THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 55:
KINH
Kinh Cung Chi Điểu
"Kinh cung chi điểu kiến khúc mộc nhi cao phi" 驚 弓 之 鳥 見 曲 木 而 高 飛 có nghĩa: Con chim sợ cung nên thấy làn cây cong thì bay cao lên như Thúy Kiều đã vào lầu xanh một lần rồi, bây giờ nghe Bạc Bà muốn gả ép mình cho cháu của bà ta là Bạc Hạnh, lại sợ Bạc Hạnh bán mình vào lầu xanh lần nữa, nên mới nói với Bạc Bà rằng:
Thiếp như con én lạc đàn,
Phải cung giờ đã sợ làn cây cong.
Cùng đường dù tính chữ tòng,
Biết người, biết mặt, biết lòng làm sao?
Thành ngữ KINH CUNG CHI ĐIỂU 驚 弓 之 鳥 có xuất xứ từ "Chiến Quốc Sách. Sở Sách Tứ"《戰 國 策﹒楚 策 四》như sau:
Thời chiến quốc, nước Ngụy có một thần tiễn thủ tên Canh Dinh 更 盈 (có tài liệu ghi là Canh Luy 更 羸), nổi tiếng là bách phát bách trúng. Một hôm, đang cùng Ngụy Vương đi săn, bỗng thấy một con nhạn to từ hướng đông bay đến. Khi nhạn bay ngang đĩnh đầu, Canh Dinh đưa cung lên kéo thẳng dây cung bắn khống một phát, dây cung kêu "BUNG' một tiếng, nào ngờ, con nhạn đang bay bèn lão đão rớt ngay xuống đất.
Ngụy Vương vô cùng kinh ngạc, bèn hỏi rằng: "Khanh không có lắp tên, chỉ bắn khống, sao con nhạn lại rớt xuống được?" Canh Dinh bẩm rằng: "Thần thấy con nhạn nầy bay rất thấp, tốc độ lại chậm, đoán là nó đã bị tiễn thương chưa lành, tiếng kêu lại rất bi thương, hẵn là bị lạc đàn bay có một mình, nên mới giương cung bắn không một phát. Con nhạn nghe tiếng dây cung nên giật mình kinh sợ, dùng sức vổ cánh bay lên cao nên vết thương vỡ ra mà chao đão rồi rớt xuống đất." Ngụy Vương cho tùy tùng nhặt con nhạn lên kiểm lại, thì đúng như là sự dự đoán của Canh Dinh.
Trên đây là câu truyện ngụ ngôn của sứ giả nước Triệu nói với Xuân Thân Quân của nước Sở, khi Xuân Thân Quân định phái Lâm Võ Quân đem binh đi đánh Tần, vì trước đây Lâm Võ Quân đã từng đại bại dưới sức mạnh của quân Tần rồi, nay lại phái đi giao tranh cùng Tần, chẳng khác nào như "kinh cung chi điểu", chưa đánh đã sợ, sẽ mang lấy thảm bại mà thôi. Xuân Thân Quân nghe xong, bèn thôi không phái Lâm Võ Quân đi đánh Tần nữa.
Trong cuộc sống hằng ngày, người bị hỏa hoạn làm cho cháy nhà nên thấy lửa thời sợ; người đã chịu cảnh lũ lụt thiên tai thấy nước ngập thì sợ, những kẻ đầu trộm đuôi cướp thấy bóng cảnh sát thì né tránh... đều có thể nói là "Kinh Cung Chi Điểu" cả!
KINH BỐ hay BỐ KINH đều là cách nói gọn lại của thành ngữ KINH THOA BỐ QUẦN 荊 釵 布 裙. Có nghĩa: Lấy cái lỏi của cọng cỏ gai làm trâm cài và mặc quần áo bằng vải thô, chỉ người phụ nữ đãm đang cần kiệm chất phác ăn mặc giản dị không xa hoa cầy kỳ. Có tích như sau:
Đời Đông Hán, có thư sinh Lương Hồng là Thái Học Sinh nhưng không làm quan, về nhà cày ruộng. Lương Hồng cưới gái Mạnh Quang 30 tuổi là con của Mạnh tài chủ trong huyện. Sau đám cưới vợ chồng từ bỏ cuộc sống giàu sang của nhà họ Mạnh, ẩn cư ở vùng núi Bá Lăng, sau lại đi làm công cho nhà Cao Bá Thông, nhưng nàng Mạnh Quang vẫn vận quần bằng vải bố, trâm cài bằng cỏ gai. Tuy cuộc sống đạm bạc nhưng vợ chồng lại "Tương Kính Như Tân 相 敬 如 賓" (Trọng nhau như là khách), "Cử Án Tề My 舉 案 齊 眉" (Nâng án ngang mày) mà sống với nhau thật là hạnh phúc. Xem lại Điển Tích Văn Học 9
"CỬ ÁN TỀ MY".
"CỬ ÁN TỀ MY".
Sau khi đờn cho Kim Trọng nghe xong, thì trong cảnh đêm tối "Hoa hương càng tỏ thức hồng, đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu" nên khó tránh khỏi lúc "Sóng tình dường đã xiêu xiêu, xem trong âu yếm có chiều lả lơi" thì Thuý Kiều đã "xì-tốp" Kim Trọng lại bằng lời lẽ:
Đã cho vào bậc BỐ KINH,
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.
Còn trong thơ truyện Nôm "Quan Âm Thị Kính" thì đảo ngược lại là KINH BỐ:
Áo lai chưa múa sân này,
Thời đem KINH BỐ mà thay gọi là.
KINH LÂN 經 麟. Kinh là Kinh sách; Lân là Kỳ Lân, nên KINH LÂN là LÂN KINH 麟 經 quyển sách nói đến con kỳ lân. Đó cũng chính là quyển kinh Xuân Thu 春 秋 經, một trong Lục Kinh do Khổng Tử biên soạn, có xuất xứ như sau:
XUÂN THU KINH 春 秋 經 là quyển Biên Niên Sử đầu tiên của Trung Hoa do Khổng Tử biên soạn. Năm Lổ Ai Công thứ mười bốn, có người bắt được một con kỳ lân què, Khổng Tử cho đó là điềm chẳng lành, bèn ngưng không soạn tiếp nữa; Vì thế, mà Kinh Xuân Thu còn được gọi là Kinh Lân.
Trong Truyện thơ Nôm PHÙ DUNG TÂN TRUYỆN dài 1120 câu của Trúc Lâm Cư Sĩ bản in đời vua Tự Đức. Truyện kể lại cuộc tình duyên trắc trở giữa Nho sinh Thôi Tuấn Thần và Vương Thị có câu:
Mở mang sử Mã KINH LÂN,
Sâu nguồn Thù Tử, rộng sân Chu Trình.
KINH LÂN 經 麟 là Kinh Xuân Thu, khác với KINH LUÂN 經 綸. KINH 經 là những sợi tơ tằm đã được chỉnh lý cho ngay thẳng đều đặn. LUÂN 綸 là Chỉ được nối kết se lại thành dây là giềng mối, nên nghĩa bóng của KINH LUÂN là người có tài chính trị biết sắp xếp ngăn nắp đâu ra đó của guồng máy chính quyền ngày xưa, giỏi xử lý những tình huống rắc rối phức tạp của xã hội, đưa cuộc sống vào hệ thống nề nếp hẵn hoi. Người có tài Kinh Luân là Người giỏi về an dân trị nước.
Trong Truyện Kiều, sau khi Từ Hải và Thúy Kiều đã "Năm năm hùng cứ một phiên hải tần" thì Triều đình đã cử binh đến chiêu an dẹp loạn:
Có quan Tổng Đốc đại thần,
Là Hồ Tôn Hiến KINH LUÂN gồm tài.
Trong bài Hát nói PHẬN SỰ LÀM TRAI của cụ Nguyễn Công Trứ cũng bắt đầu bằng hai câu:
Vũ trụ chức phận nội,
Đấng trượng phu một túi KINH LUÂN.
Rộng hơn nữa ta có từ KINH PHẦN 經 份 là từ chỉ chung về Tứ Thư Ngũ Kinh, Tam Hoàng Ngũ Đế, về Tam Quang Nhật Nguyệt Tinh, Tam Tài Thiên Địa Nhân... Nói chung các sách nói về văn minh văn hóa Trung Hoa cổ xưa, mà người xưa phải theo học để mở mang trí tuệ và để thi cử làm quan, như trong Sơ Kính Tân Trang của Chiêu Lỳ Phạm Thái có câu:
Yến rằng: Ông bậc thanh xuân,
Tuổi vừa đôi tám KINH PHẦN uyên vi!
Còn trong Truyên Tây Sương thì gọi là ĐIỂN PHẦN:
Chàng kia vốn kẻ văn nhân,
Bây giờ lễ nghĩa ĐIỂN PHẦN để trơ.
Trong Văn Học Cổ ta cũng thường hay gặp từ KINH QUYỀN 經 權. Theo "Mạnh Tử Li Lâu Thượng 孟 子‧ 離 婁 上" thì KINH QUYỀN là sự kết nối giữa "Nguyên tắc Đạo Đức" và "Thực hành Đạo đức" của Nho gia. KINH 經 là Lẽ thường của đạo, là Lễ phép, là Kỷ cương, là Nguyên tắc phải tuân theo của Nho gia, như "Nam nữ thụ thụ bất thân 男 女 授 受 不 親" có nghĩa: Con trai con gái đưa và nhận không được thân cận nhau. Ý là Trai gái không được gần gũi, va chạm hoặc nắm núi tay nhau, sợ sẽ phát sinh tình cảm trai gái ngoài khuôn phép, không đúng theo luân thường đạo lý. Còn QUYỀN 權 vốn là trái cân, dùng để cân nhắc nặng nhe, được sử dụng với nghĩa Quyền Biến, là phải biết linh động mà xử sự, như Thuần Vu Khôn 淳 于 髡 hỏi Mạnh Tử rằng: Nếu nói "Nam nữ thọ thọ bất thân" thì khi chị dâu té xuống sông có nhảy xuống cứu lên không? Mạnh Tử đáp: "Nam nữ thọ thọ bất thân, lễ dã. Tẩu nịch viện chi dĩ thủ, quyền dã 男 女 授 受 不 親,禮 也;嫂 溺 援 之 以 手,權 也 Có nghĩa: Trai gái đưa và nhận không được thân cận nhau, đó chính là LỄ. Chị dâu chết đuối đưa tay cứu lên, đó chính là QUYỀN. Ý nói: Nam nữ ngày thường phải được phân biệt, không được thân cận niú kéo nhau, cho dù đưa và nhận cũng không được chạm vào tay nhau, đó là phải giữ LỄ; Nếu không giữ Lễ người nam sẽ dễ lợi dụng thời cơ để sờ mó khinh bạc đối với phụ nữ, hoặc nam nữ dễ phát sinh gian tình với nhau. Còn thấy chị dâu té xuống nước mà còn giữ lễ "Nam nữ thọ thọ bất thân" để cho chị dâu bị chết đuối, là bất nhân bất nghĩa. Nhảy xuống nước ôm chị dâu để cứu chị lên bờ, chỉ là Quyền Biến để cứu sống chị, chớ không phải giở trò Phi Lễ với chị. Đó gọi là "Ngộ Biến phải tòng Quyền" nên người QUYỀN BIẾN là người biết tùy theo thời cơ, hoàn cảnh mà hành động, không theo nguyên tắc cứng ngắt mà phải biết linh động tùy cơ tùy thời. Như Thúy Kiều là cô gái khuê các đàng hoàng, nhưng khi gặp cảnh gia biến thì cũng phải bán mình để chuộc tội cho cha, để...
Duyên hội ngộ, đức cù lao,
Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn?!
Trong truyện thơ Nôm NỮ TÚ TÀI, nàng Nữ Tú Tài Phi Nga do dự không biết phải làm thế nào giữa hai chàng Đỗ Tử Trung và Ngụy Soạn Chi cho đúng cho phải, nên...
Ruột tằm bối rối nào yên,
Bồi hồi chưa định KINH QUYỀN làm sao?!
Còn có...
KINH 驚 là Sợ, HÃI 駭 là Khiếp, ta có từ KINH HÃI 驚駭 là Khiếp Sợ, chỉ rất Sợ hãi, khiếp đãm, như khi Thúy Kiều nghe Hoa Tỳ kể lại:"...bà đến đã lâu, nhón chưn đứng nép độ đâu nửa giờ, Rành rành kẻ tóc chân tơ, Nỗi ông dật dã nỗi nàng thở than, ngăn tôi đứng lại một bên, Chán tai rồi mới bước lên trên lầu..." Khiến cho Thúy Kiều:
Nghe thôi KINH HÃI xiết đâu,
Ấy mới gan, Ấy mới tài,
Nghĩ càng thêm nỗi sờn gai rụng-rời
KINH 驚 còn có nghĩa là KINH ĐỘNG 驚 動 là làm cho Giật mình, như KINH THIÊN ĐỘNG ĐỊA 驚 天 動 地 là làm cho Long Trời Lở Đất, làm cho trời đất cũng phải giật mình. Ý chỉ làm chuyên lớn, chuyện mọi người đều kinh ngạc không ngờ tới. Ta nói là làm chuyện tày trời, như Từ Hải và Thúy Kiều "Gồm hai văn võ vạch đôi sơn hà!" và "Năm năm hùng cứ một phương hải tần", cho thấy hai người đã:
Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên,
Làm cho ĐỘNG ĐỊA KINH THIÊN ầm ầm!
Ngoài KINH THIÊN ĐỘNG ĐỊA 驚 天 動 地 ra, ta còn có thành ngữ KINH THẦN KHỐC QUỶ 驚 神 哭 鬼 hay QỦY KHỐC THẦN KINH 鬼 哭 神 驚, mà ta hay nói thành QỦY KHỐC THẦN SẦU, như khi Thúy Kiều đang "Nén hương đến trước Phật đài, Nỗi lòng khấn chửa cạn lời vân vân" thì:
Dưới hoa dậy lũ ác nhân,
Ầm ầm KHỐC QỦY KINH THẦN mọc ra.
... Khuyển Ưng đã theo lệnh của Hoạn Thư đến bắt Thúy Kiều về Vô Tích!
Xin được kết thúc Thành ngữ Điển tích với chữ KINH ở đây!
Hẹn bài viết tới !
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét