Chữ Nghĩa Làng Văn
Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
“Chữ nghĩa làng văn” đôi khi chỉ là một chữ, cụm từ, đoạn văn cô đọng, diễn nghĩa, diễn giải một áng thơ văn hoặc một thể tài nào đó. Những trích dẫn được góp nhặt qua sách vở, trên mạng lưới của nhiều tác giả thành danh hay khuyết danh, không ngoài góc nhìn tận tín thư bất như vô thư. Ấy là chưa kể nhiều từ ngữ, đề mục trong bộ sưu tập đang còn trong vòng nghi vấn, cần phải thẩm định lại nếu có thể được với những bậc thức giả văn kiến súc tích. Những phụ chú, dẫn chứng hay giai thoại do người viết kể lại, với chủ quan, khách quan chỉ cách nhau một sợi tóc. Vì vậy người sưu tầm không đặt ra “sai” hay “đúng”, vì cái sai hiện tại có thể là cái đúng ở một thời điểm nào khác. Xin chân thành cảm tạ và cáo lỗi những tác giả đã đóng góp bài vở trong sưu tập này, nhưng vì phương tiện eo hẹp nên người sưu tầm không thể thỉnh ý tác giả trước khi đăng tải – Ngộ Không Phí Ngọc Hùng.
***
Quan xa nha gần
(Quan thì xa, bản nha thì gần)
Nha là phòng giấy của các quan. Nha môn là cửa quan.
Ngày trước, khi người dân có việc kêu kiện, nha lại thường làm khó dễ để vòi tiền. Vì vậy mới có câu thành ngữ này.
Một số sai lầm khi dùng từ Hán-Việt
Sai lầm vì dùng từ Hán và Nôm trùng hợp
Không nói “minh định rõ ràng” nên nói “minh định”.
(Lưu Khôn)
Tản mạn về tiếng Việt - 1
Gần Tết lòng buồn rười rượi. Không buồn sao được, thời gian trôi đã xa lắm rồi. Mà bức màn ký ức buồn thảm vẫn phủ lên tâm khảm bao người xa quê. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ...
Những vần thơ của Nguyễn Du gợn lên trong ký ức, câu được câu mất...
Buồn trông cửa bể chiều hôm.
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa...
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Mây trôi man mác biết là về đâu.
Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu.
Chân mây mặt nước một màu xanh xanh...
(Minh Võ)
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Cười người chớ dại cười lâu
Cười hết hôm trước hôm sau lấy gì cười
Tản mạn về tiếng Việt - 2
Thấp thoáng, xa xa, rầu rầu, xanh xanh, man mác... những điệp ngữ, điệp âm khiến lòng người thưởng lãm cũng buồn man mác, buồn vô hạn...
Nhân đây, chúng tôi xin cống hiến bạn đọc vài suy tư riêng về một vài từ ngữ tiếng Việt để nói lên cái phong phú, đa dạng của ngôn ngữ hàm chứa những tâm tình sâu kín tế nhị, tuy khó diễn tả mà đã được diễn tả thành những áng văn chương tuyệt tác. Những vần thơ lục bát rất dễ làm, rất phổ thông mà đủ sức vẽ nên những bức tranh linh động, biến hóa khôn lường, khiến người thưởng lãm phải trầm trồ khâm phục, tấm tắc khen hay.
(Minh Võ)
Ra môn ra khoai
Thành ngữ này có nghĩa là rành mạch, rõ ràng.
Sở dĩ có thành ngữ này là vì cây khoai môn và cây khoai sọ rất dễ bị nhầm lẫn. Khoai môn là khoai có thân và lá dùng làm thức ăn cho lợn, củ ăn bị ngứa lưỡi, thân hình rất giống khoai sọ.
Thành ngữ này thường bị nói lầm “ra ngô ra khoai”.
Cây ngô và cây khoai không thể lầm được.
Tướng mạo con người qua ca dao, dân ca
Đàn bà không biết nuôi heo là đàn bà nhác
Đàn ông không biết buộc lạt là đàn ông hư
Tướng mặt
Mặt là bộ phận được nghiên cứu nhiều nhất trong nhân tướng học phương Đông. Chỉ cần nhìn qua người đối diện, bạn có thể biết cá tính, vận mệnh cả đời của người đó.
10 - Khuôn mặt chữ Vương (王) :
Đây là gương mặt dạng chữ nhật đặt nằm dọc nhưng hai gò má nẩy nở. Khó thành công cả danh và lợi, thường có tiếng mà không có miếng, đời vất vả. Nếu là kẻ có mưu trí cũng khó thành người phú quý. Những người này cả đời vất vả, bôn ba.
Tướng mạo con người qua ca dao, dân ca:
Làm trai cho đáng thân trai
Khom lưng cố sức gánh hai hạt vừng
Ăn no rồi lại nằm khoèo
Nghe giục trống chèo bế bụng đi xem
Dấu phẩy
Phiên tòa xử vụ ly dị, tòa phán với ông chồng:
- Ở với vợ lớn, không được ở với vợ nhỏ.
Ông chồng về nhà đưa bản án cho vợ lớn, chỉ sửa lại dấu phẩy
- Ở với vợ lớn không được, ở với vợ nhỏ.
30 tháng 4 tưởng nhớ nhà văn Chu Tử
Chu Tử bị bắn một lần hồi tháng Tư, 1966 ngay trước nhà trong con hẻm trường Hoài An, Phú Nhuận - vỡ một mảnh hàm - nhưng ông sống sót và hồi phục. Viên đạn oan khiên nghiệp chướng ngày 30 tháng Tư 75 cũng đã thổi bay hàm dưới và là viên đạn chí tử, dứt điểm mà định mệnh đã dành cho đời Chu Tử.
Tôi như nhìn thấy ông nằm ngay trước mặt, đau đớn, quằn quại trên vũng máu và kêu rên, và gọi tên thống thiết đứa con gái thương yêu Chu Vị Thủy đã cùng mẹ, cùng em và chồng con ở lại... Tôi như nghe được cả tiếng ông giục Sơn dốc trọn ống thuốc ngủ cho ông nuốt chửng để khỏi kéo dài cơn thảm thiết. Chu Tử đã chào thua định mệnh, chết dữ dằn và phải chết trầm hà. Số mệnh tham lam đã bắt ông phải trả cả vốn lẫn lời quá nặng.
Tôi đã gần gụi và có quá nhiều kỷ niệm với nhà văn Chu Tử.
Đầu năm 64, tờ Ngày Nay của ông Hiếu Chân bị đóng cửa, tôi đã rời Ngày Nay, theo ông trong cái ê-kíp đầu tiên viết mướn cho những vị chủ báo, có vị không bao giờ viết báo.
Từ tờ Tương Lai, Tiền Tiến của “vua thầu khoán” Đỗ Cường Duy. Rồi tờ Thân Dân của cụ Nguyễn Thế Truyền, Tranh Đấu của ông “vua đái đường” Ngô Đức Mão, Bến Nghé của “vua bóng bàn” Đinh Văn Ngọc... cho đến khi Chu Tử xin được măng-sét ra riêng tờ Sống, đứng tên chủ nhiệm, tất cả kéo nhau về tòa soạn cũ trên đường Hồ Xuân Hương.
(Đào Vũ Anh Hùng)
Cái ấm đất và bộ chén trà Nguyễn Tuân tặng Thạch Lam - 1
Trời mới vừa hửng sáng, đám sương mù dầy đặc từ đêm hôm trước như có linh hồn của một người yêu công việc thấy được ánh sáng đầu ngày đã vội vàng tản mát trên mặt nước Hồ Tây, như những người thợ cần mẫn vội vã đến nơi làm việc. Phía trong làng hoa Yên Phụ, những người trồng hoa đã bắt đầu gánh sản phẩm của những ngày lao động vội vã đi về phía đê Yên Phụ rồi tản mát đến các khu họp chợ để phân phát hương thơm và mầu sắc cho những thiếu nữ mộng mơ.
Trên đê Yên Phụ lúc đó, người phu xe cũng vừa ngừng chạy, đặt hai cái càng xe xuống mặt đường. Một người đàn ông tầm thước mặc đồ Âu Tây trắng, đội mũ phớt trắng chậm rãi bước khỏi xe. Ông cẩn thận ôm trên tay một cái bọc vải mầu nâu gụ, dặn dò thời gian người phu xe trở lại đón rồi thong thả đi xuống đê, rẽ vào con đường làng nhỏ ngược chiều với những gánh hoa đủ mầu sắc.
Qua cái đình có vẽ hình một con hổ vàng vằn đen, phía trước đình là một cái ao dài và nhỏ còn vương lại mấy lá sen tàn, ông nhẹ nhàng đẩy cánh cổng gỗ của căn nhà đầu tiên trên đường.
Đó là một căn nhà tranh vách đất nằm bên cạnh Hồ Tây, một bụi tre khẽ lay động trước nhà và ông nhìn thấy phía bên nhà ngó ra hồ những cành liễu rũ xuống lấp lánh lá còn ướt sương. Ông đứng trước cửa nhà bằng tre, khẽ gọi: chị Lân, chị Lân. Cánh cửa hé mở, một người đàn bà nhỏ nhắn vấn tóc trần thò đầu ra: à anh Tuân, anh đến chơi sớm. Nhà tôi đang ở phòng viết, mời anh vào chơi. Người đàn ông bước vào nhà, để cái bọc vải trên mặt bàn bằng gỗ, cũng vừa lúc đó chủ nhân ở căn phòng nhỏ bước ra.
(Nguyễn Tường Giang)
Từ điển chính tả sai lỗi… chính tả
“sáng: sáng lạn → không viết: sán”. (Gs Nguyễn Văn Khang)
Điều kì lạ là ở mục “sán”, Gs hướng dẫn viết “sán lạn”, đến mục này lại hướng dẫn viết “sáng lạn”, đồng thời khuyên “không viết: sán” Điều đáng nói, là cả hai cách viết này đều sai. Hoàng Phê giảng: “xán lạn 燦 爛 rực rỡ, chói lọi. tiền đồ xán lạn”.. Nên nói và viết là xán lạn, không nên dùng sáng lạn”.
(Hòang Tuấn Công)
Cái ấm đất và bộ chén trà Nguyễn Tuân tặng Thạch Lam - 2
Chủ nhân người gầy, cao, nét mặt thanh tú, đôi mắt sâu và lông mày rậm. Hai người bắt tay nhau: anh ngồi chơi, lâu không thấy anh tới tưởng anh lại đi giang hồ đâu xa. Hai người ngồi xuống ở hai đầu bàn, người khách mở gói vải bầy ra mặt bàn một bộ đồ trà và một hộp trà nhỏ: xin chị cho một ấm nước sôi.
Chủ nhà tò mò ngắm nghía bộ đồ trà: một cái ấm trà mầu đỏ chu sa, một cái đĩa bàn lòng chảo bằng sứ men trắng dưới lòng đĩa có vẽ hình những con kỳ lân với những cái đuôi dài quấn vào nhau, tựa như một tấm bản đồ cổ. Một cái chén tống và một chén quân có cùng một họa hình như cái đĩa bàn, còn một chén quân khác vẽ cảnh bốn người ngồi trong thuyền ngoạn cảnh bên bờ nước có những tảng đá lớn có một cái cây nhỏ vươn ra. Trên thành chén quân này có bẩy chữ Tầu, ắt hẳn là một câu thơ.
Chủ nhân cười hỏi: không biết đây có phải là bộ đồ trà trong “Những cái ấm đất” và “Chén trà trong sương sớm” chăng. Tôi nào có nghi ngờ những điều anh viết đâu. Khách biết là chủ nhân chỉ hỏi đùa, ông vẫn cảm cái ơn tri ngộ của một người bạn văn cùng nòi tình khi viết những lời phê bình cảm động cuốn truyện ngắn ông mới in. Tôi cũng có việc sắp phải đi xa nên đến cùng anh uống vài chén trà từ biệt. Cũng xin để tặng anh bộ đồ trà của gia đình. Khi nào anh uống trà sẽ nhớ đến Nguyễn này.
Một cái hỏa lò đã được mang lên cùng một cái ấm đồng, than trong hỏa lò đã đỏ lửa, bọt than nổ tí tách. Khách mở hộp trà Thiết Quan Âm mới tìm mua được hôm qua rồi khéo léo và từ tốn pha trà. Hai người im lặng thưởng thức trà rồi nhẹ nhàng nói những chuyện văn chương chữ nghĩa. Họ có nhiều chuyện để nói với nhau bởi đó là hai nhà văn cùng tuổi, cùng thời, cùng nổi tiếng vì những bài viết sâu sắc và tinh tế về nghệ thuật ẩm thực và những thú vui tao nhã xưa và nay. Cả hai cùng mới dứt bỏ được ả phù dung, một người vừa in Ngọn Đèn Dầu Lạc, người kia đã có trong tay bản thảo Mười Năm Đèn Lửa. Phải chăng họ là Bá Nha - Tử Kỳ của văn chương.
(Nguyễn Tường Giang)
Gặp gỡ nhà văn miền Nam
TNT: Trong cuộc “thống nhất” của nền văn học bằng tiếng Việt ấy đóng góp chính của mỗi bên (trong/ngoài) là gì?
NTT: Còn riêng về sự "thống nhất" văn học trong và ngoài nước theo tôi (Nguyễn Trọng Tạo) có lẽ chỉ cần một chữ "hay" là đủ.
TNT: Với những thi sĩ/văn sĩ hải ngoại ông muốn cho họ thấy điều gì quí nhất trên trán ông và trong túi ông?
NTT: Tôi muốn các nhà văn hải ngoại nhìn thấy trong túi tôi có rượu và trên trán tôi đôi mắt kính được nâng lên.
(30 năm: khỏang cách dấu hỏi - Nguyễn Trọng Tạo)
Gặp gỡ người làm văn học miền Bắc - 1
T.K.: Với anh, cái mà chúng ta phải thay đổi ở đây cụ thể là gì? Và tại sao chúng ta lại phải thay đổi? Bài học quá khứ đã cho ta những kinh nghiệm như thế nào?
V.T.N.: Đối tượng vẫn thế thôi, nhưng sự tiếp cận của chúng ta hôm qua đã thất bại thì hôm nay phải đổi cách nhìn, phải có những công cụ mới, cái nhìn mới. Tôi lấy ví dụ trong thực tế đời sống nghiên cứu văn học, cũng đã có tình trạng như thế này:
Trong một thời gian dài Văn học tiền chiến coi như rất lắm tội lỗi và nhiều hư hỏng. Vũ Trọng Phụng dâm uế không được in lại, Nguyễn Công Hoan cũng có những sai lầm, Ngô Tất Tố cũng hạn chế, Tự Lực Văn đoàn coi như vứt đi hết, chỉ có Thạch Lam được yêu mến một chút thôi, chứ còn tất cả đến bây giờ vẫn coi lãng mạn là xa rời đời sống, xa rời nhiệm vụ dân tộc.
Trước 75 chỉ có một cách hiểu như thế ngự trị. Đến bây giờ mọi chuyện đã khác đi, bây giờ lại bắt đầu nhìn Văn Học Tiền Chiến như một niềm tự hào của văn hóa, văn học dân tộc, đi vào nghiên cứu cụ thể thì không được bao nhiêu nhưng dẫu sao đã thoát khỏi cách nhìn dung tục trước đây. Và tôi muốn rằng sự thay đổi ấy cũng sẽ đến trong cái nhìn Văn Học Miền Nam trước 75.
Khi không muốn thay đổi, người ta hay bảo đối tượng nghiên cứu của mình có những hạn chế. Ngẫm ra, ai mà chẳng có hạn chế, ví dụ bây giờ đọc bất cứ cuốn sách nào ở Hà Nội, đều thấy nói rằng Nguyễn Du có nhiều tư tưởng hạn chế, nhưng không phải vì hạn chế ấy mà tất cả chúng ta bỏ, không say mê Kiều và cảm thấy Kiều là phần thân thiết, gần gũi và là một tiếng nói tâm hồn của chúng ta. Trong việc trở lại Văn Học Miền Nam, cũng nên có thái độ tương tự. Ở đây cũng cần phải có sự giải phóng tư tưởng, và trước tiên phải có những chuẩn mực đúng đắn. Khi xét một nền văn học, cái chính là thấy nó như một bộ phận của đời sống tinh thần dân tộc, chỉ có tính chất nhân văn nhân đạo là đáng được xem như hệ quy chiếu duy nhất.
(Nói chuyện với nhà phê bình Vương Trí Nhàn – Thụy Khuê)
Từ điển chính tả sai lỗi… chính tả
“lãi: lãi xuất”. (Gs Nguyễn Văn Khang)
Viết chuẩn là “lãi suất” do “lợi suất” 利 率 trong tiếng Hán.
“Suất” 率 là yếu tố gốc Hán, có nghĩa tỉ lệ, mức. “
(Hòang Tuấn Công)
Gặp gỡ người làm văn học miền Bắc - 2
T.K.: Nếu so sánh sinh hoạt văn học hiện nay ở trong nước với sinh hoạt văn học miền Nam trước 75, anh có thấy điểm tương đồng nào giữa hai nền văn học này?
V.T.N.: Nghe thấy lạ song có cảm tưởng là văn học ở trong nước hiện nay đang có nhiều điểm giống như Văn Học Miền Nam trước 75, kể cả sự phát triển văn hóa, kể cả sự học đòi cái mệt mỏi của con người, nỗi băn khoăn của người trí thức để có một nền văn học khác đi, trí tuệ hơn mà cũng là hiện đại hơn.
Nhiều lúc ở Hà Nội, tôi đọc và cảm thấy có những hiện tượng quanh mình tôi đã gặp một lần đâu đó, sau nhớ lại hóa ra tôi đã đọc ở Sàigòn trước 75, thời ấy bên cạnh Bách Khoa, Văn, đã có đủ thứ nhốn nháo, nhố nhăng, tùy tiện rất buồn cười khiến nhiều người phải kêu trời. Về hội nhập mà nói, so với văn học trong nước hôm nay, văn học miền Nam cũng đã đi trước.
Ngoài sự trì trệ, ấn tượng chính của tôi về đời sống văn học trước mắt là các nhà văn trẻ đang muốn thay đổi, họ cũng không muốn viết, không muốn sáng tác như những người đi trước như bọn tôi nữa. Thế nhưng sự chuẩn bị không có. Thiếu sự chuẩn bị như thế, dĩ nhiên lỗi không chỉ ở lớp trẻ mà là ở lớp người đi trước, chúng tôi đã không góp phần chuẩn bị cho họ. Thành ra, ngay ở phương diện này, các nhà văn trẻ cũng có thể tìm thấy trong các tác phẩm của các nhà văn miền Nam. Để học theo có, mà để rút kinh nghiệm cũng có, theo hay tránh thì đều là những bài học hữu ích cho công việc của họ.
(Nói chuyện với nhà phê bình Vương Trí Nhàn – Thụy Khuê)
Tài vẽ tranh khôi hài của Tú Mỡ - 1
(Một ván Bi-da)
Hành động của nhà thơ làm người viết kính phục, ông thật khác xa với nhiều kẻ đời nay, tuy đã được công nhận ở một lãnh vực nào đó, còn muốn “đã nổi tiếng lại nổi tiếng hơn” nên đã đi thuê kẻ khác vẽ tranh, làm thơ, rồi đem ký tên mình và đem in chung vào một cuốn sách để tỏ ra mình là kẻ đa tài, nhưng thực chất thì những tài “đi thuê” chỉ là những tài dzổm không hơn không kém.
Người viết tình cờ đọc bộ báo của Hội Sinh Viên Việt Nam mà tờ số 1 được xuất bản ngày 15 tháng Bảy, 1923, trong đó người viết thấy Tú Mỡ có vẽ nhiều bức tranh biếm hoạ nặng tính giáo dục khá đẹp. Người viết cảm thấy rằng ở tuổi 23 (Tú Mỡ sinh năm 1900), không biết Tú Mỡ có học vẽ ở trường nào không, nhưng vẽ được như vậy thì cũng tài hơn khối người khác rồi. Những bản vẽ đó đều có chú giải được in song ngữ, tiếng Việt và tiếng Pháp và đều mang chữ ký Hồ Trọng Hiếu.
(Vũ Thư Hưu)
Mộng
Một hôm mộng thấy...
Kệ!
Tài vẽ tranh khôi hài của Tú Mỡ - 2
Nàng rằng: phận gái chữ tùng
Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi
Như một món quà tặng những người yêu nhà thơ, người viết xin đính kèm đây một số hình tranh biếm hoạ của Tú Mỡ để tất cả mọi người đều được thưởng lãm. Với người viết, kẻ có thực tài mà không thèm khoe, như người đời thường, thường là một nhân cách đáng trọng
(Vũ Thư Hưu)
Tú Mỡ sinh ngày 14- 3 -1900 tại phố Hàng Hòm (Hà Nội). Năm 14 tuổi (1914), ông đỗ đầu bằng sơ học Pháp-Việt, năm sau được vào học tại trường Bưởi. Năm 16 tuổi (1916), ông bắt đầu "mắc bệnh" làm thơ. Trong Hồi ký, ông kể lại: "...tôi quyết tâm học làm thơ. Trước hết tôi mua bộ Hán-Việt văn khảo để nghiên cứu các thể thơ ca, từ, phú, rồi mua những tập thơ của Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Yên Đổ, Tản Đà, những tác phẩm mà tôi thích đọc nhất..."
Giai thoại làng văn xóm chữ
Người ta thường truyền tụng câu" nhà báo nói láo ăn tiền". Nhưng cái vinh và cái nhục của nghề nghiệp, cái góc trong và cái mặt ngoài được kể lại với những trang hồi ký mà những thế hệ sau khi đọc đã tưởng tượng lại được một thời kỳ thật đặc biệt của lịch sử.
Như khi trong " Bốn Mươi năm nói láo", ông (Vũ Bằng) viết về nhà văn Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu:
".. Cuộc diện kiến vào buổi tối một mùa đông lất phất mấy hạt mưa phùn. Lần đó, tôi cũng thất vọng như lần này: Tản Đà thấy tôi vào, cứ ngồi ì ra không thèm đứng dậy; một lúc lâu mới nhìn tôi một hồi như thể nhìn thằng ăn cắp rồi "à " một tiếng và bảo tôi ngồi xuống ghế. Thì ra ông ta đang say.
Bên cạnh ông là một cái hỏa lò than cháy râm râm, trước mặt là một cái mâm nhỏ trên bầy thức ăn bừa bãi. Ông uống một tợp, gắp một miếng, khà một cái, hơ tay vào lò than rồi rung đùi ngâm, với một giọng khê nằng nặc:
Vèo trông lá rụng đầy sân
Tóc tơ ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Rồi ông day cái mặt tròn, đỏ như trái bồ quân, trên cắm một cái mũi tròn xoe có hàng vạn đường gân máu chạy ngang chạy dọc như các con kinh đào vẽ trên địa đồ quân sự, ông nhe răng ra (tôi không biết ông cười hay mếu) nói một cách dõng dạc:
- À, ông Bằng, ông có thấy không? Chữ "vèo" ấy có cho mấy khuyên son cũng chưa đủ!
"Vèo trông lá rụng", hay lắm chớ, hay lắm chớ..
(Những hồi ký làm báo)
“Thơ con cóc”: Một bài thơ hay
Nhưng Hồ Xuân Hương, trong hai câu thơ này, không có chủ tâm nói về cái dở. Bà chỉ nhằm chế diễu sự bất tài mà thôi. Như thế, có thể coi bài ‘Thơ con cóc’ là bài thơ duy nhất thành công trong việc nêu bật đặc điểm của những bài-thơ-thị-nở vốn ê hề, xưa cũng như nay. Tuy nhiên, giá trị bài ‘Thơ con cóc’ không phải chỉ có như vậy. Đọc bài thơ một cách nghiêm chỉnh như đọc một bài thơ trữ tình và quên đi câu chuyện tiếu lâm ngớ ngẩn chung quanh nó, chúng ta sẽ phát hiện ra một số điều rất lạ.
Trước hết, về phương diện kết cấu, bài thơ rất ngắn, chỉ có sáu câu, lại được cắt ra làm ba đoạn. Câu đầu của đoạn sau lặp lại nguyên vẹn câu cuối của đoạn trước. Thành ra, trừ câu đầu và câu cuối, tất cả các câu thơ còn lại đều xuất hiện hai lần, cách nhau một quãng ngắt hơi, một quãng im lặng dài vì là thuộc hai đoạn thơ khác nhau. Cái quãng ngắt hơi ấy tạo ra cảm giác nghiêm trang, trịnh trọng cho cái động tác được miêu tả.
Đây chỉ là một kỹ thuật thông thường khi kể chuyện, đặc biệt những chuyện có vẻ ly kỳ, rùng rợn. Thế nhưng, khác với các câu chuyện ma, chẳng hạn, sau mỗi lần người kể lặng im để tạo tâm thế căng thẳng, hồi hộp cho người nghe hoặc người đọc là một chi tiết bất ngờ, hoàn toàn bất ngờ, bài ‘Thơ con cóc’, ngược lại, sau mỗi lần ngắt hơi, lại lặp lại nguyên văn những điều đã nói. Điều này tạo nên một cảm giác nghịch lý: nó vừa nghiêm trang, trịnh trọng lại vừa rất nhàm, rất nhảm.
Tính chất nghịch lý ấy lại được nhìn thấy ở một phương diện khác: hình tượng ‘con cóc’, lặp đi lặp lại sáu lần, chiếm nửa số lượng từ vựng trong bài, luôn luôn đứng làm chủ ngữ trong mọi câu thơ, nổi bật, uy nghi, vừa như một tượng đài lại vừa như một quyền lực. Nửa số từ vựng còn lại chỉ vừa đủ để diễn tả bốn động tác căn bản của con cóc: ở trong hang, nhảy ra, ngồi lại, và cuối cùng nhảy đi. Những động tác này không những nhàm, nhảm mà còn vô nghĩa nữa. Sự vô nghĩa này lại được cố tình trình bày một cách trịnh trọng: yếu tố hài hước của bài thơ được khơi dậy từ đây; lý do chính khiến ‘Thơ con cóc’ bị coi là điển hình của cái dở nằm ở đây. Và cũng từ đây, chúng ta thấy được chủ đề của bài thơ: nó không phải là bài thơ tả con cóc mà, qua con cóc, bài thơ nói về những sự trịnh-trọng-vô-nghĩa.
(Nguyễn Hưng Quốc)
Ca dao tình tự
Em như cục cứt trôi sông
Anh như con chó chạy rông trên bờ
Góp ý về cuộc tranh luận thơ con cóc
Khi Nguyễn Hưng Quốc viết:
"Bài thơ con cóc, ngược lại, trần trụi tuyệt đối. Như một cành gai. Không có đến lá, đừng nói gì là hoa. Nó thô tháp. Nó mạnh bạo. Nó sần sùi. và cũng có thể nói, nó tàn nhẫn nữa. Nó xóa bỏ hết mọi son phấn và loại trừ hết cả cảm xúc thừa thãi để bắt người đọc một mình sững sờ đối diện với sự vô nghĩa của cuộc đời. Không thể có thứ ngôn ngữ nào giản dị hơn thế nữa. Nó có phần giống như thứ ngôn ngữ Albert Camus dùng khi viết Người Xa Lạ"
Nguyễn Hưng Quốc đã ghi lại cảm giác mà Thơ con cóc đã gieo vào lòng anh.Và ấn tượng ấy chỉ đúng với anh thôi. Đối với người khác, ít ai đọc những câu "Con cóc trong hang, con cóc nhảy ra, con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đì" mà thấy những cảm tưởng trần trụi tuyệt đối, thô tháp, mạnh bạo, sần sùi, giống ngôn ngữ Camus hoặc giống thơ Nguyên Sa (trang 80, Thơ, V.V... và V.V...). Vậy muốn họ "tin được" cảm xúc của mình thì tác giả phải làm sao cho họ vừa "sờ" thấy sự sần sùi thô tháp, vừa sờ thấy sự trần trụi tuyệt đối, vừa sờ thấy gai nữa, trong những chữ của bài thơ con cóc, chứ không phải do những ấn tượng mà nhà phê bình sáng chế ra.
Cho nên nếu chỉ dùng những cảm xúc mà câu thơ gieo vào lòng mình để khái quát hóa thành ấn tượng chung cho mọi người thì sẽ gặp khó khăn: không thuyết phục được người đọc.
(Thụy Khuê)
Ca dao trữ tình
Em đẹp như phân lạc giữa dòng
Anh như chú khuyển đứng bên sông
Dòng sông nước chảy em trôi mãi
Anh đứng trên bờ rỏ dãi trông
Xe ôm Sài Gòn
Ông còn kể thêm: “Hình như giới xe ôm cũng có luật riêng giúp đỡ lẫn nhau khi có trường hợp bị khách giựt xe. Khi đưa khách trả tiền đến vùng đáng sợ, anh xe ôm đưa tay ra một hai dấu hiệu gì đó cho đồng nghiệp, một hay hai người sẽ chạy theo kín đáo bảo vệ nhau, tiền chia chác sau đó”.
Sau năm 1973, người Mỹ rút hẳn về nước, kinh tế miền Nam đi xuống, giới chạy xe ôm lại một phen gặp khó khăn. Sau 1975, nhất là khi kinh tế khá dần lên sau đổi mới, nhiên liệu xăng nhớt thoải mái hơn thì xe ôm hồi sinh. Lúc này người Việt thích đi xe ôm nhờ tính tiện lợi có thể len lỏi vô các hang cùng ngõ hẻm, chợ nhỏ của Sài Gòn - Gia Định. Xe ôm lúc đó tiếp tục dùng các loại xe như Honda Dame, Suzuki nam, Yamaha...
Chuyện lịch sử xe ôm này do ông X. kể lại cho anh dược sĩ hồ sau 75, trong lúc trà dư tửu hậu. Khi xưa, nhà anh dược sĩ ở khu Kho 18, Q.4 và có chứng kiến nhóm xe ôm kỳ lạ thuở ban đầu, toàn là những người đi Lambretta, đúng như lời kể của ông X.
(Phạm Công Luận - trích Sài Gòn, chuyện đời của phố, tập 3)
Văn học cổ
Các nhà nghiên cứu văn học xếp văn học cổ Việt Nam thành ba loại: văn chương bác học, văn chương vừa bác học vừa bình dân, và văn chương bình dân.
Văn chương bác học là loại văn chương viết bằng chữ Hán, dành cho những người có học. Văn chương vừa bác học vừa bình dân là loại văn chương viết bằng chữ nôm, một thứ chữ dùng chữ Hán ghép lại nhưng phát âm tiếng Việt nên khi đọc lên người bình dân cũng có thể hiểu được sơ sơ. Văn chương bình dân là loại văn chương phát xuất từ giới bình dân ít học, đó là những câu ca dao, tục ngữ và truyện cổ.
Văn chương bác học do những nhà Nho sáng tác dành cho những người giỏi Hán văn, ít ra cũng phải qua “thập niên đăng hỏa” hoặc những người đã đỗ đạt. Chẳng hạn như Kiến Văn Tiểu Lục của Lê Quý Đôn, Vũ Trung Tùy Bút của Phạm Đình Hổ, Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn...và những bài thơ chữ Hán của các nhà Nho. Ngay cả những bài văn nổi tiếng như Hịch Tướng Sĩ của Trần Hưng Đạo, Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi, Văn Tế Trận Vong Tướng Sĩ của Nguyễn Văn Thành là những bài văn cần được phổ biến trong dân gian cũng viết bằng chữ Hán.
Văn chương vừa bác học vừa bình dân là loại văn chương viết bằng chữ nôm, một thứ chữ còn khó hơn chữ Hán, vì muốn đọc được, phải thông thạo Hán văn trước đã. Vì thế, loại văn chương này cũng do các nhà Nho khoa bảng sáng tác. Người ta thấy nhiều tác phẩm nổi tiếng, như: Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du, Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự, Nhị Độ Mai (hiện chưa tìm ra tác giả nên vẫn tạm ghi là Khuyết danh hay Vô danh), Bích Câu Kỳ Ngộ của Vũ Quốc Trân, Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu... và nhiều thơ, phú khác nữa. Loại văn chương này người bình dân không đọc được, nhưng nghe thì hiểu đại khái vì lời văn có nhiều điển cố phải có người giảng thì mới hiểu hết được.
Văn chương bình dân là loại văn chương truyền miệng của giới bình dân, ít học, như ca dao, tục ngữ, truyện cổ (mà chúng ta thường gọi là truyện cổ tích). Sau này văn chương bình dân mới được ghi chép lên giấy tờ, sách vở. Văn chương bình dân là loại văn chương không chịu ảnh hưởng của Hán học nên không có nhiều dấu vết vay mượn như hai loại văn chương bác học và vừa bác học vừa bình dân.
(Văn học cổ VN – Tạ Quang Khôi)
Khoa trương trong ca dao của người Việt
Khoa trương huyễn tưởng
Là khoa trương do tác giả hoàn toàn tưởng tượng ra. Tiêu biểu cho lối khoa trương này là bài “Bắc thang lên hỏi ông trời”.
Bắc thang lên hỏi ông trời
Tiền đem cho gái có đòi được không ?
Trong dân gian, sau câu mở đầu có đến hàng ngàn dị bản của câu tám, và cũng có chừng ấy cách trả lời hết sức dí dỏm của… “ông trời”. Nhiều khi, người ta còn đưa cả tiếng lóng cho phong phú thêm chẳng hạn như dị bản sau:
Bắc thang lên hỏi ông trời
Lấy vợ lấy chỉ một người thôi sao ?
Ông trời nói nhỏ thì thào
Một vợ nhưng có nhiều… đào
Cua cáy phiếm lược - mắm cáy (1)
Trộm thấy người ta trồng khoai cũng vác mai đi đào, bèn đào xới chuyện xưa tích cũ:
“…Nhắc đến câu cáy, bắt rạm, cậu muốn nhắc đến con sông ngay trước cổng nhà cháu. Những ngày nước lên, cậu là thằng đầu têu rủ rê cháu đi đặt lờ, chỉ mấy cái lờ không thôi, cậu cháu mình bắt được gần yến rạm, rồi mang về đưa bà ngọai lấy thưởng.
Vì con rạm nhỉnh hơn con cua đồng một tí, nhưng con nào con nấy to bằng một phần mười con cua đinh, bà gạn mấy con cái đem rang giòn, ăn rất bùi, rất ngậy. Những con đực bà xé ra làm chả, giã nhỏ nấu canh khế, canh me. Mấy ngày sau nước sông rút xuống, cháu lại mè nheo cậu xoay ra… câu cáy. Như cháu biết đấy, cáy nhỏ hơn rạm, thân dầy, mu màu nâu và hai cái càng đỏ chót như hai quả ớt chín. Cậu và cháu lấy cành tre, cột giây, đầu buộc mồi là cái kèn tằm hay con sâu khoai nước. Thấy con cáy thập thò ngòai cửa hang là nhử nhử, cáy ham mồi dơ càng kẹp là không muốn nhả, thế được cả giỏ. Về bà ngọai giã ra, trộn muối, bột giã, thính và riềng, rồi hạ thổ lấy khí âm, khí dương, ít tuần sau có món mắm cáy thơm inh…”
(xem tiếp kỳ tới)
Những truyện ngắn Việt Nam làm liên tưởng đến điện ảnh
Phim “Cây Cầu Trên Sông Kwai” và truyện ngắn “Con Suối và Chiếc Cầu Treo” của nhà văn Lâm Chương
Cuốn phim “Chiếc Cầu Trên Sông Kwai” thực hiện dựa vào truyện của nhà văn người Pháp tên Pierre Boulle, phổ biến vào năm 1957 và cũng đã được trình chiếu ở miền Nam Việt Nam khoảng thời gian ấy.
Các tài tử điện ảnh thủ vai trong phim là William Holden (Mỹ), Alec Guinness (Anh) và Sessue Hayakawa (Nhật). Phim thực hiện tại địa điểm có sông Kwai chảy qua gần giữa biên giới Thái Lan - Miến Điện (Myanmar), là nơi thời Thế Chiến Thứ Hai quân đội Nhật xây chiếc cầu xe lửa (vào năm 1942-1943) để vận chuyển quân sự giữa hai nước bị Nhật chiếm đóng.
Cầu xây tại địa hình hiểm trở, nước sông chảy xiết vùng rừng núi, nên quân đội Nhật xây nhiều lần không hoàn hảo. Chuyện xảy ra khi nguồn nhân lực để xây cầu là hàng ngàn tù binh Anh và Úc (do Nhật bắt giữ khi họ đánh chiếm Thái Lan, Miến Điện và vài hải đảo trong Thái Bình Dương). Đông đảo là tù binh Anh. Đám tù binh rất kỷ luật nghe theo vị chỉ huy của họ là một đại tá (Alec Guinness). Trong số tù binh có những chuyên viên công binh của Anh giỏi về kiều lộ. Thấy quân đội Nhật yếu kém kỹ thuật xây cầu, đám tù binh Anh muốn chứng tỏ sự tài giỏi của mình, và họ đem hết lòng xây cho được chiếc cầu xe lửa, vâng theo vị chỉ huy đại tá Anh. Chỉ với sức lao động không có sẵn cơ giới hỗ trợ, vậy mà chẳng bao lâu chiếc cầu xe lửa đồ sộ hoàn thành. Đó là một cây cầu chiến lược tối hệ trọng, vì vậy mà trước đây quân đội Nhật đã làm tốn hao bao nhiêu công của, nhiều sinh mạng nhân công Thái Lan và Miến Điện bỏ mình nơi chốn sơn lâm chướng khí.
(Trần Văn Nam)
(xem tiếp kỳ tới)
Chữ nghĩa làng văn
Nhu cầu sáng tạo ra những từ ngữ mới là của nhà văn là ngôn từ và việc nhà văn nào cũng khát khao. Như trong hai câu thơ nhằm tả cảnh tù túng, quẩn quanh của Kiều ở lầu xanh, Nguyễn Du viết:
Song sa vò võ phương trời
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng
Vào thời ấy mà dám lật ngược từ "hoàng hôn" thành "hôn hoàng" thì quả là một sự táo bạo.
(Anh Ngọc – Tản mạn về từ mới)
Thập niên 30, Sài Gòn lai rai
Theo Tô Ngọc, món dê hầm cà ri được ưa chuộng, dân nhậu cho là thịt dê đã nóng, cà ri cũng nóng nên “dẫn” nhanh hơn. Cà ri là thứ làm “thang”, giúp tác dụng của món chính mạnh mẽ hơn, như trong thuốc Bắc người ta thêm ba lát gừng vậy. Một cụ già sành chữ Nho bảo: “Thuốc Tàu thị phụ tử phi can khương bất nhiệt, còn món ăn thì dương nhục phi cà-ri bất khoái” nghĩa là vị thuốc phụ tử mà không có gừng gió làm thang thì không nóng, mà thịt dê không có cà ri tẩm vào thì hết thích.
Ông cho biết người ta làm thịt dê đực nhiều hơn dê cái, lý do không phải thịt dê đực bổ hơn thịt dê cái mà là dê cái có sữa để bán, dê đực thì chỉ thích đánh nhau, và một dê đực đủ cho năm chục dê cái nên số dê đục dư ra để tiêu thụ, nhờ vậy số ngọc dương có nhiều. Trong các món cà ri dê, món cà ri dê bao tử được chiếu cố nhiều.
(Phạm Công Luận)
Tiểu sử Phạm Công Luận bút danh Phạm Lữ Ân. Sinh năm 1961 tại Sài Gòn. Quê nội Quảng Bình, hiện ở Phú Nhuận.
Tác phẩm: Nếu biết trăm năm là hữu hạn - Những lối về ấu thơ
Trên đường rong ruổi - Sài Gòn chuyện đời của phố 1, 2, 3 & 4
Quỷ khốc thần sầu hay quỷ khốc thần kinh
Quỷ khốc thần sầu đúng, quỷ khốc thần kinh cũng đúng. Hai thành ngữ này dùng để mô tả chuyện gì ghê gớm lắm khiến ma quỷ phải khóc, ông thần cũng phải kinh sợ.
(Chữ nghĩa chúng ta – Bùi Bảo Trúc)
Ngôi sao Hàn Thuyên
Có thể, hồi đó, ông cũng chỉ là một nhà văn. Như tôi bây giờ. Ngồi soạn sách, viết bài trên gác một nhà in, một toà báo. Như tôi bây giờ. Nhưng trước một lớp nhà văn đầu đàn có tư tưởng và hoài bão trí thức như nhóm Hàn Thuyên bấy giờ, thì đối với đứa học trò trung học ngày ngày cắp cặp đi qua Hàn Thuyên, văn chương nơi những người như Nguyễn Đức Quỳnh là một hành động khác thường. Nó huynh đệ với chí lớn, đồng nghĩa với vá biển lấp trời, đồng tính với cách mạng, trên một hình thái tiêu cực nhưng cũng hiểm nghèo và hào hùng như cách mạng thực sự. Và cũng khác thường luôn, trong suy diễn và tưởng tượng đơn giản của tôi, cái số người làm cái công việc khác thường đó.
Phải đặt hẳn mình trở lại với một thời kỳ đã mất, sống hẳn trở lại với tuổi nhỏ mình và Hà Nội 41, 42, trong bầu không khí ngột ngạt đế quốc chiếm đất bít cản bằng ngục tối và lưu đầy biệt xứ mọi vươn phóng của trí tuệ tư do đòi quyền được sống, tôi mới hội nhận lại được, sau trên ba mươi năm, niềm tưởng tượng và suy diễn lãng mạn của mình về những người và sự việc Nguyễn Đức Quỳnh.
Nhớ những buổi chiều mưa, đứng ẩn mưa dưới mái hiên một tiệm sách ở Hàng Bông, hay Phố Huế, nhìn những cuốn sách bày bán trong ô kính, tôi còn thấy những cuốn sách Hàn Thuyên bìa mầu tối, chữ nhỏ, khắc khổ, không đập vào mắt, khác với những cuốn sách khác. Thời kỳ đồng, thời kỳ đá. Văn minh nhân gian tiến một bước kỳ diệu ở nơi hai hòn đá đập vào nhau làm bùng ngọn lửa đầu giữa đêm rừng hồng hoang. Những biển trời nào vậy? Và người viết những cái đó, Nguyễn Đức Quỳnh là ai vậy? Tôi hình dung ra một ông già râu tóc. Một đạo sỹ. Có những nhà văn bởi đến người đọc bằng một cách nào đó, là những hình bóng gần như lung linh, hoang đường. Nghĩ vừa buồn cười, vừa cảm động. Chẳng bao giờ tôi còn được cái sung sướng nhìn ngắm trong xa cách một nhà văn như thế nữa. Nhưng hồi nhỏ, dưới những bóng me, bóng sấu của Hà Nội tiền chiến, cái đứa nhỏ chớm cảm thấy văn chương là một cần thiết lớn lao cho đời mình, đã nhìn Nguyễn Đức Quỳnh, một khuôn mặt Hàn Thuyên, sáng rỡ, như thế. Một nhìn ngắm huyễn hoặc và ngây ngất.
(Mai Thảo)
Tiểu sử :
Mai Thảo tên thật: Nguyễn Đăng Quý. Bút hiệu khác: Nguyễn Đăng. Sinh ngày: 8.6.1927, Nam Định. Mất ngày 10.1.1998 tại California, Hoa Kỳ.
Tác phẩm :
Đêm giã từ Hà Nội, Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời, Ta thấy hình ta những miếu đền, Chuyến tàu trên sông Hồng, Mười đêm ngà ngọc
Đến Diên Khánh nhớ tích xưa
(trên mặt thành, phía xa là tháp canh, theo thiết kế xưa
bên trái là hào nước tuy nhiên bây giờ đã gần như không còn)
Sau khi Nguyễn Huệ mất, nhà Tây Sơn suy yếu. Nguyễn Ánh cho Võ Tánh ra chiếm lại Diên Khánh. Nhận thấy rõ vị trí trọng yếu của thành này, lưng dựa vào núi (dãy Trường Sơn) , 2 bên có 2 dãy núi vòng cung bao bọc phòng ngự từ xa, lại gần sông gần biển. Thành Diên Khánh như một chốt để trấn ải cho mọi hướng quân tiến về Trấn Biên, Sài Côn hoặc tiến ra Phú Yên, Quy Nhơn.
Nguyễn Ánh sau đã cho một vị quan người Pháp tên là Olivier xây dựng lại thành Diên Khánh theo kiến trúc như ngày nay – lúc đó ngoài thành Sài Gòn thì chỉ có thành Diên Khánh được xây theo kiến trúc này. Thành xây ban đầu có 6 cổng, nhưng đến nay chỉ còn 4 cổng: Đông, Tây, Tiền, Hậu. Cửa Tả và Hữu nay đã không còn. Hiện nay đường đi từ quốc lộ 1 vào chính là cửa Đông và cửa Tây, cũng là 2 cửa còn trọn vẹn nhất. Hôm mình đến do cửa Đông treo băng rôn cổ vũ linh tinh gì đó cho đảng nên mình chỉ chụp được mỗi cửa Tây. Còn hình bên dưới là cửa Tiền.
(Trần Ngọc Hiếu)
Kỷ vật Hồ Trường
Nhắc về trường hợp của ông, sinh thời nhà thơ Quách Tấn nêu nhận xét: “ Nguyễn Bá Trác lúc theo cụ Sào Nam ở Hải ngoại và Nguyễn Bá Trác ra làm quan cùng thực dân Pháp là hai khúc sông trong đục khác hẳn nhau. Mà bài Hồ Trương là nổi lòng khi chưa ngậm mùi danh lợi. Bởi lòng có thể dối được với nhân thế mà không thể dối được với văn chương. Vì sao vậy, vì văn chương phản chiếu tâm sự. Trừ phi tấm gương phản phúc tức văn chương không thành văn chương, thì tâm sự mới bị lệch lạc. Mà bài Hồ Trường văn chương chân thực, không có chút giả tạo, nên đáng tin rằng lòng của Nguyễn Bá Trác lúc còn ở hải ngoại chưa bị bùn danh lợi làm vẩn nhơ. Ít ra lúc làm bài Hồ Trường, lòng Nguyễn Bá Trác lắng hết bùn danh lợi xuống dưới đáy sâu, nên văn chương mới được thanh tao thế ấy. Đó là mảnh gương phản chiếu khúc sông trong của quảng đời tha phương của Nguyễn Bá Trác” (Xưa và Nay số 298, tháng 12/2007).
Hẳn nhiên, công và tội của Nguyễn Bá Trác sẽ còn nhiều điều cần bàn luận hơn nữa. Song vốn cảm xúc trước những lời thơ đầy tâm trạng của ông, tôi vẫn thường băn khoăn muốn đi tìm chén rượu Hồ Trường liệu còn lưu lạc đâu đó trong thiên hạ và " xé gan bào cật" đến đâu?
Cuối cùng, sau nhiều năm tháng, nhờ sự hướng dẫn và ngưới thiệu của cố họa sĩ Đỗ Toàn, hai kỷ vật cuối cùng của Nguyễn Bá Trác mà tôi tìm được lại không phải là một bầu rượu với chiếc cổ cao ngất ngưởng của những tráng sỹ Phương Đông mà chỉ là một bộ tách trà cổ, kèm một bình rượu... Tây. Thực ra đó là những cổ vật rất đẹp, rất quý hiếm, nhưng tôi vẫn không khỏi băn khoăn: Hồ Trường là vậy đó sao?
Người giữ những kỷ vật này, ông Đặng Chi Khuê, vốn là một chủ hiệu sách và sưu tập đồ cổ trú tại đường Hoàng Diệu, Đà Nẵng. Ông Khuê cho biết, đây quả nhiên là những kỷ vật của Nguyễn Bá Trác do cha ông lưu lại. Nguyên nhân, là xưa kia gia đình của cha ông ớ sát nhà Nguyễn Bá Trác tại làng Bảo An, Điện Bàn. Sau khi Nguyễn Bá Trác bị xử tử, những người của gia đình Nguyễn Bá Trác tại quê nhà đã bán hoặc cho mọi thứ đồ đạc liên quan đến ông. Ông nói, có lẽ Hồ Trường là cái tâm trạng bên trong của Nguyễn Bá Trác chăng?
Dẫu sao, tìm được kỷ vật của của người đã gắn liền tên tuổi cùng Hồ Trường, một buổi sáng mùa Xuân, chúng ta hãy cùng nhau chia sẻ chút niềm riêng uẩn khúc đắng cay của nhà thơ mang quá nhiều những bi kịch của chính mình, của thời đại.
Nào ai tỉnh
Nào ai say
Chí ta ta biết
Lòng ta ta hay
Nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ
Hà tất cùng sầu đối cỏ cây...
(Trần Trung Sáng)
***
Phụ đính I
40 Năm hải ngoại - Một nén hương - Cho những nhà văn
nhà thơ đã khuất núi
(Danh sách cập nhật tới tháng 6/2017 – Nhật Tiến biên soạn
Tổng hợp từ nhiều nguồn)
Vũ Huy Quang
( 1942-2017)
Vũ Huy Quang sinh ngày 9.7.1942 tại Hải-Phòng. Vào Nam năm 1954, đến California tị nạn sau năm 1975. Trước năm 1975 là đại uý trong Quân Lực VNCH và ông chỉ bắt đầu sự nghiệp sáng tác và biên dịch văn học tại Mỹ. Ông cộng tác với nhiều tờ báo Việt ngữ ở hải ngoại dưới các bút hiệu Tam Trương, Thăng Long Văn Sĩ.
Sau nhiều năm California, và mất ở đó vào ngày 14 tháng Giêng năm 2017 sau một thời gian chống trả bệnh ung thư, thọ 74 tuổi.
Tác phẩm:
– Mười Tân Truyện Liêu Trai (1991).
– Câu Chuyện Triết Lý (1992).
– Chín Truyện Ngắn (1992).
– Nơi Trại Trừng Giới (dịch, 1988).
– Đường Lên Trời (dịch, 1989).
– Nhục Bồ Đoàn (dịch, 1990).
***
Phụ đính II
Nguyễn Tuân – 1
Về di chúc của nhà văn Nguyễn Tuân, người ta có nhiều lời đồn đại. Người thì bảo, ông yêu cầu đốt cho ông hình nộm một nhà phê bình, để xuống dưới đó ông sẽ hỏi:
- Xuống đây rồi, ông đã nói thật chưa?
Người lại bảo ông để lại một danh sách: Những người nhất thiết không được đến dự lễ tang, những người đến cũng được mà không đến cũng được và cuối cùng là danh sách những người nhất thiết phải có mặt trong tang lễ thì ông mới nhắm mắt được.
Chuyện đến tai Nguyễn Tuân, ông bảo:
Mọi lời đồn đều không đúng. Mình di chúc lại thế này,
- Số tiền các cơ quan, đoàn thể dự định mua vòng hoa và để vào phong bì viếng mình, xin dùng để mua một téc bia, mời anh em bè bạn uống bia, mừng cho Nguyễn Tuân về cõi vĩnh hằng.
(Di chúc của nhà văn Nguyễn Tuân)
Nguyễn Tuân – 2
Nguyên Hồng đến thăm Nguyễn Tuân. Hai cụ bày rượu ra uống, bày bàn cờ ra chơi. Ngồi cả buổi, hai cụ bàn về chuyện thời thế, chuyện văn chương rất tâm đắc nhưng cả hai không ai đụng đến quân cờ. Nậm rượu ngon đã cạn, thức nhắm đã vơi, bỗng Nguyên Hồng cầm quân cờ đánh chát một cái xuống bàn, hét to:
- Chiếu tướng!
Nguyễn Tuân giơ cả hai tay lên trời:
- Thua!
(Nguyễn Tuân & Nguyên Hồng đánh cờ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét