Chữ Nghĩa Làng Văn
Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
***
Ống
Ống : súng (súng ống)
Súng ống: tiếng Thái, ống cũng là súng.
(Tự điển tiếng Việt cổ - Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện)
Tản mạn về tiếng Việt - 1
Trở lại mấy điệp âm, điệp ngữ trong 6 câu Kiều kỳ trước.
Buồn trông cửa bể chiều hôm.
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa...
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Mây trôi man mác biết là về đâu.
Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu.
Chân mây mặt nước một màu xanh xanh...
Xa xa! Xa ngược lại gần. Nhưng ý xa lại thường hay đi với ý gần: Xa gần, gần xa. Gần trong gang tấc mà tựa xa ngàn trùng.
Gắn liền với xa thường có một từ đi sau làm thay đổi ý nghĩa một cách tinh vi tế nhị; ta thấy có xa xôi, xa xăm, xa xưa, xa lắc, xa lắc xa lơ, xa tắp tít... Và cuối cùng là xa xa.
(Minh Võ)
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Thấy người sang bắt quàng làm họ
Thấy người khó bỏ mặc đi luôn
Tản mạn về tiếng Việt - 2
Điệp ngữ này cho ta một hình ảnh tượng hình và đồng thời cũng gợi nên một ý tượng thanh: Xa, nhưng không xa lắm, mà thành xa lắm. Người đọc hay người nghe mường tượng như cùng với hình ảnh và âm thanh này mình đi vào cõi mông muội, hư ảo, không biết gần hay xa, chỉ biết cảm thấy buồn buồn khôn tả.
Rầu rầu! Rầu thường đi sau buồn, buồn rầu, và trước rĩ: tầu rĩ (rầu rĩ, râu ria ra rậm rạp. Rờ râu, râu rụng, rờ rốn, rốn rung rinh). Nhưng khi lặp lại thành điệp ngữ rầu rầu thì hai từ này cho ta một cảm giác buồn man mác, buồn rười rượi. Buồn tê tái.
Xanh xanh! Xanh chỉ một màu trong “ngũ” sắc: xanh đỏ trắng tím vàng. Màu xanh có rất nhiều độ. Do đó nó đi với rất nhiều từ khác để nói lên những sắc độ và sắc thái khác nhau. Chẳng hạn xanh lam (blue), xanh lục (green), xanh lè, xanh biếc, xanh dương, xanh lá cây, xanh da giời, xanh thẫm, xanh lạt, và xanh xanh để nói lên độ nhạt nhất của xanh. Nghĩa là chỉ hơi hơi xanh mà thôi.
Nhưng khi, trong thi văn, tác giả dùng điệp âm này thì nó gợi cho người đọc có cảm tưởng mình đang ở một trạng thái nhẹ nhàng, không rõ rệt, mông lung, huyền ảo, trong đó chân mây trên trời bao la, chạm tới mặt nước phẳng lặng của biển cả ở tắp tít đàng xa, khiến cả trời, mây, nước, đều một màu xanh xanh như nhau...
(Minh Võ)
Dấu phẩy
Gia đình nên có hai con, vợ chồng hạnh phúc.
đổi dấu phẩy:
Gia đình nên có hai con vợ, chồng hạnh phúc.
Tướng mạo con người qua ca dao, dân ca
Chú tôi hay tửu hay tăm
Hay nước chè đặc hay nằm ngủ trưa
Ngày thì khấn những ngày mưa
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh
Tướng mặt
11 - Mặt Tròn :
Mặt tròn không có góc cạnh, theo nhà tướng học Trung Hoa Vương Văn Khiết thì đây là dạng khuôn mặt chữ Viên 圓. Cuộc đời không sôi nổi, năng động. Người này thường thích hợp với cuộc đời ít tranh đấu nếu sinh vào thời bình thì còn được thong thả. Họ là những người không chung thủy, dễ dàng phản bội, “gió chiều nào che chiều ấy”.
Tướng mạo con người qua ca dao, dân ca
Chồng người cưỡi ngựa bắn cung
Chồng em thì lấy dây thung bắn ruồi
Cái ấm đất và bộ chén trà Nguyễn Tuân tặng Thạch Lam - 1
Tôi vẫn thường tưởng tượng một cảnh gặp gỡ như vậy giữa Nguyễn Tuân và Thạch Lam. Mẹ tôi khi còn sống không bao giờ nói về cái buổi Nguyễn Tuân đến nhà tặng Thạch Lam một bộ đồ trà. Chỉ có lần thấy mẹ tôi bầy cái ấm trà và cái đĩa có ba chén trà men trắng vẽ hình lam xanh trên bàn thờ vào một ngày giỗ Thạch Lam, bà nói với chúng tôi: cái ấm trà và mấy chén trà này do nhà văn Nguyễn Tuân tặng cậu, hồi còn sống cậu quý lắm.
Tôi nhớ đó là những ngày chúng tôi đã vào ở trong Nam và tôi mới chập chững ở ngưỡng cửa trung học, mới bắt đầu lạc lõng vào thế giới văn chương tiền chiến, biết đôi điều về Thạch Lam và Tự Lực Văn Đoàn. Tôi vẫn chưa bao giờ tự hỏi và tìm hiểu bộ đồ trà này lưu lạc ở đâu, từ ngày Thạch Lam mất đi, ngày 27 tháng sáu năm 1942, ba ngày sau khi tôi ra đời.
Sau khi cha tôi mất, mẹ tôi chỉ nán ở lại căn nhà cây liễu cạnh Hồ Tây đôi ba tháng, bà tôi vì thấy cảnh nheo nhóc của ba đứa cháu nội, cho người đón chúng tôi về trại Cẩm Giàng và giao cho mẹ tôi làm quản gia cho trại. Ở đây chúng tôi đã sống những ngày tháng êm đềm. Lúc đó bà nội tôi đã xuất gia, khi ở chùa, khi về thăm trại. Khi phong trào tiêu thổ kháng chiến được phát động, gia đình tôi đã theo đoàn người tản cư ngược lên miền bắc, dần dà đến trú ngụ ở một làng nhỏ và rất nghèo vùng Nhã Nam, Yên Thế.
Theo lời chị tôi kể, một hôm mẹ tôi trở lại Cẩm Giàng để xem xét tình hình, khi trở về thì căn buồng chúng tôi tạm trú đã bị cháy hết, những di tích kỷ niệm của gia đình như hình ảnh, sách vở và những trang bản thảo của Thạch Lam đều tan thành tro bụi.
Gia đình chúng tôi đã sống hơn ba năm ở cái làng Đìa heo hút, tôi nhớ là cả gia đình chui rúc trong một căn lều nhỏ, là nơi chủ nhà ngày trước dùng để cất những dụng cụ nhà nông. Căn lều mái tranh vách đất, cửa liếp lỏng lẻo, những ngày mưa mái nhà bị dột và tôi hay ngồi nhìn những bong bóng do nước trên mái gianh nhỏ xuống cái rãnh ngoài cửa liếp.
(Nguyễn Tường Giang)
Từ điển chính tả sai lỗi… chính tả
“siêu: siêu tán. → không viết: xiêu”. (Gs Nguyễn Văn Khang)
Viết “xiêu” mới đúng. Vì “xiêu” có nghĩa là trôi nổi, lưu lạc
(Hòang Tuấn Công)
Cái ấm đất và bộ chén trà Nguyễn Tuân tặng Thạch Lam - 2
Tôi không nghĩ lúc đó mẹ tôi mang theo bộ đồ trà mỏng manh dễ vỡ, mặc dù mẹ tôi vẫn có một cái tay nải mầu nâu nhưng tôi chưa bao giờ mở ra xem trộm. Tôi tự hỏi nếu mẹ tôi có bộ đồ trà quý giá đó, bà có chịu bán đi cho một người giầu có trong làng để qua cơn nghèo túng, bữa đói bữa no, cơm ăn trộn khoai trộn sắn của chúng tôi hay không. Cho đến khi bà nội tôi dò hỏi và tìm được gia đình tôi, khi theo người dẫn đường trở về Hải Phòng. Ở Hải Phòng rồi dọn về Hà Nội cho tới khi di cư vào Nam, gia đình tôi thay đổi chỗ ở bốn năm lần, lần nào cũng chỉ sống trong một căn buồng bé cỏn con, tôi chưa một lần nhìn thấy bộ đồ trà.
Cái ấm trà và những cái chén trà, trong khoảng thời gian dài hơn một giáp tuổi đã lưu lạc ở đâu. Phải chăng khi mẹ con chúng tôi dời bỏ trại Cẩm Giàng với những ngày tháng êm đềm, bà nội tôi, người đã bỏ bao nhiêu công lao tạo dựng một nơi chốn để con cháu có những ngày tụ họp, nghỉ ngơi, đã trở về để nhìn thấy căn nhà thân yêu một lần chót, đã vội vã thu vén những kỷ vật của gia đình, bà đã nhìn thấy bộ đồ trà của đứa con bà yêu thương nhất nhưng mệnh yểu, bà đã bỏ những di vật đó trong cái tay nải nâu sòng của một người xuất gia.
Từ đó, bộ đồ trà của một thời dĩ vãng đã lách cách đi theo bà nội tôi, ẩn náu dưới những mái chùa Đào Xuyên, Bối Khê vùng Hưng Yên rồi về Thành yên ổn trong ngôi chùa Hai Bà Trưng phường Đồng Nhân, Hà Nội, rồi cùng theo đoàn người di cư vào miền Nam. Bà tôi lúc tạm trú ở chùa Văn Thánh Thị Nghè, chỉ cách nơi gia đình tôi trú ngụ có một cái cầu rất ngắn, và cũng có lẽ đó là lúc bộ đồ trà được giao lại cho mẹ tôi, để linh hồn của Thạch Lam mỗi lần giỗ tết, sống lại cái quá khứ ở Hồ Tây.
(Nguyễn Tường Giang)
30 tháng 4 tưởng nhớ nhà văn Chu Tử
Cái “ê-kíp Chu Tử” đầu tiên ấy chỉ vỏn vẹn có vài người. Ngồi thường trực trong tòa soạn có Hoàng Anh Tuấn, Trọng Tấu, Đằng Giao và tôi. Vợ chồng Trần Dạ Từ – Nhã Ca và Tú Kếu mỗi đêm đến làm tin, dịch tin. Duyên Anh phụ trách trang thiếu nhi. Vũ Dzũng, Đỗ Quý Toàn trang Thanh niên, Sinh viên. Nguyễn Ang Ca ký giả thể thao, kịch trường. Võ Hà Anh phóng viên chạy ngoài. “Cô” Kim Chi Hoàng Anh Tuấn lo giải đáp tâm tình và tử vi đẩu số! Anh Hợp, Nguyễn Thụy Long, Tuấn Huy, Nguyễn Đức Nam, Lương Quân, Tiền Phong Từ Khánh Phụng viết tiểu thuyết trang trong, lâu lâu mới ghé một lần đưa bài và lấy tiền nhuận bút. Nhân vật “ngoại hạng” phải kể là “chí sĩ” Minh Vồ đặc trách mua bông giấy và ngoại giao với phòng Kiểm duyệt bộ Thông Tin, xin lại giấy phép mỗi khi bị chính quyền đóng cửa...
Tôi đã gần gụi ông Chu Tử cả trong đời sống bên ngoài tòa báo, can dự vào nhiều biến cố của gia đình ông như một thành phần ruột thịt. Ông cũng coi tôi như ruột thịt của gia đình và dành cho tôi một tin cậy, mến thương sâu đậm. Tôi đã chứng kiến ông hoan lạc, bi thương, vui, buồn, hờn giận...
Chứng kiến một Chu Tử hồn nhiên đúng như Nguyễn Mạnh Côn nhận xét, “Một tâm hồn đứa trẻ trong thể xác ông già”. Nhưng có lẽ tôi thấy đời ông thống khổ nhiều hơn hạnh phúc. Thể xác ông phải chịu những đớn đau nhiều và quá độ đối với hình hài yếu mảnh nhưng mạnh mẽ tinh thần phấn đấu.
Như chứng kiến lần Minh Vồ chở ông sau chiếc vespa, bị taxi đụng gẫy chân để Chu Tử phải chống nạng và có bút hiệu Kha Trấn Ác trong mục “Ao Thả Vịt”. Lần ông bị bắn bốn viên đạn, phải đóng đinh trong hàm để giữ bộ răng giả, tay run lật bật khó khăn cầm bút và mất ngủ đến rên la kêu trời réo đất hàng đêm..
(Đào Vũ Anh Hùng)
Từ điển chính tả sai lỗi… chính tả
“sử: sử tử. → không viết: xử”. (Gs Nguyễn Văn Khang)
“xử” 處 mới đúng. Vì “xử tử” 處 死 nghĩa là xử tội chết, thi hành án tử hình. Hán ngữ đại từ điển: “xử tử:. xử tử hình.
(Hòang Tuấn Công)
Gặp gỡ người làm văn học miền Bắc - 1
T.K.: Chắc anh cũng đồng ý với tôi là mặc dù giới trẻ trong nước hiện nay không có cơ hội trực tiếp tiếp xúc với Văn học miền Nam, nhưng nếu chúng ta nhìn kỹ, tìm tòi kỹ thì chúng ta vẫn thấy có một vài ảnh hưởng nào đó của Văn học miền Nam trên một số tác giả trẻ hiện nay.
V.T.N.: Mặc dù có bị đẩy vào bóng tối, những phần tốt đẹp trong Văn học miền Nam vẫn như mạch nước ngầm len lỏi xuyên thấm vào đời sống văn hóa trong nước. Ví dụ như thơ, các hội thơ gần đây đã thường đưa Thanh Tâm Tuyền lên thành một tìm tòi của thơ thế kỷ XX ở Việt Nam và trong dư luận miệng tức là trong các cuộc trao đổi, mọi người trông vào các tìm tòi các nhà thơ ở miền Nam trước 75 như những bước khai phá tiếp tục Thơ Mới, để tìm tới một giai đoạn mới của thơ và để hội nhập thơ thế giới.
Đi với thế giới đang là chuyện sinh tử của nền thơ trong nước nhất là thơ trẻ. Tôi cho là việc này đã được các nhà thơ ở miền Nam trước 75, giải quyết một cách tự nhiên, một cách liên tục, một cách rộng rãi, nó như một lối đi đã mở, ai có sức thì đi tiếp.
Mà đâu chỉ riêng có thơ. Nhiều vấn đề lớn như thế nào là tiểu thuyết, văn xuôi đi về đâu, chấp nhận phương Tây thế nào thể hiện quan hệ cá nhân, xã hội ra sao - trước các vấn đề ấy các nhà văn miền Nam trước 75 đều đã thể nghiệm, các nhà văn trẻ bây giờ nếu đọc hẳn sẽ có nhiều gợi ý.
(Nói chuyện với nhà phê bình Vương Trí Nhàn – Thụy Khuê)
Ca dao hiện đại, thành ngữ hiện thực
Tiệc thì phải có thịt gà, đàn ông phải có đàn bà mới vui
Bánh mì phải có patê, đàn ông phải có máu dê trong người
Gặp gỡ người làm văn học miền Bắc - 2
T.K.: Theo anh, nếu đưa được trở lại với đời sống, đâu là những điểm những khía cạnh mà nền Văn học miền Nam có thể giúp ích ngay cho sinh hoạt văn học trong nước?
V.T.N.: Nhìn chung, tất cả những phần đóng góp của văn học miền Nam đối với nền văn học dân tộc, đều là những bài học quý báu cho việc xây dựng nền văn học của chúng ta. Tôi chỉ nói ở đây một điểm là việc xây dựng ngôn ngữ văn học. Hiện nay trong đời sống Hà Nội, ngôn ngữ giao tiếp thông thường... rất kinh khủng. Hôm nọ có người viết bài về việc cần giữ chủ quyền trong ngôn ngữ, ý nói đang có cuộc xâm lăng ngôn ngữ, từ tiếng Anh, đến tiếng Hán xâm nhập vào tiếng Việt một cách lộn ẩu, những người người cầm bút hiện nay nhiều khi cũng hết sức lộn xộn, nhếch nhác, lâu lắm không có người viết văn hay.
Trong lúc đó, tôi đọc lại văn học miền Nam, với những ngòi bút bậc thầy, thấy ở phần hay nhất của mình, Mai Thảo, Võ Phiến, mỗi người có giọng văn riêng, mỗi người một vẻ song đều đậm chất văn học, đều có cái dáng vẻ hiện đại và hé lộ cho thấy một đời sống tinh thần không thể có ở thời tiền chiến được.
Rồi nhiều nhà văn khác, như Thụy Vũ, Nhã Ca, Trùng Dương, Túy Hồng, Y Uyên, Dương Nghiễm Mậu, Phan Nhật Nam, v…v... sau này là Trần Thị Ng. H. văn xuôi của họ, đều là những thể nghiệm ngôn ngữ thu góp được cả cái mạnh của tiếng nói Hà Nội, cả cái mạnh của miền Trung và Sàigòn lục tỉnh.
Từ trước 1975, nhiều người đã nói tới một số nhà văn di cư, họ cùng đóng góp đưa cho ngôn ngữ văn học của Văn học miền Nam lên trình độ một mực thước một cái chuẩn.
Với tư cách một người từ Hà Nội nhìn vào, tôi cũng thấy hai mạch ngôn ngữ đó trong những nhà văn xuất sắc được kết hợp nhuần nhụy, đến bây giờ bọn tôi vẫn có thể trông vào đó để học hỏi. Hoặc trong việc dịch những tác phẩm văn học nước ngoài sang tiếng Việt, cách xử lý tiếng Việt của các dịch giả, tôi thấy đó là điều bọn tôi phải nể và phải tiếp nhận họ và trước tiên phải công nhận những đóng góp của họ.
(Nói chuyện với nhà phê bình Vương Trí Nhàn – Thụy Khuê)
Tài vẽ tranh khôi hài của Tú Mỡ
Năm 17 tuổi (1917), ông bắt đầu yêu một cô gái 15 tuổi ở Hàng Bông, làm được bài thơ tình đầu tiên tên Tương tư...
Năm 1974, bà vợ tào khang chung thủy của ông mất, Tú Mỡ đã viết bài thơ Khóc Người Vợ Hiền, là một trong những bài thơ tình hay nhất:
Bà Tú ơi! Bà Tú ơi
Té ra bà đã qua đời, thực ư?
Tôi cứ tưởng nằm mơ quái ác,
Vùng dậy là tỉnh giấc chiêm bao.
Tỉnh dậy, nào thấy đâu nào,
Nào đâu bóng dáng ra vào hôm mai…
Sau khi gặp gỡ Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), được nhà văn này phát hiện năng khiếu làm thơ trào phúng của ông, năm 1932, Tú Mỡ tham gia Tự Lực văn đoàn, rồi được cử phụ trách mục Giòng Nước Ngược trên tờ Phong Hóa.
Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu mất ngày 13 tháng 7 năm 1976 tại Hà Nội.
Bố con tại nhà cô đầu:
Mười bận tao đến thì gặp mày chín.
(Vũ Thư Hưu)
Một vài ký ức về cụ nhạc phụ Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu
(LTS: Bài này đã được nhà văn Doãn Quốc Sỹ nói trong
buổi Hội Thảo Tự Lực Văn Đoàn hôm 6-7-2013 tại Người
Việt, Westminster.)
Kính thưa quí vị quan khách,
Hôm nay tôi xin được kể một vài điều mà tôi còn nhớ về cụ nhạc phụ Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu. Nhà thơ trào phúng Tú Mỡ- Hồ Trọng Hiếu là thân phụ của bà nhà tôi-Hồ Thị Thảo. Cụ Tú Mỡ có 8 người con, mà cụ đã kể ra trong hai câu thơ:
Năm trai ba gái tám tên
Trung, Hiền, Thảo, Dũng, Hùng, Chuyên, Vĩ, Cường
Bà nhà tôi là con gái thứ ba trong thứ tự này.
Nhà cụ Tú Mỡ ở ngoại thành Hà Nội, thuộc làng Láng, nằm trên con đường Láng, chạy dọc theo con sông Tô Lịch, rất gần địa danh Cầu Giấy. Làng Láng có đặc sản được nhiều người biết đến là rau húng Láng thơm đặc biệt. Về danh lam thắng cảnh thì có Chùa Láng, một trong những ngôi chùa cổ rất nổi tiếng của Hà Nội. Còn nhà của tôi thì thuộc làng Cót, cách nhà cụ Tú Mỡ chừng hơn một cây số, dọc theo con sông Tô Lịch.
(Dõan Quốc Sỹ)
“Thơ con cóc”: Một bài thơ hay
Sự kết hợp giữa hai yếu tố trịnh trọng và vô nghĩa góp phần mở rộng trường liên tưởng của bài thơ: với loài cóc, chỉ có thể có sự vô nghĩa chứ không có sự trịnh trọng. Trịnh trọng là khái niệm dùng cho con người, một loài vật có khả năng tự giác để gán cho hành động của mình một giá trị nào đó có khi chính nó không có.
Bài ‘Thơ con cóc’, như thế, đang nói về con người. Về tôi. Về chị. Về anh. Về tất cả chúng ta. Trong cuộc đời, chúng ta làm bao nhiêu công việc, đôi khi, một cách cực kỳ nghiêm cẩn. Chúng ta đắn đo trước khi khởi sự. Đã đành. Chúng ta còn có thói quen tự chiêm ngưỡng mình lúc đang hành động. Chúng ta tự khoác lên chúng ta cơ man những hào quang lấp lánh. Chúng ta lạm dụng tính từ để miêu tả, để tô vẽ việc làm của chúng ta. Cuối cùng, chúng ta chỉ sống với sự diễn dịch về cuộc đời chứ không phải với chính cuộc đời.
Bài ‘Thơ con cóc’ nhắc nhở chúng ta một sự thật: cuộc đời là cái nó là, chứ không phải cái nó được nghĩ là. Bỏ hết những sự diễn dịch đầy chủ quan, và do đó, đầy ảo tưởng, cuộc đời nào cũng chỉ còn lại vài động tác căn bản, đại khái nhảy vào, nhảy ra, thế thôi. Ừ, thì cuối cùng cũng chẳng ra làm sao cả. Ở trong nước nhảy vọt qua Indonesia; từ Indonesia nhảy vọt qua Pháp, rồi từ Pháp lại nhảy vọt qua Úc, tưởng làm được điều gì ghê gớm lắm; té ra, không, chỉ ngồi ỳ một chỗ với áo cơm, với mộng tưởng, với nhớ nhung lan man, chờ một ngày lại nhảy đi nữa.
Mà đi đâu? Bài thơ mở ra bằng một không gian hẹp, xác định và không chừng ấm áp lắm: cái hang.
Các động từ kế tiếp đều là những động từ chỉ phương hướng, rõ ràng: nhảy ra, ngồi đó. Ở câu cuối cùng, bài thơ đóng lại bằng một động từ không phương hướng để mở ra một không gian vô định: nhảy đi. Đi đâu? Ai mà biết. Chỉ nhảy đi. Vậy thôi. ‘
Bể vô tận sá gì phương hướng nữa’ (Vũ Hoàng Chương). Trời đất bao la, ai hơi đâu theo dõi cóc làm gì. Khác với những từ ở trên kết thúc bằng những nguyên âm mở (a/o), động từ ‘nhảy đi’ kết thúc bằng một nguyên âm hẹp. Nó gợi nhớ cái âm hao áo não ê chề trong thơ của Tú Xương ngày nào:
Tấp tểnh người đi, tớ cũng đi
Cũng lều cũng chõng cũng vô thi
(Đi thi)
Bụng buồn còn biết nói năng chi
Đệ nhất buồn là cái hỏng thi
(Thi hỏng)
(Nguyễn Hưng Quốc)
Văn hóa... khói
Từ điển chính tả sai lỗi… chính tả
“sử: sử nữ. → không viết: xử”. (Gs Nguyễn Văn Khang)
Viết ‘xử” mới đúng, vì “xử nữ” 處 女 mới có nghĩa là “Người con gái còn ở nhà với bố mẹ, chưa đi lấy chồng.” (Việt Nam tự điển-Hội Khai trí Tiến đức).
(Hòang Tuấn Công)
Bài thơ Con Cóc qua nhận định
nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc
Chương trình Văn Học Nghệ Thuật kỳ này Mặc Lâm xin giới thiệu nhà phê bình lý luận văn học Nguyễn Hưng Quốc và tác phẩm Thơ v…v…trong đó đặc biệt nói về bài thơ "Con Cóc" mà ông chứng minh là một bài thơ không dở như mọi người thường nghĩ từ trước đến nay. Là một nhà biên khảo và phê bình văn học thường đưa ra những bài viết có tính đột phá, đào sâu vào những lập luận mà các trường phái phê bình văn học trên thế giới thường áp dụng để tìm ra một hướng cảm thụ văn học mới và từ đó hướng người đọc lẫn người viết tránh bớt những lối mòn mà văn học Việt Nam đã đi gần một thế kỷ qua.
***
Mặc Lâm: Thưa anh, một trong những đề tài văn học được bàn cãi sôi nổi trong vài năm trước đây khi cả trong và ngoài nước tập trung vào bài viết "Thơ Con Cóc " của anh. Bỏ qua những chuyện chê khen, xin anh cho biết ý tưởng này có phải phát xuất từ mục đích luôn vận động làm mới cách cảm thụ mỹ học nói chung và văn học nói riêng?
Nguyễn Hưng Quốc: Thưa anh để cho chính xác tôi xin thưa là cái bài viết về thơ Con Cóc thật ra được in từ năm 1994 sau đó được in trong quyển Thơ v...v…và v...v...in năm 1996 tức là cách đây hơn 10 năm rồi. Khi nó mới xuất hiện bài viết về bài thơ Con Cóc của tôi được tranh luận rất ồn ào không những ở hải ngoại mà còn trong nước nữa.
Về phương diện lý luận mà nói chuyện gì trở thành điển hình thì không thể dở được ngay khi nó điển hình về cái dở thì cũng là sự thành công, kiểu như Nam Cao mô tả Thị Nở cũng là một sự thành công về nghệ thuật.
Nó tạo ra cái gọi là trận địa Con Cóc trên nhiều tạp chí văn học. Tuy nhiên suốt thời gian vừa rồi những cuộc tranh cãi ồn ào có lắng xuống nhưng những ý kiến bất đồng đây đó vẫn còn, đây là lý do khiến tôi cho tái bản lại cuốn sách trong đó có bài Thơ Con Cóc. Lần này thì tôi tập trung hẳn vào bài thơ Con Cóc và những bài lý thú văn học tập trung chung quanh bài thơ này.
(Mặc Lâm, phóng viên đài RFA)
Văn hóa... hủ tíu cà phê
Lúc đó, bà Lê Thị Ngọc đang góa chồng, nách lại có ba con nhỏ trong khi nhà đang rất nghèo. Để nuôi con, bà lập ra một cái quán nhỏ bán đồ lặt vặt ở ga Đất Hộ (Đa Kao) bấy giờ. Lưng vốn của bà chỉ có năm ba chục, tất cả nguồn sống trông nhờ vào quán.
Nhưng bà Ngọc là người sáng trí, biết tính toán. Biết đang có phong trào tẩy chay hàng hóa Hoa kiều, vận động dùng hàng nội, bà tận dụng ngay cơ hội. Bà vội cầm hết đồ tư trang nhỏ bé của mình, về làng Bình Hòa tìm bà con để vay mượn thêm, tổng cộng được tất cả bốn, năm trăm đồng.
Thoạt đầu, bà mở tại Đa Kao tiệm lấy tên Đức Thành Hưng trên đường Albert 1er (Đinh Tiên Hoàng), mà theo báo Phụ Nữ Tân Văn đây là tiệm bán hủ tíu cà phê đầu tiên của người Việt.
Cái tên của tiệm phải chăng nói lên ước nguyện của bà: “Có đức mặc sức mà ăn”, thậm chí sẽ hưng thịnh nếu có làm ăn biết giữ chữ “đức”. Ban đầu, chỉ có bốn mẹ con hợp sức với nhau lo bán quán. Sau nhờ đồng bào người Việt ủng hộ, tiệm đẳt khách dần. Rồi bà tiếp tục mở thêm tiệm thứ hai, thứ ba… qua mỗi năm, lên tới tổng cộng chín tiệm, nhất nhất phải mang tên “Đức Thành Hưng” trong 15 năm sau đó, tính đến năm 1933.
Thật ra, lúc đó không chỉ có bà Lê Thị Ngọc biết tranh thủ làm ăn trong lúc thuận lợi như vậy. Nhiều người cũng lập tiệm bán hủ tíu cà phê vì biết nhiều người ưa chuộng . Như tiệm Hòa Mỹ Tuy ở Đa Kao, tiệm Vĩnh Đa ở đường Amiral Courbert (Nguyễn An Ninh), tuy nhiên, các tiệm này đã không trụ được lâu.
(Phạm Công Luận)
Động Đình Hồ - cội nguồn của tộc Việt - 1
Hồ Động Đình (tài liệu từ Atlas)
Quân Sơn, một đảo nằm giữa hồ có 72 đỉnh núi, nổi tiếng với các loại trà thơm, hoa lá quý hiếm tươi tốt quanh năm. Cảnh đẹp thần tiên, nhiều truyện tích rất u linh chích quái, liêu trai chí dị. Từ hàng ngàn năm, nhắc đến Tiêu Tương Hồ Nam, là nhắc đến tiên cảnh Động Đình Hồ, đến “Bát cảnh Tiêu Tương” của vùng Giang Nam.
Từ miền Hoa Bắc sa mạc, người thuộc chủng Hoa Hạ ào ào lưng ngựa triền miên chinh phục hết miền đất này đến miền đất khác. Người Hoa Bắc nổi tiếng văn chương rất khô khan. Trái lại, miền Nam sông Dương Tử, nhất là miệt Động Đình sông nước mây khói mơ màng, nổi tiếng nhất với hai con sông Tiêu và Tương chảy vào lòng hồ, là nguồn cảm hứng bất tận cho thơ văn…
“Ai có về bên bến sông Tương/ Nhắn người duyên dáng tôi thương/ Bao ngày ôm mối tơ vương…” của nhạc sĩ Thông Đạt.
Hay Kiều của Nguyễn Du, “Sông Tương một giải nông sờ/ Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia” cũng là sông Tương này.
Chinh phụ ngâm, những vần thơ hết sức đẹp, lấy cảnh sông nước Hồ Động Đình:
Chốn Hàm Dương chàng còn ngảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng…
(Trần Thị Vĩnh Tường)
Tiểu sử
Trần Thị Vĩnh Tường quê ngoại ở Hưng Yên. Hiện ngụ cư tại California
Tác phẩm
Bao Giờ Cho Quên, Gửi Về Em, Mùa Thu Hà Nội,
Ba Sinh Hương Lửa
Hai chữ “Ba Tàu” có từ năm 1919
Theo một bài viết về bà Lê Thị Ngọc mở 7 tiệm hủ tiếu cạnh tranh với người Tàu vào năm 1919. Năm này người Tàu độc quyền về những xe hủ tiếu ở Chợ Cũ, vì họ tăng giá cà phê vọt lên một xu một ly nên người Sài Gòn chửi thề: “Tổ cha ba thằng Tàu”.
Sau mảng chữ trên được bỏ bớt đi ba chữ còn lại là…“Ba Tàu”.
Động Đình Hồ - cội nguồn của tộc Việt - 2
Hồ Động Đình trong truyền thuyết Hồng Bàng
Theo Đại Việt sử ký toàn thư: “Cứ theo tục truyền vua Đế Minh, cháu ba đời vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam đến Ngũ Lĩnh (Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc, và phong Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.
Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía Bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía Đông giáp bể Nam Hải….”
(Trần Thị Vĩnh Tường)
Khoa trương trong ca dao của người Việt
Một số cách biểu đạt khoa trương tính mơ hồ của ngôn ngữ trong ca dao. Cách biểu đạt khoa trương trong ca dao của người Việt rất phong phú. Trong bài viết này chúng tôi xin giới thiệu một số cách phổ biến sau:
Trăm năm, trăm tuổi, trăm chồng
Hễ ai có bạc thì bồng trên tay
Con số “trăm” ở đây biểu thị ý nghĩa mức độ “rất cao, “cực kì cao”, nói khái quát một cô gái lẳng lơ, hám của thay chồng như thay áo.
Trong khi đó, người phương Đông lại thích dùng con số “10” và những số “gấp mười” 10, 100, 1000 v.v…Tuy nhiên, điều này cũng không thật tuyệt đối, mà còn phụ thuộc vào thói quen của người sử dụng ngôn ngữ trong từng trường hợp cụ thể; nhất là trong ca dao một thể loại văn vần đòi hỏi sự nghiêm ngặt về số âm tiết và vần điệu. Ví dụ:
Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
Thất bát sông cũng lội cửu thập đèo cũng qua
Thành ngữ xuất xứ từ thơ cổ và điển cố
Bãi bể nương dâu
Thành ngữ “bãi bể nương dâu” nói về những thay đổi lớn trong cuộc đời. Thành ngữ này bắt nguồn từ thành ngữ tiếng Hán “滄 海 桑 田” [thương hải tang điền]. Trong văn học Tàu, hình ảnh “bãi bể nương dâu” trở thành tứ cho nhiều câu thơ, bài thơ nổi tiếng. Chẳng hạn, trong một bài thơ của Tô Thức đời Tống có câu: “不 惊 渤 澥 桑 田 变” [Bất kinh bột giải tang điền biến]. Nghĩa là: “Không sợ bể Đông biến thành ruộng dâu”. Cũng nhờ câu chuyện trên mà về sau trong tiếng Hán xuất hiện thành ngữ “滄 海 桑 田” [thương hải tang điền].
Tiếng Việt đã mượn thành ngữ này theo lối mượn ý dịch lời. Về ý nghĩa, “bãi bể nương dâu” cũng nói đến sự đổi thay thế sự với bao nỗi nuối tiếc, ngậm ngùi.
Nó thường xuất hiện trong văn học cổ điển. Chẳng hạn, trong bài “Ai tư vãn” của Lê ngọc Hân khóc vua Quang Trung:
Phút giây bãi bể nương dâu
Cuộc đời là thế biết hầu nài sao.
Hoặc:
Khóc vì nỗi thiết tha sự thế
Ai bày trò bãi bể nương dâu.
(Nguyễn Gia Thiều - Cung oán ngâm khúc)
(Nguyễn Ngọc Kiên)
Cua cáy phiếm lược - mắm cáy
Cùng mắm cáy, tục ngữ ta có câu “bồ dục chấm mắm cáy”, lâu ngày biến thái thanh “dùi đục chấm mắm cáy”. Thôi thì đành quấy quá đến cụ Nguyễn Khuyến…
Cuối năm, cụ Tam Nguyên được anh làm lợn bên hàng xóm góa vợ mang sang biếu bát tiết canh và đôi bồ dục để xin câu đối Tết. Cụ cười và đáp: Anh vừa làm câu đối rồi mà anh không hay đấy thôi. Nói rồi cụ mượn hai chữ tiết canh, bồ dục của anh làm lợn, cụ Tam Nguyên Yên Đỗ làm hai câu đối:
Tứ thời bát tiết canh chung thủy
Ngạn liễu gò bồ dục điểm trang
Cụ phóng bút hai câu tả cảnh xuân với liễu bên gò cỏ bồ. Cụ Nguyễn Khuyến ghép chữ thứ 4 và 5 ở câu trên và dưới ra “tiết canh” và “bồ dục” để đối với anh làm lợn.
Ngoài ra, theo chữ Hán, đôi câu đối trên nói lên nỗi lòng người vợ trẻ của anh vừa mất:
Bốn mùa tám tiết hằng luân chuyển
Liễu cỏ bên bờ muốn điểm trang
Tám tiết trong một năm: xuân phân, thu phân, hạ chí, đông chí
và lập xuân, lập hạ, lập thu, lập đông.
Những truyện ngắn Việt Nam làm liên tưởng đến điện ảnh
Có một điều thật mâu thuẫn: cây cầu xe lửa chiến lược cần thiết cho quân đội Nhật, tại sao chỉ vì muốn chứng tỏ tài giỏi của người Anh mà tù binh Anh lại xây cầu giúp dễ dàng quân vận cho Nhật. Không thể chấp nhận được, nên bộ chỉ huy Anh ở Đông Nam Á quyết định phái đặc công tới đặt mìn phá cây cầu. Đúng ngày khánh, một tù binh Anh và một đại tá Nhật, khám phá thấy sợi giây gài mìn phá hoại. Và chạm súng giữa đặc công Anh và quân Nhật, nhưng không còn kịp ngăn chặn, chiếc cầu đã bị phá hủy.
Không rõ nhà văn Lâm Chương có thật sự chịu ảnh hưởng từ cuốn phim này, hay do ta hoàn toàn liên tưởng, mà truyện ngắn “Chiếc Cầu và Con Suối” cũng cùng có ý tưởng về sự chiến thắng sau cùng của thiên nhiên. Truyện viết như một mảnh hồi ký trong thời gian ông đi tù cải tạo vùng sơn lâm gần hồ Thác Bà ở Việt Bắc. Trại tù rừng núi ở gần một con suối nước chảy xiết, cực mạnh vào mùa lũ. Bên kia suối là con đường dẫn về tỉnh Tuyên Quang. Không có chiếc cầu qua suối thì trại tù bị cô lập với những bản làng bên kia, cho nên năm nào cũng phải bắc một cây cầu mới phục vụ cho mùa khô, đến mùa lũ thì bỏ mặc cho cầu bị nước cuốn phăng đi.
Đồng ý nghĩ như đám tù binh Anh xây cầu trên sông Kwai với tâm thức muốn tỏ ra tài năng, hình như tác giả Lâm Chương muốn nói như vậy: “Các cán bộ trại đề ra kế hoạch làm cầu treo. Nghĩ ra kế hoạch là cái đầu của những kẻ coi tù. Thực hiện kế hoạch là những người tù”. Tác giả viết như trên thì chưa đề cao nhiều lắm vai trò chủ động của tù cải tạo. Họ tỏ ra tài năng ở công trình khôn khéo là làm sao đem về được những thân cây hai người ôm mới giáp vòng. Họ đốn cây rồi cho lăn từ trên núi xuống suối, và nhờ sức nước con suối đem bốn thân cây tới nơi làm trụ cầu treo.
Thiên nhiên mãnh liệt một lần nữa chiến thắng trước con người. Trong truyện được thực hiện qua phim “Cây Cầu Trên Sông Kwai”, tác giả Pierre Boulle viết ra với tâm thức phản chiến, có màu sắc khác với truyện của Lâm Chương viết ra với tâm thức duy tâm muốn thể hiện lòng tôn kính sức mạnh thiên nhiên: “Chuyện cây cầu treo năm ấy, là bài học quý giá, dạy cho con người đức tính khiêm cung, biết được thân phận nhỏ nhoi của mình có nghĩa lý gì đâu, so cái lớn lao vô cùng trời đất”./.
Walnut, California, tháng 9.2009 và tháng 11.2010
(Trần Văn Nam)
Tác giả : Trần Văn Nam sinh ngày 18-11-1939 tại Bến Tre. Ðến Mỹ cuối năm 1981, ở tiểu bang Virginia, rồi California. Mất ngày 10-1-2018 tại City of Walnut, CA.
Tốt nghiệp Ðại Học Sư Phạm Sài Gòn, khóa Việt Văn cấp tốc 1967, và Cử Nhân Giáo Khoa Triết Học Tây Phương, Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn 1973. Dạy học ở nhiều tỉnh miền Tây: Vĩnh Long, Sa Ðéc, Kiên Giang.
Tác phẩm : Trước 1975 ở trong nước và sau 1975 tại hải ngoại có một số bài tiểu luận văn học đã đăng báo.
Thập niên 30, Sài Gòn lai rai
Quán nhậu nào có tuổi đời dài nhất ở đất Sài Gòn này? Có thể đó là quán Ngân Đình, ít ra là tới 70 tuổi. Trong một bài viết, nhà văn Bình Nguyên Lộc có nhắc đến cái quán nhậu tồn tại rất lâu ở trung tâm Sài Gòn này, ngay cột cờ Thủ Ngữ chỗ doi đất đưa ra ở bến Bạch Đằng bây giờ. Hồi cuối thế kỷ 19, nơi đó là một cái trạm gì đó không rõ, tên là trạm Gia Tân, có tiếng thời đó nên được nhắc trong cuốn “Kim Gia Định Phong cảnh vịnh” do cụ Trương Vĩnh Ký xuất bản năm 1882.
Đến năm 1900, có một ông người Pháp thấy doi đất đẹp nên thuê rồi sắm ghế sắm quầy, bỏ vốn ra khá nhiều để rào quán lại bằng một hàng rào sắt và mở cái quán nhậu. Quán chỉ mở cửa vào mùa khô từ tháng mười một ta đến cuối tháng năm, vì là quán lộ thiên và chỉ bán rượu, không có thức ăn, không có tiếp viên.
Cái hàng rào sắt ông ta làm với mục đích ngăn không cho khách say rượu… lọt xuống sông.
(Phạm Công Luận)
Ca dao hiện đại, thành ngữ hiện thực
Việc dễ mà không làm cho khó
Thì làm chó gì có... thịt chó mà ăn
Trên tuyến tàu xưa Gò Vấp-Sài Gòn
Xe lửa chạy dọc Lê Quang Định ra Bà Chiểu rồi ngừng cho khách lên xuống. Tấp nập, kẻ đi Đât Hộ (Dakao), Sài Gòn, người xuống chợ Bà Chiểu, đi thăm Lăng Ông, đi xin xâm vì tin rằng Đức Tả Quân Lê Văn Duyệt hiển linh. Cuối Lê Quang Định, đối diện chợ Bà Chiểu quẹo trái đi vào đường Hàng Xanh (sau là Bạch Đằng) để đi Thị Nghè hoặc Cầu Sơn, Bình Qưới. Nếu đi thẳng là đường Bùi Hữu Nghĩa (xưa là đường Nhà Thờ (Rue de L’Eglise))
Ga Bà Chiểu năm 1913
Xe điện chạy theo đường Bùi Hữu Nghĩa Gia Định
Rời ga Bà Chiểu xe lửa chạy dọc hông chợ theo đường Bùi Hữu Nghĩa (l’Eglise), qua khu nhà thờ Bà Chiểu qua cầu Sắt tới Đất Hộ (Đa kao) thuộc quận nhất.
Toà Bố-Toà Tham Biện- Gia Định đầu thế kỷ 20 sau Tòa Hành Chánh Gia Định
Cuối đường Lê Quang Định quẹo phải đi đến Toà Bố, đối diện tòa bố cửa sau Lăng Tả Quân Lê văn Duyệt, kế đó là chợ Bà Chiểu.
Lăng Tả Quân
Đường Chi Lăng đi ngang trường vẽ
Mỹ nghệ Thực hành.
(Y Nguyên - Mai Trần)
Mâu thuẫn
Mâu là cái giáo, thuẫn là cái mộc, hai vật dùng để chống nhau.
Nghĩa bóng là chống lại nhau, ngược lại nhau.
(Chữ nghĩa chúng ta – Bùi Bảo Trúc)
Góp nhặt cát đá
Mộng
Đi trong cõi mộng ta đừng mộng
Đứng giữa đất trời chẳng hướng trông
Ngồi đây soi bóng mình qua lại
Nằm ngủ mơ màng nhớ tánh không
Hậu thuẫn
Hậu là phía sau, thuẫn là cái mộc.
Nghĩa bóng là những giúp đỡ, che chở ở phía sau giúp thêm mạnh để người đi trước tiến tới mà không lo sợ.
(Chữ nghĩa chúng ta – Bùi Bảo Trúc)
Ngôi sao Hàn Thuyên
Phải đợi đến trưởng thành, thiên đô và tản cư kháng chiến, tôi mới được gặp nhân vật văn học từng đã mênh mông trong trí tưởng lãng mạn và suy diễn thơ dại một thời . Bấy giờ là mùa hè 1948. Năm kháng chiến thứ ba. Pháp mở cuộc tổng càn trên khắp mấy tỉnh hai bờ Hồng Hà. Tôi chạy vào khu Tư. Được một cơ quan chuyên môn nơi tôi làm việc phái đi tham dự đại hội văn nghệ liên khu tổ chức tại làng Quần Tín, tỉnh Thanh Hoá. Trong đám hai trăm đại biểu từ khắp nơi đeo bạc đà, vượt tiêu thổ, về họp mặt dưới những chùm hoa gạo đỏ thắm trên mái làng Quần Tín, người Hàn Thuyên gần đủ mặt, chỉ thiếu Lê Văn Siêu.
Mai Thảo ơi! Sông Mã sông Chu có cầu không nhỉ? Đó là câu đề tặng sau này, cuốn Ai Có Qua Cầu, anh Quỳnh viết cho tôi, trong cái ý gợi tôi nhớ lại cùng anh mấy lần gặp mặt giữa hai giòng Chu, Mã chảy song song trên địa hình Thanh Hoá. Và cái tuần lễ ghi khắc sâu đậm trong trí nhớ tôi, ở Quần Tín. Đã ngót ba mươi năm. Tôi còn như đang thấy anh đến. Tráng kiện, mạnh mẽ. Khuôn mặt rám nắng, vầng trán mênh mông. cái nhìn sáng và sắc, chém đinh chặt sắt . Với cái gậy trúc ngắn trong tay, bộ bà ba rộng, cái vóc dáng cao lớn in hình lên mặt nước sông Chu xanh biếc, và nụ cười, nụ cười thân yêu bè bạn sau này không bao giờ quên của cả một lớp người văn nghệ trẻ tuổi ở miền Nam, anh Nguyễn Đức Quỳnh tức khắc là "người" của đám người viết mới như tôi, trong đại hội. Bên cạnh một Trương Tửu lè phè, xập xệ, một Đặng Thái Mai nhợt nhạt, đau yếu, anh là khuôn mặt sống động và nghệ sỹ nhất của nhóm Hàn Thuyên chúng tôi thấy mặt lần đầu. Thực ra, tới năm đó, Hàn Thuyên kể như không còn nữa. Bởi những bất đồng ý thức, những lựa chọn hàng ngũ tách rời giữa những nhân vật cột trụ, Hàn Thuyên đã chia lìa.
Như chúng ta thấy trong cùng một thời kỳ, sự chia lìa của Đời Nay, với sự rời khỏi 80 Quan Thánh của Thế Lữ và Tú Mỡ. (Mở một dấu ngoặc. Không ăn thua mảy may đến mình, mà sự tan vỡ của Hàn Thuyên và Đời Nay với tôi đến nay vẫn là hai cuộc chia lìa buồn bã và bi thảm nhất của văn học Việt Nam).
(Mai Thảo)
Đến Diên Khánh nhớ tích xưa
(cửa Tiền – còn cửa Hậu nữa nhưng do hiện nay cửa Hậu nằm sau một trường mẫu giáo nên không chụp được)
Kể thêm về một giai đoạn biến động khác của thành Diên Khánh. Sau khi xây dựng xong, thành được giao cho hoàng tử Cảnh và Bá Đa Lộc chỉ huy (người đã theo Nguyễn Ánh từ những ngày đầu, sau này ông mất được chôn ở Gia Định, vị trí mà ngày nay gọi là Lăng Ông Cha Cả). Nhà Tây Sơn quyết tâm chiếm lại thành Diên Khánh, đã phái tướng là Trần Quang Diệu đánh chiếm lại Diên Khánh. Nguyễn Ánh phái tướng Võ Tánh ra ứng cứu.
Dưới mặt thành này, là nơi quân của Trần Quang Diệu đã vây thành hàng năm trời
Đây là trận giao đấu đầu tiên của 2 vị tướng: Võ Tánh và Trần Quang Diệu. Trận thuỷ chiến khốc liệt diễn ra tại bến Trường Cá, một địa điểm gần thành Diên Khánh. Hai bên đánh nhau ác liệt nhưng do thuỷ binh của Tây Sơn nổi tiếng thiện chiến nên cuối cùng quân của tướng Võ Tánh phải thất thủ. Trần Quang Diệu cho quân áp sát vây thành Diên Khánh một thời gian dài, cuối cùng Nguyễn Ánh phải một lần nữa điều binh ra giải vây. Chính lịch sử nhiều biến động của toà thành nhỏ bé này mà tôi nuôi ý định từ trước đến giờ là chụp một bộ ảnh về nơi đây.
(Trần Ngọc Hiếu)
Kỷ vật Hồ trường
1. Đến nay, có ít nhất 5 bản in lời ca Hồ Trường, mà các bản có nhiều chỗ không giống nhau. Nam phương ca khúc là tên tạm đặt cho lời ca mà Nguyễn Bá Trác đã nghe được, chép lại và dịch thành lời ca Hồ Trường.
Nam phương ca khúc được đăng lần đầu tiên theo thiên ký sự Hạn mạn du ký (HMDK) của Nguyễn Bá Trác trên Nam Phong tạp chí phần chữ Hán số 30, trang 214 năm 1919. Về mặt văn bản, thì bài ca ấy không rõ tựa đề, không biết tác giả, Nguyễn Bá Trác chép lại toàn vẹn Nam phương ca khúc. Và khi Hạn mạn du ký được sang chữ Việt thì lời ca này đã được dịch rất thoát, tuy nhiên nó vẫn là “lời ca” minh hoạ cho văn cảnh ấy chứ không phải “bài thơ hồ trường” như nhiều người từng gọi.
Theo nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc Phạm Hoàng Quân, gần đây, ông tình cờ sưu lục được tác phẩm gốc đã được Nguyễn Bá Trác dịch thoát thành bài thơ bất hủ Hồ Trường, trong lúc làm tổng mục lục cho phần Hán văn của Nam Phong. Ông cho biết: “Mặc dù trứơc đó mình có biết bài Hồ Trường nhưng khi làm mục lục thì vô tình phát hiện bài “Hạn mạn du ký” bằng chữ Hán. Đọc lướt qua và khi dừng lại thấy có bài lời ca Hồ Trường bằng chữ Hán ở đó. Khi gắn kết bài thơ lại tôi mới nhớ lại thì biết rằng đây là bản gốc của bài Hồ Trường, mà ông Nguyễn Bá Trác dịch ra tiếng Việt. Bản dịch của Nguyễn Bá Trác dịch thẳng từ chữ Hán qua thẳng lời ca chữ Việt không có phiên âm thành ra nó hơi lạ một chút nhưng nội dung còn giữ được tinh thần của bản gốc.
(Trần Trung Sáng)
***
Phụ đính I
40 Năm hải ngoại - Một nén hương - Cho những nhà văn
nhà thơ đã khuất núi
(Danh sách cập nhật tới tháng 6/2017 – Nhật Tiến biên soạn
Tổng hợp từ nhiều nguồn)
Phan Lạc Phúc
(1928-2016)
Nhà Văn, nhà báo Phan Lạc Phúc, bút hiệu Ký Giả Lô Răng, sinh năm 1928, bào huynh nhà văn Phan Lạc Tiếp.
Ông tốt nghiệp Khóa 2 Thủ Đức và năm 1955.
– Năm 1957, ông được gửi đi học khóa Sĩ Quan Thông Tin Báo Chí (Press Information Officer) tại Ft. Slocum, New York, Mỹ.
– Năm 1965, là chủ bút của tờ nhật báo Tiền Tuyến và mở mục Tạp Ghi dưới tên Ký Giả Lô Răng.
Sau biến cố tháng Tư, 1975, Trung Tá Phan Lạc Phúc đã qua các trại tập trung Long Giao, Suối Máu, ra Bắc ở Liên trại 2 Sơn La, Phù Yên, Thanh Phong, Tân Kỳ (Nghệ Tĩnh), Hà Nam Ninh, sau cùng là Xuân Lộc Z.30D. Ra tù năm 1985.
Năm 1991, vợ chồng ông đến định cư tại Sydney, Úc.
Ông cầm bút trở lại, và cũng với thể loại tạp ghi xuất hiện trên nhiều tờ báo khác tại Úc Châu như Chiêu Dương, Văn Nghệ, Việt Luận, và Ngày Nay (Mỹ), Quê Mẹ (Pháp), Thời Báo (Canada).
Ông qua đời vào ngày 28 tháng 4 -2016 vì đột quỵ tại Sydney (NSW) Australia.
Tác phẩm:
– Bạn Bè Gần Xa (2000,)
– Tuyển Tập Tạp Ghi (2002).
***
Phụ đính II
Chữ nghĩa làng văn
Trùng Dương - 1
Nhà văn Pháp có nhiều ảnh hưởng tới lớp trẻ và một vài nhà văn Việt Nam, là một nhà văn nữ trẻ tuổi của Pháp (trẻ với hồi ấy, sau cũng lên lão như tài tử sexy Brigitte Bardot), đó là Francoise Sagan. Những tác phẩm của cô (gọi là cô vì hồi đó mới hơn hai mươi): Bonjour tristesse (Buồn ơi, chào mi), Dans un mois dans un an (Trong một tháng trong một năm)...
Giới trẻ Việt Nam hâm mộ Sagan qua văn chương đã đành mà còn say sưa thưởng thức qua điện ảnh Pháp, trong đó những nhân vật nữ của Sagan được đóng bởi các tài tử trẻ xinh đẹp và dễ thương. Một số độc giả và khán giả khó tính có chê bai thái độ sống buông thả trong tình yêu, và rượu, biển và tình dục của các nhân vật ấy. Chung cục của các tác phẩm của Francoise Sagan hay buồn, là thứ buồn khi nhìn lá vàng rụng vào mùa thu, nỗi buồn khi ngồi trên đá tảng nghe sóng vô tận trên đá. Cứ như thế từ ngàn năm, trong khi đời mình và tuổi trẻ thật phù du: không ngòai cái quyến rũ của thân xác phàm tục, cái trái ương chưa cắn vào đã thấy ghê răng, các trái chín mọng làm mềm môi ngọt miệng... đã rời xa khỏi tầm tay với.
Các tác phẩm làm Trùng Dương nổi tiếng một thời nằm trong giòng văn chương ảnh hưởng văn hóa Pháp, văn chương Francoise Sagan nói chung, với một chút triết lý hiện sinh. Francoise Sagan và các nhân vật của bà thường buồn chán, tiếng Pháp là l’ennui, nhưng không triết lý xa gần.
(Tình dục và các nhà văn nữ miền Nam 1955-1975 – Thế Uyên)
Chữ nghĩa làng văn
Trùng Dương - 2
Còn các nhân vật nữ của Trùng Dương uống rượu ít hơn, và lúc nào cũng lý luận, tìm hiểu mọi sự ở đời. Như trong tác phẩm Vừa Đi Vừa Ngước Nhìn của Trùng Dương:
"Tôi còn được bố mẹ cho ăn nhờ ngày hai bữa cơm, cho ngủ nhờ và không ngớt chê bai tôi là vô dụng vì tôi chê bai cả chính tôi vì chính tôi chả là cái gì cả. Tôi thiếu một chỗ đứng, không có một chỗ đứng. Biết vậy nhưng vẫn phải sống. Biết vậy, nhưng không thể chết. Để cứ mãi chán ngán, buồn nản... Tôi không hiểu tại sao, bỗng dưng tôi lại tách rời ra khỏi lứa tuổi của tôi để bây giờ muốn trở lại nhưng không tìm thấy đường vào... cảm thấy mình trôi dạt vào một hòn đảo nhỏ xíu giữa biển sóng lớn nước mênh mông. Ở giữa đảo là một cái cây trụi lá..."
(Tình dục và các nhà văn nữ miền Nam 1955-1975 – Thế Uyên)
Tiểu sử :
Trùng Dương, tên thật: Nguyễn Thị Thái, sinh năm 1944 tại Sơn Tây. Hiện cư ngụ tại Oregon, Hoa Kỳ.
Tác phẩm :
Vừa Đi Vừa Ngước Nhìn, Mưa Không Ướt Đất, Chung Cư, Lập Đông, Những Người Ở Lại
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét