Tạp Ghi và Phiếm Luận :
NƯƠNG là NÀNG
NƯƠNG là NÀNG, NÀNG chữ Nho là NƯƠNG 娘. Như chữ LANG 郎 là CHÀNG, chữ NƯƠNG cũng thuộc dạng chữ Hài Thanh và Hội Ý trong Lục Thư. Theo "CHỮ NHO... DỄ HỌC" có cấu tạo chữ viết như sau:
Lệ Thư Khải Thư Tống Thể
Ta thấy :
Theo phép Hài Thanh chữ NƯƠNG 娘 gồm có chữ LƯƠNG 良 ở bên phải chỉ ÂM (ương) và bộ NỮ 女 ở bên trái chỉ Ý, nên NƯƠNG 娘 là NÀNG, là một giới tính nữ. Còn xét theo Hội Ý thì chữ NƯƠNG 娘 được ghép bởi hai chữ NỮ 女 và LƯƠNG 良, ý chỉ một giới nữ thiện lương. Tổng hợp hai cách trên lại, thì NƯƠNG là một giới tính nữ lương thiện, là một bà, một cô, một nàng hiền lành dễ thương, dễ thân cận.
Ta thấy chữ NƯƠNG 娘 có chữ LƯƠNG 良 ở bên tay phải; còn chữ LANG 郎 thì có chữ LƯƠNG 良 bên tay trái, đúng như kiểu ông bà xưa nói: Nam tả nữ hữu! LƯƠNG ngoài nghĩa Lương Thiện ra, còn có nghĩa hiền lành, tốt đẹp, giỏi giang, nên ngày xưa vợ chồng gọi nhau là LƯƠNG NHÂN 良 人, như người Việt Nam ta vợ chồng gọi nhau là "MÌNH ƠI", còn người Anh người Mỹ vợ chồng gọi nhau là "HONEY" vậy ! Nhưng sau nầy trong văn học cổ ta chỉ thấy Vợ gọi Chồng là LƯƠNG NHÂN mà thôi. Như trong bài《TỬ DẠ THU CA 子 夜 秋 歌》 của Thi Tiên Lý Bạch 李 白 đời Đường dưới đây :
長 安 一 片 月, Trường An nhất phiến nguyệt,
萬 户 搗 衣 聲。 Vạn hộ đảo y thinh.
秋 風 吹 不 尽, Thu phong xuy bất tận,
總 是 玉 關 情。 Tổng thị Ngọc quan tình.
何 日 平 胡 虜, Hà nhật bình Hồ Lỗ,
良 人 罷 遠 征。 LƯƠNG NHÂN bãi viễn chinh !?
Có nghĩa :
Trường An một mảnh trăng tà,
Tiếng chày giặt áo muôn nhà vang vang.
Gió thu hiu hắt chứa chan,
Tình người chinh phụ Ngọc quan bao tình.
Ngày nao hết nạn đao binh,
LƯƠNG NHÂN khỏi phải viễn chinh xa nhà !?
Trở lại với NƯƠNG là NÀNG, là một cô gái trẻ trung đẹp đẽ, như hai câu thơ trong bài "Tử Dạ Ca 子 夜 歌" trong Cổ Nhạc phủ:
見 娘 喜 容 媚, Kiến NƯƠNG hỉ dung mị,
願 得 結 金 蘭. Nguyện đắc kết kim lan.
Có nghĩa :
Thấy NÀNG đẹp đẽ trẻ trung,
Nguyện mong đây đó kết cùng kim lan.
NƯƠNG trong hai câu thơ trên là CÔ NƯƠNG 姑 娘 ta nói là CÔ NÀNG, là một cô thiếu nữ trẻ trung. Còn TIỂU CÔ NƯƠNG 小 姑 娘 là một cô gái bé nhỏ. Nếu đổi chữ TIỂU thành chữ ĐẠI, thì ta có từ ĐẠI CÔ NƯƠNG 大 姑 娘 là "Cô Gái Lớn" cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, có thể là cô gái lớn tuổi, lớn nhất trong nhà, mà cũng có thể là cô gái lớn con to xác nữa! Nếu bỏ chữ CÔ ở giữa thì ta sẽ có từ...
ĐẠI NƯƠNG 大 娘 là từ dùng để gọi các bà các cô đứng tuổi, sồn sồn. Còn lớn tuổi hơn nữa thì gọi là DI NƯƠNG 姨 娘 là Bà Dì hoặc THẨM NƯƠNG 嬸 娘 là Bà Thím. Nhưng từ thân thương nhất là NƯƠNG THÂN 娘 親 là từ con gọi mẹ, thường thì chỉ gọi cho gọn lại bằng một chữ "NƯƠNG" mà thôi. Như người Mỹ gọi là "MOM", người miền Bắc gọi là "U", người miền Trung gọi là "MẠ" và người miền Nam gọi là "MÁ" vậy. Bây giờ thì...
NƯƠNG 娘 là MẸ chớ không phải là NÀNG nữa, nếu chập hai từ lại là NƯƠNG NƯƠNG 娘 娘 thì là Mẹ của cả nước ngày xưa, là HOÀNG HẬU NƯƠNG NƯƠNG 皇 后 娘 娘, hay còn gọi là CHÁNH CUNG NƯƠNG NƯƠNG. Từ NƯƠNG NƯƠNG còn được dùng để gọi tên hiệu các vị nữ thần như "Vương Mẫu Nương Nương 王 母 娘 娘", "Thánh Mẫu Nương Nương 聖 母 娘 娘" hay từ dùng gọi Bà Mẹ Sanh là "Chú Sanh Nương Nương 註 生 娘 娘"...
NƯƠNG 娘 là MẸ, nên NƯƠNG GIA 娘 家 là Nhà của Mẹ. Nói chung là "Nhà của Cha Mẹ". Con gái gả đi lấy chồng, khi nhà chồng cho phép về thăm cha mẹ ruột, thì gọi là "Hồi Nương Gia 回 娘 家" là một niềm vui vô hạn của các cô gái ngày xưa. Mẹ ruột thì gọi là THÂN NƯƠNG 親 娘, Mẹ Vú (bà Vú) thì gọi là NÃI NƯƠNG 奶 娘. Mẹ kế thì gọi là DI NƯƠNG 姨 娘, như ta gọi là "Dì Ghẻ" vậy. Theo chế độ Tam Thê Tứ Thiếp 三 妻 四 妾 ngày xưa, thì còn có NHỊ NƯƠNG 二 娘, TAM NƯƠNG 三 娘... Nhưng trước khi là MẸ, thì...
NƯƠNG 娘 là VỢ, Vợ mới cưới là Cô Dâu Mới thì gọi là TÂN NƯƠNG TỬ 新 娘 子. Nhưng thường, cô dâu mới được gọi cho gọn là TÂN NƯƠNG 新 娘 để đối xứng với Chú Rể Mới là TÂN LANG 新 郎. Chồng thương vợ gọi một cách thân thương là NƯƠNG TỬ 娘 子. Nhưng NƯƠNG TỬ cũng là từ chỉ chung các bà các cô, nên cũng có thể già, có thể trẻ. Như NƯƠNG TỬ QUÂN 娘 子 軍 là Đội quân của các bà các cô, "Đội quân Đàn bà": Đây là đội Nữ Binh 女 兵 nổi tiếng của Bình Dương Công Chúa 平 陽 公 主 con gái thứ ba của Đường Cao Tổ Lý Uyên, với sự giúp đỡ của chồng là Sài Thiệu lập nên đội nghĩa binh NƯƠNG TỬ QUÂN nầy ở cuối đời Tùy, lập được nhiều chiến công trong việc giúp vua cha tạo dựng nên nhà Đường hùng mạnh suốt ba trăm năm sau nầy. Từ đó về sau "NƯƠNG TỬ QUÂN 娘 子 軍" là danh từ chung dùng để gọi một cách tôn xưng kính trọng đối với tất cả các đội nữ binh mãi cho đến hiện nay ta gọi là các đội Nữ Quân Nhân.
NƯƠNG 娘 là KIỀU NƯƠNG 嬌 娘 là Người Đẹp. Ta có "một lô" người đẹp với chữ NƯƠNG theo sau... Trước tiên là...
ĐỖ THU NƯƠNG 杜 秋 娘 (cuối Thế kỷ 8) tên thật là Đỗ Thu 杜 秋, người đất Kim Lăng đời Đường. Bà là một ca kỹ múa giỏi hát hay và giỏi cả thi ca, 15 tuổi đã được Tiết Độ Sứ Lý Kỹ 李 錡 mua về làm tì thiếp. Sau Lý Kỹ tạo phản thất bại, bà bị biếm vào cung. Khi Đường Mục Tông 唐 穆 宗 (821-826) lên ngôi, phong bà làm Phó Mẫu là Giáo Tập ở trong cung nuôi dạy Thái Tử. Mục Tông mất, Thái tử bị phế, bà bị thải về quê. Khi Đỗ Mục đi ngang qua Kim Lăng, trông thấy hoàn cảnh của bà vừa già vừa nghèo khổ, ông đã làm bài Đỗ Thu Nương Thi 杜 秋 娘 詩 để kể lại thân thế của bà. Đỗ Thu Nương nổi tiếng với bài thất ngôn tứ tuyệt "Kim Lũ Y 金 縷 衣" sau đây :
勸 君 莫 惜 金 縷 衣, Khuyến quân mạc tích kim lũ y,
勸 君 惜 取 少 年 時. Khuyến quân tích thủ thiếu niên thì.
花 開 堪 折 直 須 折, Hoa khai kham chiết trực tu chiết,
莫 待 無 花 空 折 枝! Mạc đãi vô hoa không chiết chi !
Có nghĩa :
Khuyên chàng chớ tiếc áo tơ vàng,
Hãy tiếc tuổi xuân chớ để tàn.
Hoa nở đúng kỳ tua bẻ lấy,
Đừng đợi cành không bẻ muộn màng !
Lục bát :
Tiếc chi chiếc áo chỉ vàng,
Khuyên chàng trân trọng tuổi đang xuân thì.
Hoa đang độ, hãy bẻ đi,
Đợi khi hoa rụng bẻ gì cành không ?!
Khéo mà ví von khuyên nhủ những chàng công tử phong lưu chỉ biết ăn ngon mặc đẹp, mà không biết tranh thủ lấy tuổi thanh xuân của mình để trao dồi kiến thức, cố gắng học hành để mong có ngày tiến thủ, lập chữ công danh... Cứ mãi miết ăn chơi trác táng ở lầu xanh, ở các nơi trà đình tửu điếm, để đến khi ăn năn thì đã qúa muộn màng.
ĐỖ VI NƯƠNG 杜 韋 娘 vốn là tên của một ca kỹ trong giáo phường đời Đường, được Đỗ An Thế dùng đặt tên cho một Từ khúc. Sau thường dùng để chỉ một người đẹp hay một bài ca theo Từ điệu, như chuyện kể sau đây :
Thi hào LƯU VŨ TÍCH 劉 禹 錫(772—842)khi bị biếm làm Thứ Sử đất Tô Châu (833), quan lớn Tư Không là Lý Thân nghe tiếng và cũng mến mộ tài văn thơ của ông, bèn mời ông đến và thiết tiệc khoản đãi. Buổi tiệc thật xa hoa với đầy đủ các sơn hào hải vị, mỹ tửu quỳnh tương, dưa ngon trái ngọt. Có một nàng ca kỹ thật đẹp ăn mặc như các cung nữ trong cung vua và lại ca múa hát khúc "ĐỖ VI NƯƠNG" trong cung đình. Lưu Vũ Tích đã choáng ngợp trước buổi tiệc qúa cao sang xa hoa nầy và bàng hoàng ngây ngất trước vẻ đẹp sắc nước hương trời của nàng ca kỹ giai nhân, nên Ông đã xúc động mà viết bài thơ tứ tuyêt "Tặng Lý Tư Không Kỹ 贈 李 司 空 妓" (Tặng nàng ca kỹ của ông Tư Không họ Lý) với những lời lẽ ngưỡng mộ như sau:
高 髻 雲 鬟 宮 樣 妝, Cao kế vân hoàn cung dạng trang,
春 風 一 曲 杜 韋 娘。 Xuân phong nhất khúc ĐỖ VI NƯƠNG.
司 空 見 慣 渾 閒 事, Tư Không kiến quán hồn nhàn sự,
斷 盡 蘇 州 刺 史 腸。 Đoạn tận Tô Châu Thứ Sử trường !
Có nghĩa :
Tóc kết cung đình mây lướt trôi,
"Đỗ Vi Nương" khúc hát chơi vơi.
Tư Không quen mắt không cho lạ,
Thứ Sử Tô Châu ruột đứt rồi !
Ông là quan lớn Tư Không, đã quen sống xa hoa và nhìn ngắm các giai nhân đẹp như tiên nga, hát hay múa giỏi như thế nầy quen rồi, nên cho là chuyện bình thường không có gì là lạ cả. Nhưng đối với chức quan nhỏ nhoi Thứ Sử Tô Châu như tôi, thì đối diện với bửa tiệc cao sang và nhất là đối diện với giai nhân tuyệt sắc như thế nầy, làm cho tôi xúc cảm rung động đến như đứt từng đoạn ruột ra hết vậy (Đoạn Tận 斷 盡 là Đứt hết. Đoạn tận Tô Châu Thứ Sử trường: là "Đứt hết ruột gan của Thứ Sử Tô Châu rồi!) Cho nên, sau buổi tiệc, Lý Thân cũng rất điệu nghệ và hào phóng cho kiệu hoa đưa nàng ca kỹ với "cung dạng trang"(là Trang điểm như là các cung nhân trong cung vua vậy) về với Thứ Sử Tô Châu Lưu Vũ Tích để cho ông "khỏi phải đứt từng đoạn ruột nữa"! Câu thơ cuối của Lưu Vũ Tích lại làm cho ta nhớ đến một câu ca dao rất đa tình dễ thương của cô gái quê vùng Nam ký Lục tỉnh :
Đưa tay em bứt cọng ngò,
Thương anh ĐỨT RUỘT, giả đò làm ngơ !
ĐỖ LỆ NƯƠNG 杜 麗 娘 là tên của nhân vật nữ chính trong hí kịch《Mẫu Đơn Đình Hoàn Hồn Ký 牡 丹 亭 还 魂 记》của Thang Hiển Tổ 湯 顯 祖, một hí kịch gia đời Minh. Vốn là một tiểu thơ con nhà quan, nhưng Đỗ Lệ Nương không cam tâm bị trói buộc gò bó bởi xã hội phong kiến, nàng muốn bức phá khỏi những lễ giáo cổ hủ để đến với một tình yêu đôi lứa đúng theo như là người yêu trong mộng của mình là thư sinh Liễu Mộng Mai 柳 夢 梅. Nàng tương tư đến thành bệnh rồi mất, được quàn trong Mai Hoa Quán. Sau thư sinh Liễu Mộng Mai đến viếng, nàng sống lại và hai người vượt qua lễ giáo phong kiến cùng đến với nhau, kết hôn để hoàn thành giấc mơ tự do luyến ái và tự do truy tìm hạnh phúc cho bản thân mình.
Sau đây là lời ca từ của nhân vật Đỗ Lệ Nương:
原 来 姹 紫 嫣 紅 開 遍,
Nguyên lai sá tử yên hồng khi biến,
似 這 般 都 付 與 斷 井 颓 垣。
Tự giá ban đô phó dữ đoạn tỉnh đồi viên.
良 辰 美 景 奈 何 天,
Lương thần mỹ cảnh nại hà thiên,
賞 心 樂 事 誰 家 院!
Thưởng tâm lạc sự thùy gia viện !
Có nghĩa :
Muôn hồng ngàn tía hoa đua nở,
Cảnh đẹp phai tàn theo tường đổ giếng khô.
Trời cao có xót cảnh nên thơ,
Vui buồn bao chuyện nhà ai đó !
TẠ THU NƯƠNG 謝 秋 娘 là một ca kỹ nổi tiếng đời Đường, thường được gọi cho gọn là TẠ NƯƠNG 謝 娘, nàng cũng là một ca nhi nổi tiếng trong phủ của Tể tướng Lý Đức Dũ đời Đường. Nên TẠ THU NƯƠNG 謝 秋 娘 vừa là từ phiếm chỉ các ca nhi lại vừa là từ phiếm chỉ gọi chung những ca khúc ca ngợi vùng sông nước Giang Nam với các lời từ nổi tiếng như bài "Ức Giang Nam 憶 江 南" do TẠ THU NƯƠNG biên soạn lời hát như sau đây :
江 南 好, Giang Nam hảo,
風 景 舊 曾 諳。 Phong cảnh cựu tằng am,
日 出 江 花 紅 勝 火, Nhật xuất giang hoa hồng thắng hỏa,
春 来 江 水 绿 如 藍。 Xuân lai giang thủy lục như lam,
能 不 憶 江 南 ? Năng bất ức Giang Nam ?!
Có nghĩa :
Giang Nam đẹp, Giang Nam đẹp...
Phong cảnh Giang Nam người đều biết,
Nắng lên hoa đỏ rực trời nam,
Xuân về sông nước biếc như lam...
Ai chẳng nhớ Giang Nam ?!
Trở lại với NƯƠNG 娘 là NÀNG, từ chỉ chung phái nữ, là các bà các cô, là ngôi thứ HAI trong đàm thoại, như Bạc Bà khi ép Thúy Kiều lấy Bạc Hạnh đã mở lời hăm dọa Thúy Kiều rằng:
NÀNG dù quyết chẳng thuận tình,
Trái lời nẻo trước, lụy mình đến sau.
Nhưng khi thêm chữ ẤY vào sau chữ NÀNG thành "NÀNG ẤY", thì lại trở thành ngôi thứ BA, như lời của Vương Quan nói cho Thúy Kiều biết về thân thế của Đạm Tiên vậy:
Vương Quan mới dẫn gần xa :
"Đạm Tiên NÀNG ẤY xưa là ca nhi...
Khi lần đầu tiên Kim Trọng và Thúy Kiều gặp gỡ cùng "Sánh vai về chốn thư hiên, Góp lời phong nguyệt nặng nguyền non sông". Thấy bức tranh tùng của Kim Trọng vừa phác họa, Thúy Kiều đã "Tay tiên gió táp mưa sa, khoản trên dừng bút thảo và bốn câu". Khiến cho chàng Kim phải trầm trồ :
Khen: Tài nhả ngọc phun châu,
NÀNG BAN ả Tạ cũng đâu thế nầy !
NÀNG BAN ở đây là nàng Ban Chiêu 班 昭 (CN 45-117), tự là Huệ Ban 惠 班, là nhà văn học, nhà sử học nổi tiếng đời Đông Hán, em gái của nhà sử học Ban Cố 班 固. Sau khi Ban Cố mất Ban Chiêu đã thay anh hoàn thành tác phẩm sử học vĩ đại là "Hán Thư 漢 書". Khi Hán Hòa Đế nối ngôi đã nhiều lần vời bà vào cung để dạy cho Hoàng Hậu và các Phi Tần trong cung học hành. Khi Đặng Thái Hậu lâm triều cũng có vời bà đến để tham gia chính sự. Nên trong văn học cổ NÀNG BAN dùng để chỉ những phụ nữ tài hoa giỏi giắn không thua gì nam giới.
Ngoài ra, NÀNG BAN còn chỉ BAN TIỆP DƯ 班 婕 妤(TCN 48 ― CN 2)là phi tử của Hán Thành Đế, là nữ tài tử, nữ trứ tác gia nổi tiếng đời Tây Hán. Bà là tổ cô (em gái của ông nội) của Ban Cố và Ban Chiêu. Sau khi bị Hán Thành Đế chê bỏ vì nghe lời của chị em Triệu Phi Yến, Ban Tiệp Dư lui về ở Đông cung làm bài thơ Oán Ca Hành 怨 歌 行, còn gọi là Đoàn Phiến Ca 團 扇 歌 dệt vào trong lụa và làm thành chiếc quạt, nói lên việc chiếc quạt đến mùa thu thì không còn được trọng dụng nữa như thân phận bị thất sủng của mình vậy.
Trong Cung Oán Ngâm Khúc, Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều cũng đã cho nàng cung nữ bị thất sủng của mình than thở:
Nhị hoa chưa mỉm miệng cười,
Gấm NÀNG BAN đã nhạt mùi thu dung.
Vì là người đẹp, nên BAN TIỆP DƯ còn được gọi là BAN CƠ 班 姬 (Cơ 姬: là phi tần tì thiếp đẹp) như trong thơ truyện Nôm "Phương Hoa-Lưu Nữ Tướng":
Giá xưa nay chửa thấy ai,
Nào người Thái Nữ, nào người BAN CƠ.
Khi biết được Thúy Kiều đã bán mình để chuộc tội cho mình, thì Vương Ông mới "Liều mình ông đã gieo đầu tường vôi", làm cho Thúy Kiều phải can ngăn khóc lóc và phân bua:
Dâng thơ đã thẹn NÀNG OANH
Lại thua Ả Lý bán mình hay sao ?
NÀNG OANH, tên họ đầy đủ là THUẦN VU ĐỀ OANH 淳于 緹 縈, người đất Lâm Chuy đời Tây Hán. Bà là con gái út của Thái Thương Lệnh Thuần Vu Ý. Ý trị bệnh chết người, bị khép tội nhục hình, trên đường bị giải về kinh để nhận tội, Ý than cho gia cảnh của mình chỉ có 5 con gái, đến khi nhà gặp chuyện không có lấy một con trai để đở đần. Nàng Đề Oanh đã theo cha đến tận kinh thành, dâng thơ lên Hán Văn Đế xin làm tì thiếp để chuộc tội nhục hình cho cha, lời văn chân thành khẩn thiết, khiến cho Hán Văn Đế cảm động, chẳng những tha tội cho cha nàng mà còn phế bỏ luôn hình phạt nhục hình tàn khốc. Sử gia Ban Cố đời Hán đã khen trong bài thơ ngũ ngôn "Vịnh Sử" rằng: "Bách nam hà hội hội, Bất như nhất Đề Oanh 百 男 何 憒 憒,不 如 一 緹 縈". có nghĩa: "Một trăm thằng con trai ngơ ngáo, không bằng được một gái Đề Oanh!"
Trong văn học cổ nàng Đề Oanh tượng trưng cho người con gái có hiếu với cha mẹ. Trong truyện thơ Nôm khuyết danh Nữ Tú Tài, nàng Phi Nga giả trai cũng theo về kinh để xin tội cho cha là Văn Sác:
Rằng : Xưa có gái ĐỀ OANH,
Cứu cha khỏi nạn nên danh nữ tài.
NÀNG OANH còn chỉ THÔI OANH OANH 崔 鶯 鶯 và Trương Quân Thụy 張 君 瑞 trong truyện Tây Sương Ký của Vương Thực Phủ. Nàng Oanh nầy rất đa tình và rất lãng mạn ở dưới Mái Tây, nên mới để "Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng". Còn trong truyện "Trinh Thử" thì Chuột Đực đã ve vãn Chuột Bạch khi vừa gặp gỡ:
... Mà nàng lạc lối tới đây,
Vả coi hình tướng cũng tày NÀNG OANH.
Theo "U Quái Lục 幽 怪 錄", truyện "Đằng Lục giáng tuyết Tốn Nhị khởi phong 滕 六 降 雪 巽 二 起 風" (Đằng Lục thì cho tuyết rơi, Tốn Nhị thì cho gió thổi) chép lại truyện như sau:
Trung Thư Lệnh là Tiêu Chí Trung 蕭 志 忠, năm Cảnh Vân thứ hai đời Đường Tuấn Tông, đãm nhiệm chức vụ Thứ sử Tấn Châu. Ông định ngày mùng 8 tháng chạp sẽ giăng lưới tổ chức một ngày săn bắt lớn để tế thần cuối năm. Muôn thú biết tin cùng kéo đến xin với đạo sĩ ở phía đông cốc khẩu cứu mạng. Đạo sĩ bảo rằng: Tiêu Sứ Quân là người nhân đức, ông luôn nghĩ đến sự đói lạnh của thuộc cấp, bèn bày cho kế đi xin với Thần tuyết là Đằng Lục và thần gió là Tốn Nhị vào ngày hôm đó tạo nên một trận bão tuyết lớn. Qủa nhiên, vì sợ thuộc cấp đói lạnh vất vả, nên Tiêu Chí Trung bãi bỏ cuộc đi săn ngày hôm đó. Muôn thú khỏi một phen bị hại.
TỐN NHỊ 巽 二 và PHONG DI 封 姨 đều là Thần Gió trong thần thoại Trung Hoa và trong văn học cổ, còn như trong bài thơ sử trường thiên là "Thiên Nam Ngữ Lục" của ta thì gọi là NÀNG TỐN:
Thủy vân lòng những rắp mong,
Giận thay NÀNG TỐN khéo lòng thày lay.
Sau NÀNG TỐN, ta có NÀNG TÔ. Từ dùng để chỉ vợ của Tô Tần.
TÔ TẦN 蘇 秦 (TCN?-384) tự là Qúy Tử 季 子, người thời Chiến Quốc, ở đất Lạc Dương, tỉnh Hà Nam hiện nay, vốn xuất thân gia đình nhà nông, rồi trở nghề công thương, nhưng Tô Tần có chí lớn muốn ra làm quan, nên theo học phép "Liên Hoành" của Qủy Cốc Tử. Mười lần dâng kế sách cho vua Tần đều thất bại, đến nổi hết tiền chi dụng, mão tưa áo tơi giày rách, mang tấm thân tàn ma dại về nhà. Thê bất hạ nhâm, tẩu bất vi xuy, phụ mẫu bất dữ ngôn 妻 不 下 紝,嫂 不 為 炊,父 母 不 與 言. Vợ là Tô Thị cứ ngồi trên khung cửi dệt vải chẳng thèm mừng đón, Chị dâu thì dọn cơm không mời ăn, cha mẹ thì cũng chẳng buồn hỏi han ngó ngàn gì cả. Tô Tần vừa buồn vừa thẹn cho sự thất bại của mình, bèn phát chí vùi mài thêm về các sách lược và tình hình chiến quốc, đến nổi suốt đêm treo tóc lên trên rường nhà sợ sẽ ngủ gật, và bên cạnh để sẵn một mũi dùi, khi buồn ngủ thì dùng nó đâm vào đùi cho đau để thức tỉnh mà học. Cuối cùng sau hơn hai năm nghiền ngẫm đã ngộ ra thế "Hợp Túng" liên kết 6 nước lại để chống Tần. Sau khi Tô Tần du thuyết được các mước nghe theo cùng liên kết lại thành "Hợp Túng Liên Minh" và cùng cử Tô Tần làm Liên Minh Trưởng mang ấn tướng của cả 6 nước. Vinh quang lên đến tột đĩnh. Khi vinh quy bái tổ thì vợ và chị dâu qùi mọp không dám ngẩng đầu lên. NÀNG TÔ là như thế đó.
Theo Điển Cố Văn Học của nhà xuất bản Khoa Học xã Hội Hà Nội, thì trong "Nam Hải Tế Văn" của ta có câu:
Cửi NÀNG TÔ không vác mặt làm thinh,
Mai mốt cũng rồng mây gặp hội.
Còn một NÀNG TÔ thuần túy của Việt Nam ta mà ai cũng biết đến, đó là NÀNG TÔ THỊ vọng phu. Nằm trong quần thể di tích động Tam Thanh thuộc phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn có núi Tô Thị hay còn gọi là núi Vọng Phu. Trên đỉnh núi có một khối đá tự nhiên như hình của một người phụ nữ bồng con hướng nhìn về phương trời xa xa trên mặt biển. Từ xưa tượng đá này đã gắn liền với truyền thuyết về một người đàn bà chung thủy đứng chờ chồng đi lính thú. Chờ mãi không thấy chồng về, nàng và con đã hóa thành đá. Từ đó, người dân gọi đây là tượng NÀNG TÔ THỊ. Trong ca dao Việt Nam xưa khi nói về Lạng Sơn đã có câu:
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa,
Có NÀNG TÔ THỊ, có chùa Tam Thanh.
Còn trong văn thơ Thời Tiền Chiến, thi sĩ Nguyễn Văn Cổn trong bài "Nước Tôi" đã có một vế thơ như sau :
Đá Vọng Phu nhớ thương thổn thức,
Tay bồng con non nước vời trông.
Xa xa mặt biển mênh mông...
Đầu non tượng đá tỏ lòng tiết trinh !...
Từ NƯƠNG là NÀNG cuối cùng cho bài viết nầy là HÔI CÔ NƯƠNG 灰 姑 娘 (HÔI 灰 là Tro, là Lọ) nên HÔI CÔ NƯƠNG là NÀNG LỌ LEM, là CÔNG CHÚA LỌ LEM hay CÔ BÉ LỌ LEM, truyện cổ tích của nhà văn Pháp Charles Perrault ở thế kỷ thứ 17 làm say mê tất cả trẻ em trên thế giới. Truyện có rất nhiều phiên bản: Tiếng Anh: Cinderella, tiếng Pháp: Cendrillon, ou La petite Pantoufle de Verre, tiếng Ý: Cenerentola, tiếng Đức: Aschenputtel... Cô Bé Lọ Lem hay Đôi Giày Thủy Tinh là một câu chuyện dân gian thể hiện về sự áp bức bất công. Nhân vật chính là một cô gái trẻ sống trong hoàn cảnh không may đã được hoàng tử cưới làm vợ. Nội dung na ná như là truyện "Con Tấm Con Cám" của ta vậy.
NƯƠNG là NÀNG, NÀNG là AI ? Mời bấm vào link dưới đây để nghe bài Tân Cổ Giao Duyên do nghệ sĩ Thành Được trình bày (Tân nhạc : Nguyễn Hữu Thiết; Cổ nhạc : Thanh Tùng) :
Hẹn bài viết tới !
杜 紹 德
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét