh chành thôi
Mộng Bá Vương chừ đã thả trôi
Phi vụ “Búa khuya” như sấm chớp
Tàng hình trút xuống… đất trời ôi
Hạt nhân chôn giấu sâu thăm thẳm
Bom tấn đâu tha! Phá nát rồi
“Trục quỷ ma” giáo tà hiểm ác
Trump theo ỷ Chúa cứu nhơn loài
Kiều Mộng Hà
June.25.2025
TAN ÁC QUỶ
Hạt nhân ma quỷ đã tan trôi,
Nguyên tử tiêu rồi chỉ mộng thôi.
Khủng bố sẽ chui trong hố thảm,
Hòa bình vang vội đó ai ôi!
Tình thương phủi ác không còn nữa,
Thảm họa Iran sắp mất rồi.
Tổng Thống Trump vinh ơn Chúa giúp,
Đem niềm hãnh diện chốn nơi tôi.
*
Dân chủ đâu rồi.. “nhớ khóa môi!”
HỒ NGUYỄN
(26-6-2025)
HẬU QUẢ CÁI TÔI
Nguyên Tử Hạt Nhân chờ bấm thôi
Thắng thua với Mỹ dễ gì trôi...
Liên Minh Cường Quốc, NaTo vững,
Chiến trận phơi bày vũ khí... Ôi...
Thế Chiến thứ ba sẽ huỷ diệt,
Nếu Trump can gián họ không ngồi...
Vì Ai cũng muốn mình là nhất
Hậu quả khôn lường bởi cái Tôi...
Mỹ Nga
26/06/2025 ÂL,02/06/ẤT TỴ.
