Góc Đường Thi :
Năm Bài Thơ Đường
Lưu Nguyễn Nhập Thiên Thai
Xắn tay bẻ khóa động đào,
Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên-Thai (Truyện Kiều)
Theo U MINH LỤC của Lưu Nghĩa Khánh đời Tống
(宋.劉 義 慶《幽 明 錄》)chép rằng:
Năm Vĩnh Bình thứ 5 đời Hán Minh Đế (Công nguyên năm
62 ), người đất Diễm ( thuộc tỉnh Chiết Giang hiện nay) là LƯU
THẦN và NGUYỄN TRIỆU vào Thiên Mụ Sơn để hái thuốc.
Thiên Mụ Sơn gồm có Lưu Môn Sơn, Tế Tiêm, Đại Tiêm, Phất
Vân Tiêm, Ba Tiêu Sơn, và Liên Hoa Phong quần tụ mà thành,
thế núi hiễm trở, phong đỉnh chập chùng, cao nguyên rộng lớn,
hoa cỏ rậm rạp xanh tươi, rừng núi bạt ngàn, muôn màu muôn
vẻ. Lưu Nguyễn mãi mê hái thuốc, lạc sâu mãi trong rừng hoa
thơm cỏ lạ, tới chừng nhìn lại thì trời đã về chiều, bụng lại đói
meo. May sao bên triền núi có mấy cây đào mọc theo khe suối,
nhằm lúc đào đang chín rộ, bèn hái lấy mấy trái mà ăn đỡ đói,
nào ngờ đó là đào tiên, ăn vào ngon ngọt và thơm tho cả mồm
miệng, khí lực lại sung mãn, bèn lần theo khe suối mà đi lên, đến
một nơi khe nước rộng, trời đất như mở ra một thế giới mới, với
hoa thơm cỏ lạ ven bờ, với oanh yến líu lo kêu hót, hai chàng
lấy ly ra để múc nước suối uống, thì thấy bên bờ khe đã đứng
sẵn hai nàng con gái tuyệt đẹp, cười mà rằng: "Hai chàng Lưu
Nguyễn sao lại đến muộn thế? " Bèn thân mật như người quen
đã lâu năm, rước hai chàng cùng về động phủ. Trong động như
có trời đất riêng, phòng ốc khang trang tráng lệ, đã thiết bị sẵn
hai phòng hoa chúc, ngọc chuốc vàng treo, mười phần hoa lệ.
Tiệc hoa cũng đã bày sẵn, tiên nữ tới lui tấp nập, cùng mời hai
chàng nhập tiệc với đầy đủ sơn hào hải vị. Xóm đông có các
tiên nương cùng mang đến một mâm đào tiên, cười chúc cho hai
nàng đã đón được hai chàng rể quí Lưu Nguyễn vừa du nhập
Thiên Thai. Tiệc hoa vui vầy, rượu tiên thơm lừng, chưa nhấp
đã say, hòa trong tiếng sanh ca hoan lạc, đưa hai chàng cùng vào
động phòng với hai tiên nữ trong tiếng tiên nhạc du dương ngây
ngất!...
Nhưng chỉ quá mươi ngày sau, Lưu Nguyễn cùng nhớ quê xin
Nhưng chỉ quá mươi ngày sau, Lưu Nguyễn cùng nhớ quê xin
về, hai nàng cố cầm giữ lại, được hơn nửa năm, mặc dù bên mình
luôn có người đẹp... như tiên, nhưng khi nghe tiếng Tử qui gọi
xuân thắm thiết, hai chàng càng nghe lòng nhớ quê mãnh liệt hơn
lên và nhất định xin về. Hai nàng đành phải buộc lòng đặt tiệc
tiễn hành và chỉ lối để hai chàng về quê với biết bao là tình
thương quyến luyến, bịn rịn chẳng nở rời xa!...
Về đến làng quê, thấy mọi cảnh vật đều đổi khác, tìm không
Về đến làng quê, thấy mọi cảnh vật đều đổi khác, tìm không
thấy nhà cửa của mình ở đâu nữa. Hỏi thăm trong họ tộc, thì có
một cụ già cho biết rằng: Ông Tổ bảy đời của họ đi vào núi hái
thuốc rồi lạc mất đường không thấy trở về. Lưu Nguyễn ở trên
Thiên Thai nửa năm, nhưng ở dưới núi đã qua đến bảy đời con
cháu. Hỏi ra, thì bấy giờ đã vào năm Thái Nguyên Thứ 8 của đời
nhà TẤN rồi (Công Nguyên năm 388) hơn 300 năm sau rồi! Hai
người đành quay trở lại Thiên Thai, nhưng đã không còn tìm được
đường lên Tiên động nữa!
Trong những bài thơ vịnh về LƯU NGUYỄN NHẬP THIÊN
THAI, phải kể đến năm bài trong ĐẠI DU TIÊN THI của TÀO
ĐƯỜNG đời Đường là tiêu biểu và nổi tiếng nhất.
Xin được giới thiệu 5 bài thơ đó cùng tác giả TÀO ĐƯỜNG
Xin được giới thiệu 5 bài thơ đó cùng tác giả TÀO ĐƯỜNG
sau đây...
* SƠ LƯỢC VỀ TÀO ĐƯỜNG :
TÀO ĐƯỜNG 曹 唐 tự là Nghiêu Tân, người đất Quế Châu
(thuộc Quế Lâm Quảng Châu hiện nay). Không rõ năm sanh và
mất. Lúc đầu xuất gia làm Đạo Sĩ, sau ứng thi Tiến Sĩ giữa năm
Đại Trung, nhưng không đỗ. Khoảng năm Hàm Phong ( 860-874 )
tùng sự ở Chư Phủ. Tào sống cùng thời với La Ẩn 羅 隱, tài thơ
ngang nhau, Tào thường truy cứu hâm mộ tình tự cao nhã của các
bậc thần tiên, nên sáng tác các thiên "Đại du tiên thi 大 游 仙 詩 ",
"Tiểu du tiên thi 小 游 仙 詩" gồm 50 thiên, tả lại những nỗi bi
hoan ly hợp của chư tiên nhân để phổ biến và truyền lại đời sau.
Tào Đường lại rất thường gặp La Ẩn để trao đổi Ý kiến về những
bài thơ mà mình mới sáng tác.
Bài 1: LƯU NGUYỄN NHẬP THIÊN THAI
劉 晨 阮 肇 遊 天 台 Lưu Thần Nguyễn Triệu Du Thiên Thai
樹 入 天 台 石 路 新, Thụ nhập Thiên Thai thạch lộ tân,
雲 和 草 靜 迥 無 塵。 Vân hoà thảo tĩnh quýnh vô trần.
煙 霞 不 省 生 前 事, Yên hà bất tỉnh sinh tiền sự,
水 木 空 疑 夢 後 身。 Thuỷ mộc không nghi mộng hậu thân.
往 往 雞 鳴 岩 下 月, Vãng vãng kê minh nham hạ nguyệt,
時 時 犬 吠 洞 中 春。 Thời thời khuyển phệ động trung xuân.
不 知 此 地 歸 何 處, Bất tri thử địa quy hà xứ ?
須 就 桃 源 問 主 人。 Tu tựu Đào Nguyên vấn chủ nhân.
雲 和 草 靜 迥 無 塵。 Vân hoà thảo tĩnh quýnh vô trần.
煙 霞 不 省 生 前 事, Yên hà bất tỉnh sinh tiền sự,
水 木 空 疑 夢 後 身。 Thuỷ mộc không nghi mộng hậu thân.
往 往 雞 鳴 岩 下 月, Vãng vãng kê minh nham hạ nguyệt,
時 時 犬 吠 洞 中 春。 Thời thời khuyển phệ động trung xuân.
不 知 此 地 歸 何 處, Bất tri thử địa quy hà xứ ?
須 就 桃 源 問 主 人。 Tu tựu Đào Nguyên vấn chủ nhân.
曹 唐 TÀO ĐƯỜNG
* Chú thích :
- Thiên Thai 天 台 : là tên một ngọn núi ở tỉnh Chiết Giang
mà theo truyền thuyết có tiên ở trên đó; cũng từ nầy nếu đọc là THIÊN ĐÀI thì có nghĩa là Cái Sân Thượng trên nóc bằng của
các nhà lầu.
- Quýnh 迥 : Xa xôi, vắng vẻ.
- Vô Trần 無 塵 : Không có bụi trần ai, chỉ cảnh thoát tục.
- Yên Hà 煙 霞 : Khói sương và mây mù ngũ sắc; chỉ cảnh
đẹp của thiên nhiên huyền ảo.
- Tiền Sự 前 事 : Chuyện của những kiếp trước.
- Thủy Mộc 水 木 : Nước và cây; chỉ khe suối và rừng cây .
- Hậu Thân 後 身 : Thân sau, là chuyện của kiếp sau.
* Dịch nghĩa:
Lưu Thần Nguyễn Triệu Du Ngoạn Thiên Thai
Hàng cây dẫn nhập thiên thai với con đường đá mới, mây
hòa quyện lấy cỏ trong thanh tĩnh không vướng chút bụi trần.
Khói ráng mông lung như không rõ được truyện của kiếp trước,
Suối nước và rừng cây cũng mờ ảo như còn ngờ ngợ thân ta
như sau cơn mộng mị. Luôn luôn như nghe được tiếng gà gáy ở
mõm đá dưới ánh trăng, và như lúc nào cũng có tiếng chó sủa
trong động xuân. Không biết là nơi đây sẽ đưa đến nơi đâu, chỉ
còn có nước là tìm chủ nhân của xứ Đào Nguyên nầy mà hỏi!?...
* Diễn nôm:
LƯU NGUYỄN NHẬP THIÊN THAI
Cây dẫn nhập Thiên Thai cao vút,
Cỏ mây vương chẳng chút bụi trần,
Yên hà không nhớ tiền thân,
Nước mây luống những bâng khuâng mộng hồn.
Tiếng gà gáy dập dồn trăng tỏa,
Văng vẳng xa chó sủa động xuân,
Đào nguyên ướm hỏi chủ nhân,
Rằng đây dẫn lối xa gần Thiên Thai?
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Bài 2 :
LƯU NGUYỄN GẶP GỠ TIÊN TRONG ĐỘNG
劉 阮 洞 中 遇 仙 子 Lưu Nguyễn Động Trung Ngộ Tiên Tử
天 和 樹 色 靄 蒼 蒼, Thiên hòa thọ sắc ái thương thương,
霞 重 嵐 深 路 渺 茫。 Hà trọng lam thâm lộ diễu mang.
雲 實 滿 山 無 鳥 雀, Vân thực mãn sơn vô điểu tước,
水 聲 沿 澗 有 笙 簧。 Thủy thanh duyên giản hữu sanh hoàng.
碧 沙 洞 裡 乾 坤 别, Bích sa động lý càn khôn biệt,
紅 樹 枝 前 日 月 長。 Hồng thọ chi tiền nhật nguyệt trường.
愿 得 花 間 有 人 出, Nguyện đắc hoa gian hữu nhân xuất,
免 令 仙 犬 吠 劉 郎。 Miễn linh tiên khuyển phệ Lưu Lang.
* Chú thích :
- Ái Thương Thương 靄 蒼 蒼 : ÁI là Khói mây; THƯƠNG
là màu xanh om; nên ÁI THƯƠNG THƯƠNG là Khói mây
ngùn ngụt bốc lên màu xanh om vì cây cỏ xung quanh.
- Hà Trọng Lam Thâm 霞 重 嵐 深 : HÀ là Ráng, là mây
màu; LAM là Sơn lam Chướng khí của hơi núi bốc lên; nên HÀ
TRỌNG LAM THÂM là Mây màu rất đậm và Sơn lam Chướng
khí của núi rừng giăng bủa khắp nơi.
- Vân Thực 雲 實 : là cây vuốt mèo, một loại cây dại cho hoa
màu vàng rất đẹp.
- Duyên Giản 沿 澗 : là Dọc theo bờ khe suối.
- Càn Khôn Biệt 乾 坤 别 : chỉ nơi như có trời đất riêng biệt.
- Nguyện Đắc 愿 得 : Những mong, những mong rằng ...
- Miễn Linh 免 令 : MIỄN là Khỏi phải, LINH là Làm cho;
MIỄN LINH là Để khỏi phải cho...; Để khỏi phải làm cho... cái gì
đó ...
* Nghĩa bài thơ :
LƯU NGUYỄN GẶP TIÊN NỮ TRONG ĐỘNG TIÊN
Bầu trời hòa quyện với cỏ cây tạo nên lớp khói mây nghi
ngút xanh xanh, những ráng mây màu ngũ sắc thấp thoáng với
sơn lam chướng khí làm đường núi như mờ mịt và xa xôi hơn.
Những hoa cỏ dại nở đầy cả núi rừng nhưng lại vắng tiếng chim
muông, những khe nước róc rách chảy quanh như có tiếng đàn
tiếng nhạc. Trong động cát xanh biêng biếc như có trời đất riêng
biệt; Trước những cành hoa lá đỏ thắm ngày tháng như dài
thêm ra. Những mong trong khóm hoa bát ngát kia có bóng
người xuất hiện, để cho những con chó trong động tiên khỏi
phải sủa chàng Lưu.
Cảnh tiên với mây khói mông lung, với hoa thơm cỏ lạ, nhưng
là cảnh đẹp trong vắng lặng não nùng không tiếng chim muông;
chỉ có tiếng nước suối chảy theo các khe đá phát ra âm thanh
như tiếng nhạc, nhưng lại đơn điệu dễ nhàm chán. Trời đất tuy
riêng biệt, sống trong nhàn nhã nên cảm thấy ngày tháng như
dài thêm ra. Cảnh tiên đẹp như một bức tranh đơn điệu không
hồn. Nên mới ước ao có người trần lạc bước xuất hiện trong
rừng hoa để cho con chó tiên có người để sủa, để tạo nên vẻ sinh
động hoạt náo, thổi một luồng sinh khí vào trong cảnh tiên cho
sống thực và nên thơ hơn.
* Diễn Nôm :
LƯU NGUYỄN GẶP GỠ TIÊN TRONG ĐỘNG
Sắc trời cây xanh xanh hòa quyện,
Khói mây vương ẩn hiện núi tiên.
Hoa thơm đầy núi vắng chim,
Suối khe róc rách nhạc tiên bồi hồi.
Trong động biếc đất trời riêng biệt,
Lá đỏ cành chẳng biết tháng năm.
Trong hoa ước thấy tri âm,
Chó tiên khỏi phải sủa nhầm chàng Lưu !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Cảnh tiên tuy đẹp nhưng lại dễ nhàm chán, chả trách chỉ mới mươi hôm mà hai chàng Lưu Nguyễn đã muốn trở lại cảnh thế tục nơi quê nhà... Nhưng vì có người đẹp như... tiên cầm cọng cho nên đến nửa năm sau mới tiễn biệt cho về ! Mời đọc tiếp bài 3...
Bài 3 : THIÊN THAI TỐNG BIỆT.
僊 子 送 劉 阮 出 洞 Tiên Tử Tống Lưu Nguyễn Xuất Động
殷 勤 相 送 出 天 台, Ân cần tương tống xuất Thiên Thai,
僊 境 那 能 卻 再 來。 Tiên cảnh na năng khước tái lai.
雲 液 既 歸 須 強 飲, Vân dịch ký qui tu cưỡng ẩm,
玉 書 無 事 莫 頻 開。 Ngọc thơ vô sự mạc tần khai.
花 留 洞 口 應 長 在, Hoa lưu động khẩu ưng trường tại,
水 到 人 間 定 不 回。 Thủy đáo nhân gian định bất hồi.
惆 悵 溪 頭 從 此 別, Trù trướng khê đầu tòng thử biệt,
碧 山 明 月 照 蒼 苔。 Bích sơn minh nguyệt chiếu thương đài!
僊 境 那 能 卻 再 來。 Tiên cảnh na năng khước tái lai.
雲 液 既 歸 須 強 飲, Vân dịch ký qui tu cưỡng ẩm,
玉 書 無 事 莫 頻 開。 Ngọc thơ vô sự mạc tần khai.
花 留 洞 口 應 長 在, Hoa lưu động khẩu ưng trường tại,
水 到 人 間 定 不 回。 Thủy đáo nhân gian định bất hồi.
惆 悵 溪 頭 從 此 別, Trù trướng khê đầu tòng thử biệt,
碧 山 明 月 照 蒼 苔。 Bích sơn minh nguyệt chiếu thương đài!
* Chú thích :
- Tiên Tử 仙 子 hay Tiên Nữ 仙 女 đều là từ chỉ những
nàng tiên; nếu là nam thì gọi là Tiên Nhân 仙 人hay Tiên Ông
仙 翁.
- Tương Tống 相 送 : là Đưa tiễn nhau.
- Na Năng 那 能 : là Làm sao có thể...
- Vân Dịch 雲 液 : Vân là Mây, Dịch là chất lỏng. VÂN
DỊCH là một loại rượu tiên được ủ từ các loại trái cây thơm
ngon và có màu sắc đẹp như mây trên trời; là rượu kocktail
ngày nay của ta đó.
- Ngọc Thơ 玉 書 : là Sách tu tiên theo Đạo Giáo.
- Trù Trướng 惆 悵 : là Buồn bã bịn rịn; Do dự bồn chồn.
- Thương Đài 蒼 苔 : là Rêu xanh.
Câu thứ 5 còn có dị bản là :
花 當 洞 口 應 長 在 Hoa đang động khẩu ưng trường tại,
Về mặt ý nghĩa thì cũng tương đương như nhau mà thôi:
"Hoa LƯU lại trước của động vẫn còn mãi" và "Hoa ĐANG ở
trước cửa động thì vẫn còn mãi nơi đó".
* Dịch nghĩa:
TIÊN NỮ ĐƯA LƯU NGUYỄN RỜI THIÊN THAI
Ân cần đưa tiễn nhau ra khỏi chốn Thiên Thai, Tiên cảnh
biết làm sao còn có thể trở lại đây. Đã quyết định đi về nên phải
miễn cưởng mà uống cạn chén rượu tiên đưa tiễn (Vân dịch:
tên một loại rượu tiên). Nếu không có chuyện gì thì không nên
thường xuyên mở Ngọc Thơ ra xem (Ngọc Thơ: Sách của Đạo
gia tu Tiên). Hoa lưu lại trước cửa động sẽ còn mãi mãi nơi đây,
nhưng nước đã chảy về với dân gian thì chắc chắn sẽ không còn
quay trở lại được nữa. Bịn rịn mãi ở đầu khe suối nơi mà từ đây
đành cách biệt, chỉ còn trơ lại vầng trăng bạc trên đỉnh núi biếc
chiếu lên đám rêu xanh!
Bài thơ nầy làm cho ta nhớ đến bài thơ "Tống Biệt" của
Tản Đà làm năm 1922 :
Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai,
Suối tiễn, oanh đưa, những ngậm ngùi!
Nửa năm tiên cảnh,
Một bước trần ai,
Ước cũ duyên thừa có thế thôi.
Đá mòn, rêu nhạt,
Nước chảy, huê trôi,
Cái hạc bay lên vút tận trời!
Trời đất từ đây xa cách mãi.
Cửa động,
Đầu non,
Đường lối cũ,
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi !...
Bài thơ này đã được nhạc sĩ Võ Đức Thu phổ nhạc thành bài
hát cùng tên Tống Biệt do các ca sĩ Mộc Lan trong ban nhạc
Tiếng Tơ Đồng và nữ ca sĩ Thái Thanh trong Đoàn Hợp Ca
THĂNG LONG trình diễn theo trang web. dưới đây:
* Diễn nôm :
THIÊN THAI ĐƯA TIỄN
Ân cần tiễn biệt rời tiên động,
Cảnh tiên thôi hi vọng trở về,
Chén đưa luống những não nề,
Ngọc thơ vô sự chẳng hề mở đâu !
Hoa trước động luôn sầu mong nhớ,
Nước xuôi dòng biết thuở nào về,
Chia tay lòng những tái tê,
Rêu xanh núi biếc trăng thề luyến lưu !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
BÀI 4 :
TIÊN TỬ ĐỘNG TRUNG HỮU HOÀI LƯU NGUYỄN.
仙 子 洞 中 有 懷 劉 阮 Tiên Tử Động Trung Hữu Hoài Lưu
Nguyễn
不 將 清 瑟 理 霓 裳, Bất tương thanh sắt lý Nghê Thường,
塵 夢 那 知 鶴 夢 長! Trần mộng nả tri hạc mộng trường !
洞 裡 有 天 春 寂 寂, Động lý hữu thiên xuân tịch tịch,
人 間 無 路 月 茫 茫。 Nhân gian vô lộ nguyệt man man.
玉 沙 瑶 草 連 溪 碧, Ngọc sa dao thảo liên khê bích,
流 水 桃 花 满 澗 香。 Lưu thủy đào hoa mãn giản hương.
曉 露 風 燈 零 落 盡, Hiểu lộ phong đăng linh lạc tận,
此 生 無 處 訪 劉 郎。 Thử sinh vô xứ phỏng Lưu Lang !
* Chú thích :
- Thanh Sắt 清 瑟 : là Tiếng đàn thanh thoát, trong sáng.
- Nghê Thường 霓 裳 : NGHÊ là Cầu vồng, là Mây có
nhiều màu sắc; THƯỜNG là Áo dài từ thân trên xuống thân
dưới; nên NGHÊ THƯỜNG là quần áo có nhiều mầu sắc sặc
sỡ. Theo như thơ trong Trường Hận Ca của Bạch Cư Dị tả điệu
múa của các cung nữ trong cung do vua Đường Minh Hoàng
khi nằm mơ du nguyệt điện về chế ra loại y phục và điệu múa
NGHÊ THƯỜNG VŨ Y KHÚC 霓 裳 羽 衣 曲.
- Trần Mộng... Hạc Mộng 塵 夢... 鶴 夢 : TRẦN MỘNG là
giấc mộng trần thế của người trần thế; còn HẠC MỘNG là
giấc mộng của Tiên Hạc, của những người tiên.
- Ngọc Sa Dao Thảo 玉 沙 瑶 草 : Cát như ngọc, cỏ như đá
qúy; ở đây chỉ "Cát đá và hoa cỏ đều xanh tươi đẹp đẽ như
ngọc quỳnh ngọc dao.
- Hiểu Lộ Phong Đăng 曉 露 風 燈 : HIỂU LỘ là Sương
buổi sáng; PHONG ĐĂNG là Đèn treo trước gió. Ở đây chỉ
Cảnh vật đã nhạt nhòa như sương buổi sớm và tả tơi sắp tắt
như ngọn đèn treo trước gió suốt đêm.
- Linh Lạc 零 落 : là Te ta, tơi tả.
- Thử Sinh 此 生 : là trong cuộc sống nầy, là Kiếp nầy.
* Nghĩa bài thơ :
TIÊN TỬ TRONG ĐỘNG NHỚ NHUNG LƯU NGUYỄN.
Cũng không thèm cất tiếng đàn trong trẻo và cũng không
thèm ngó ngàng đến áo vũ nghê thường để ca múa nữa. Giấc
mộng của người trần thế đâu có biết rằng giấc mộng của những
người tiên còn vằng vặc hơn nhiều. Trong động tuy có trời đất
riêng biệt nhưng mùa xuân thì lại vắng vẻ yên ắng vô cùng;
Đường đến nhơn gian đã bặt tăm chỉ còn thấy có ánh trăng mờ
ảo mông lung. Cát trắng cỏ xanh hoa thơm cỏ lạ mọc quanh
đầy cả dòng khe nước biếc; Dòng nước cuốn trôi những cánh
hoa đào làm cho con suối còn ngát hương thơm. Ngọn đèn tàn
tả tơi trong gió sớm sương tan nhếch nhác. Kiếp nầy còn biết
đi đâu để tìm cho gặp lại chàng Lưu đây!?...
Qủa là tâm sự nhớ nhung da diết thiết tha của những kẻ yêu
nhau lại phải xa nhau; mặc dù là tiên nương nhưng cũng không
sao tránh khỏi vấn vương quyến luyến nhớ nhung. Trước cảnh
tiên... Hoa lá cỏ cây đều đẹp như...Tiên cảnh. Nhưng "Người
buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Cho hay "sợi tơ tình vương vấn"
không phân biệt người tiên kẻ tục, tất cả đều phải quy lụy và
buồn vui chỉ vì một chữ TÌNH mà thôi!
* Diễn Nôm :
TIÊN TỬ ĐỘNG TRUNG HỮU HOÀI LƯU NGUYỄN
Nghê Thường bỏ xó đàn không gãy,
Mộng tục tiên có phải đều dài ?!
Động tiên xuân vắng ai hoài,
Nhân gian hết lối trăng soi mơ màng.
Cỏ xanh biếc suối vàng cát trắng,
Nước cuốn trôi hương thắm hoa đào,
Đèn tàn sương sớm lao xao,
Chàng Lưu ơi hỡi kiếp sau tương phùng !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
BÀI 5 : TÁI ĐÁO THIÊN THAI
Tạo dáng trong phim và tượng của NGỌC CHÂN CÔNG CHÚA
劉 阮 再 到 天 台 不 復 見 仙 子
Lưu Nguyễn Tái Đáo Thiên Thai Bất Phúc Kiến Tiên Tử
再 到 天 台 訪 玉 真, Tái đáo Thiên Thai phỏng Ngọc Chân,
青 苔 白 石 已 成 塵。 Thanh đài bạch thạch dĩ thành trần.
笙 歌 寂 寞 閑 深 洞, Sanh ca tịch mịch nhàn thâm động,
雲 鶴 蕭 條 絕 舊 鄰。 Vân hạc tiêu điều tuyệt cựu lân.
草 樹 總 非 前 度 色, Thảo thụ tổng phi tiền độ sắc,
青 苔 白 石 已 成 塵。 Thanh đài bạch thạch dĩ thành trần.
笙 歌 寂 寞 閑 深 洞, Sanh ca tịch mịch nhàn thâm động,
雲 鶴 蕭 條 絕 舊 鄰。 Vân hạc tiêu điều tuyệt cựu lân.
草 樹 總 非 前 度 色, Thảo thụ tổng phi tiền độ sắc,
煙 霞 不 似 往 年 春。 Yên hà bất tự vãng niên xuân.
桃 花 流 水 依 然 在, Đào hoa lưu thuỷ y nhiên tại,
不 見 當 時 勸 酒 人。 Bất kiến đương thời khuyến tửu nhân.
曹 唐 Tào Đường
* Chú thích :
- Phỏng Ngọc Chân 訪 玉 真 : PHỎNG là Bái Phỏng 拜 訪
là Thăm viếng; NGỌC CHÂN : là Công Chúa Ngọc Chân 玉
真 公 主, tên là LÝ TRÌ DOANH 李 持 盈 ( 692-762 ), cháu nội
của Võ Tắc Thiên đời Đường. Theo Đạo Giáo xuất gia làm đạo
cô, lấy hiệu là HUYỀN HUYỀN 玄 玄, đắc đạo thành tiên, nên
thường dùng để chỉ chung cho các nàng tiên nữ.
- Sanh Ca Tịch Mịch 笙 歌 寂 寞 : Tiếng sanh ca vắng vẻ
yên ắng; chỉ cảnh hoang vu vắng vẻ của các động phủ ngày xưa.
- Vân Hạc Tiêu Điều 雲 鶴 蕭 條 : Mây và chim hạc cũng
lưa thưa xơ xác; chỉ cảnh mây và chim cũng xác xơ rời rạc
không còn vui vẻ náo nhiệt như xưa.
- Đương Thời 當 時 : là Ngay lúc đó.
* Dịch nghĩa:
TRỞ LẠI THIÊN THAI KHÔNG GẶP ĐƯỢC TIÊN NỮ
Trở lại Thiên Thai để tìm gặp lại các tiên nương . Chỉ thấy
rêu xanh và đá trắng đều hóa thành tro bụi cả rồi. Trong động
sâu đã vắng vẻ không còn tiếng sanh ca như ngày nào, hàng
xóm cũng vắng tanh tiêu điều như mây hạc bay xa. Cỏ cây hoa
lá không còn vẻ hương sắc của ngày xưa, yên hà mây khói
cũng không còn nhuốm sắc tươi như mùa Xuân cũ. Hoa đào
nước cuốn cũng vẫn còn đó như trước kia, chỉ có người chuốc
rượu đưa tiễn năm xưa thì không còn tìm đâu thấy nữa!
* Diễn Nôm :
Trở Lại Thiên Thai
Quay trở lại Thiên Thai chốn cũ,
Đá rêu xanh đã phủ bụi trần,
Sanh ca vắng vẻ động xuân,
Tiêu điều mây hạc xóm gần làng xa.
Cỏ cây cũng nhạt nhòa hương sắc,
Yên hà như cũng nhắc xuân thừa,
Hoa đào nước cuốn như xưa,
Đâu người chuốc rượu tiễn đưa dạo nào !?
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Thế ngoại Đào Nguyên rất đẹp, Thiên Thai cũng rất đẹp, Đời
sống ở Thiên Thai cũng rất đẹp, Thiên Thai Tiên nữ thì khỏi phải
nói, đẹp tuyệt trần! Nhưng tất cả đều chỉ là ảo tưởng, là khát vọng
của người đời sống trong xã hội đầy rẫy nhiễu nhương hắc ám, bất
công, bạo lực, chiến tranh, chết chóc... Vẽ nên cuộc sống của Thiên
Thai và Đào Nguyên đó chỉ là khát vọng của người đời mơ ước
đến một cuộc sống tốt đẹp, một tình yêu hạnh phúc, một xã hội yên
bình, một đất trời lý tưởng. Nhưng, lại nhưng, khi đã có được cuộc
sống ao ước trong tay rồi thì con người cũng dễ đâm ra nhàm chán,
như hai chàng Lưu Nguyễn luôn có người đẹp như... tiên bên cạnh
mà vẫn cứ nằng nặc đòi về; Rồi khi về xong thì lại không tìm được
đường để trở lại! Thế mới biết, con người ta hay "Đứng Thiên
Thai nầy trông... Đào Nguyên nọ" mà không bao giờ chịu "Chấp
nhận hiện tại là Hạnh Phúc cả !"
Hẹn bài viết tới !
杜 紹 德
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét