Chủ Nhật, 3 tháng 9, 2023

Tạp Ghi và Phiếm Luận: HƯ CẤU trong võ hiệp KIM DUNG (10) (Những Cách Đặt Tên Nhân Vật) - (Đỗ Chiêu Đức)

 Tạp Ghi và Phiếm Luận :  

        HƯ CẤU trong võ hiệp KIM DUNG (10)
                         (Những Cách Đặt Tên Nhân Vật)
          
                
                     
                   
 Những tác phẩm tiêu biểu của KIM DUNG.                               
     
       15 tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung được ông viết thành đôi câu đối sau đây:

   飛 雪 連 天 射 白 鹿,Phi Tuyết Liên Thiên Xạ Bạch Lộc,
   笑 書 神 俠 倚 碧 鴛.   Tiếu Thư Thần Hiệp Ỷ Bích Uyên.
Vế đầu :
       1. PHI   là Phi Hồ Ngoại Truyện            飛 狐 外 傳.
       2. TUYẾT là Tuyết Sơn Phi Hồ              雪 山 飛 狐.
       3. LIÊN  là Liên Thành Quyết               連 城 訣.
       4. THIÊN là Thiên Long Bát Bộ            天 龍 八 部.
       5. XẠ  là Xạ Điêu Anh Hùng Truyện     射 雕 英 雄 傳.
       6. BẠCH  là Bạch Mã Khiếu Tây Phong 白 馬 嘯 西 風.
       7. LỘC   là Lộc Đỉnh Ký                          鹿 鼎 記.
Vế sau :
       8. TIẾU  là Tiếu Ngạo Giang Hồ            笑 傲 江 湖.
       9. THƯ   là Thư Kiếm Ân Cừu Lục       書 劍 恩 仇 錄.
      10. THẦN  là Thần Điêu Hiệp Lữ           神 雕 俠 侶.
      11. HIỆP  là Hiệp Khách Hành               俠 客 行.
      12. Ỷ     là Ỷ Thiên Đồ Long Ký              倚 天 屠 龍 記.
      13. BÍCH  là Bích Huyết Kiếm                碧 血 劍.
      14. UYÊN  là Uyên Ương Đao                 鴛 鴦 刀.
Còn một quyển thứ...
      15. là VIỆT NỮ KIẾM 越 女 劍 được viết năm 1970, được in ở phía sau truyện HIỆP KHÁCH HÀNH như là một Phụ Lục. Kim Dung vốn định viết 33 truyện võ hiệp đoản thiên theo "TP TAM KIẾM KHÁCH ĐỒ 卅 三 劍 客 圖" (Bức tranh vẽ 33 kiếm khách), nhưng mới chỉ viết được có truyện đầu tiên là VIỆT NỮ KIẾM rồi ngưng luôn.
 
       Cách đặt tên những nhân vật trong các truyện kiếm hiệp của Kim Dung cũng rất uyên bác và lý thú với những kiến thức vừa bình dân vừa bác học lại vừa có tính cách văn chương... Ta thử điểm qua tên hiệu của một số nhân vật sau đây:

       Năm nhân vật sừng sỏ nhất võ lâm trong "Anh Hùng Xạ Điêu" (Xạ Điêu Anh Hùng Truyện 射 雕 英 雄 傳.và "Thần Điêu Đại Hiệp" (Thần Điêu Hiệp Lữ 神 雕 俠 侶.) được gọi là "Càn Khôn Ngũ Tuyệt 乾 坤 五 绝" mà trong các bản dịch, ta hay gọi là "Võ Lâm Ngũ Bá 武 林 五 霸". NGŨ TUYỆT hay NGŨ BÁ gì thì tên hiệu và sắc phục của họ cũng đều có liên quan đến Ngũ Hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ và phương hướng Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung ương như sau:

    1. Đông Tà Hoàng Dược Sư 東 邪 黄 藥 師 : Đông phương Giáp Ất thuộc Mộc, ứng với màu xanh. Nên Hoàng Dược Sư thường xuất hiện với áo bào màu xanh và ở trên đảo Đào Hoa. Ông được nhà văn Kim Dung ưu ái dùng hiệu của danh tướng và là nhà quân sự nổi tiếng giúp gầy dựng nên nhà Đường là Lý Tịnh 李 靖(571-649) hiệu là DƯỢC SƯ để đặt tên cho ông. Dưới chữ DƯỢC 藥 có một chữ MỘC 木 lớn.
    2. Tây Độc Âu Dương Phong 西 毒 歐 陽 鋒 : Tây phương Canh Tân thuộc Kim, ứng với màu trắng, nên thầy trò Âu Dương Phong đều mặc đồ trắng và đến từ Bạch Đà Sơn Trang. Chữ PHONG 鋒 có nghĩa là bén nhọn, nên bên trái có bộ KIM 金.
    3. Nam Đế Đoàn Hoàng Gia 南 帝 段 皇 爺 : Nam phương Bính Đinh thuộc Hỏa, ứng với màu đỏ của lửa, nên khi xuất gia, Ngài lấy hiệu là NHẤT ĐĂNG 一 燈. ĐĂNG là đèn nên bên trái chữ ĐĂNG 燈 có bộ HỎA 火 là lửa. Kinh Pháp Hoa có câu: "Dĩ nhất đăng truyền chư đăng, chung chí vạn đăng giai minh 以 一 燈 傳 諸 燈,终 至 萬 燈 皆 明。có nghĩa: Lấy lửa của một cây đèn truyền cho những cây đèn khác, rốt cuộc muôn cây đèn đều được sáng sủa cả.
    4. Bắc Cái Hồng Thất Công 北 丐 洪 七 公 : Bắc phương Nhâm Qúy thuộc Thuỷ, ứng với màu đen của nước. HỒNG 洪 là nước lụt mênh mông, bên trái chữ HỒNG 洪 có ba chấm Thủy 氵là Nước. Ông lại là Chúa Ăn Mày nên ăn mặc lam lũ đen đúa hợp với màu đen. 
    5. Trung Thần Thông Vương Trùng Dương 中 神 通 王 重 陽 : Trung Ương Mậu Kỷ thuộc Thổ, ứng với màu vàng. Vương Trùng Dương là nhân vật lịch sử có thật, tên thật của ông là Vương Triết 王 喆, sống ở trong Hoạt Tử Nhân Mộ 活 死 人 墓, có nghĩa là người còn sống sống trong mộ như người đã chết. Các đạo sĩ có xu hướng mặc áo bào màu vàng và đội mão che bui tóc cũng màu vàng, gọi là Hoàng Quan 黄 冠.
     
            Càn Khôn Ngũ Tuyệt 乾 坤 五 绝  hay là  Võ Lâm Ngũ Bá 武 林 五 霸                
       Một số tên tuổi danh hiệu được Kim Dung đặt theo hoàn cảnh sống chung quanh như thầy trò của phái Võ Đang chẳng hạn: Trương Tam Phong và Thất hiệp là Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Du Đại Nham, Trương Tùng Khê, Trương Thúy Sơn, Ân Lê Đình và Mạc Thanh Cốc.
       Võ Đang 武 當 còn có tên là THÁI HÒA SƠN 太 和 山, nằm ở tây nam bộ của tỉnh Hà Bắc. Trong đời nhà Minh (1368~1644) được nhà vua sắc phong là "Đại Nhạc 大 岳", rồi "Huyền Nhạc 玄 岳" đứng trên cả "Ngũ Nhạc 五 岳". Cao nhất có Thiên Trụ Phong 天 柱 峰 (1612m); chung quanh bao bọc bởi "Thất Thập Nhị Phong 七 十 二 峰", "Tam Thập Lục Nham 三 十 六 岩" và "Nhị Thập Tứ Giản 二 十 四 涧" nhiều thắng cảnh bao bọc chung quanh, phong quang đẹp đẽ, khí thế hùng tráng, được người đời xưng tụng là "Vạn Sơn Lai Triều 萬 山 来 朝". có nghĩa: Muôn núi đều chầu về đây. Bây giờ thì ta điểm lại tên hiệu của các thầy trò phái Võ Đang xem sao:

      - Trương Tam Phong 張 三 丰 : PHONG 丰 là Sắc cỏ tươi tốt, đồng âm với PHONG 峰 là ngọn núi. TAM PHONG là Ba ngọn núi cao nhất trong "Thất Thập nhị Phong".
      - Tống Viễn Kiều 宋 遠 橋 : Viễn Kiều là Những chiếc cầu xa xa chung quanh các rặng núi.
      - Du Liên Châu 俞 蓮 舟 : Liên Châu là thuyền hái sen của các ao sen trên núi.
      - Du Đại Nham 俞 岱 巖 : Đại Nham là những tảng đá lớn như núi Thái Sơn; mà trên rặng núi Võ Đang có đến "Tam Thập Lục Nham".
      - Trương Tùng Khê 張 松 溪 : Tùng là cây Thông, Khê là Khe suối. Tùng Khê là có thông có suối, có rừng thông bên bờ các con suối.
      - Trương Thúy Sơn 張 翠 山 : Thuý là xanh om, Sơn là núi. Thúy Sơn là những rặng núi xanh om cây cỏ.
      - Ân Lê Đình 殷 梨 亭 : Lê là cây Lê, Đình là cái Mái nhà mát, để cho người đi đường, leo núi có chỗ ngồi để nghỉ ngơi. LÊ ĐÌNH 梨 亭 đồng âm (Quan thoại) với LY ĐÌNH 離 亭 là nơi đưa tiễn người đi xa, là cái Đình nơi chia ly.
      - Mạc Thanh Cốc 莫 聲 谷 : Thanh Cốc là Âm thanh trong sơn cốc, là tiếng dội rền vang trong các thung lũng núi.
      Ta thấy :
         Tên hiệu của thầy trò phái Võ Đang có đủ cả các ngọn núi cao (Tam Phong), có những chiếc cầu bắc ngang trên các đường núi xa xa (Viễn Kiều), có những chiếc thuyền hái sen trên các ao sen trên núi (Liên Châu) và các tảng đá lớn hùng vĩ của Tam Thập Lục Nham (Đại Nham) với những rừng thông bên bờ các khe suối (Tùng Khê) và những rặng núi xanh biếc bao quanh (Thúy Sơn) với các trường đình để cho khách lữ hành đưa tiễn hoặc nghỉ ngơi (Lê Đình) và xa xa vọng lại âm thanh của núi rừng hùng vĩ len lỏi qua sơn cốc (Thanh Cốc). Qủa là một bức tranh rừng núi vừa nên thơ vừa hùng tráng!
            
              Trương Tam Phong và Võ Đang Thất Hiệp qua điện ảnh                                                                                         
       Có những cái tên đọc lên là ta biết ngay nghĩa của nó có liên quan đến tính cách đặc điểm  hoặc tâm tư tình cảm của người mang tên đó, như:                                                                                
     - BÌNH NHẤT CHỈ 平 一 指 : Là thầy thuốc nổi tiếng trong truyện Tiếu Ngạo Giang Hồ 笑 傲 江 湖. Ông có ngoại hiệu là Sát Nhân Danh Y 殺 人 名 醫. Sát Nhân là Giết người; Danh Y là Thầy thuốc giỏi. Đọc liền ngoại hiệu và tên họ thành câu :"SÁT NHÂN DANH Y BÌNH NHẤT CHỈ 殺 人 名 醫 平 一 指 (Vì chữ BÌNH 平 là "Bằng", đồng âm với chữ BẰNG 憑 là "Dựa vào") nên câu trên có nghĩa: "Giết người hay chữa bệnh cho người cũng chỉ dựa vào một ngón tay mà thôi". Ý là: Ông ta rất giỏi về võ công và cũng rất giỏi về y thuật, nên chỉ cần một ngón tay là đủ giết chết người khác rồi và cũng chỉ một ngón tay là cũng có thể cứu người bệnh sống lại. Ông lại có lệ là hễ nhận lời cứu sống một người nào đó, thì người đó hay thân nhân của người đó phải nhận lời ông để đi giết chết một người khác theo yêu cầu của ông, hay phải dạy cho ông một tuyệt kỹ võ công nào đó. Đặc biệt, ông người lùn tịt mập ú còn bà vợ thì ốm nhách cao nhồng.
  
     - QUÁCH TƯƠNG 郭 襄 : là Nữ hiệp Quách Tương và là Tổ sư sáng lập ra phái Nga My 峨 嵋 派 sau khi thất tình vì không tìm được Thần Điêu Đại Hiệp Dương Qúa trong truyện "Ỷ Thiên Đồ Long Ký 倚 天 屠 龍 記". Bà là con gái thứ hai của Đại hiệp Quách Tĩnh và Nữ hiệp Hoàng Dung, em gái của Quách Phù, chị sanh đôi của Quách Phá Lỗ, thông minh linh lợi đẹp đẽ, tính tình phóng khoáng, nhưng hành sự nửa chính nửa tà, vì thế mà mọi người đều gọi là TIỂU ĐÔNG TÀ 小 東 邪. Tên TƯƠNG 襄 là do lúc được sinh ra vợ chồng Quách Tĩnh và Hoàng Dung đang giúp quan binh thủ thành Tương Dương 襄 陽 chống lại sự xâm lược của quân Mông cổ.

     - KHA TRẤN ÁC 柯 鎮 惡 : Ông là Lão đại của Giang Nam Thất Quái 江 南 七 怪, vì đôi mắt bị mù nên có ngoại hiệu là Phi Thiên Biển Bức 飛 天 蝙 蝠 (Con Dơi bay trên trời) em của Phi Thiên Thần Long 飛 天 神 龍 Kha Tị Tà 柯 辟 邪. Ông xuất hiện trong cả hai bộ "Xa Điêu Anh Hùng Truyện 射 鵰 英 雄 傳" và "Thần Điêu Hiệp Lữ 神 鵰 俠 侶". Ông là người nóng tính cương trực, xem ác như thù, con người ông được thể hiện qua tên của ông: TRẤN ÁC là "Trấn áp những kẻ gian ác".

    - MỘ DUNG PHỤC 慕 容 復 : xuất thân ở đất Cô Tô (tỉnh Giang Tô), Tham Hợp Trang Yến Tử Ổ, là hậu duệ của nước Yên, thuộc dòng giống Tiên Ti, văn võ song toàn, phong lưu tiêu sái, thông hiểu võ công của nhiều môn phái trong thiên hạ; nổi tiếng ngang hàng với bang chúa Cái Bang "Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung 北 喬 峯,南 慕 容"; nhất là môn Đẩu Chuyển Tinh Di 斗 轉 星 移 lấy gậy ông đập lưng ông, trấn áp quần hùng của 36 động 72 đảo. Tên PHỤC của dòng họ đặt cho là để nhắc nhở luôn luôn phải nhớ nắm lấy thời cơ PHỤC QUỐC.

      - NHẬM NGÃ HÀNH 任 我 行 : NHẬM ở đây có nghĩa là Mặc tình, Mặc sức; nên NHẬM NGÃ HÀNH có nghĩa là: "Mặc tình mà làm theo ý của ta muốn". Điều nầy cũng hợp với tính cách của Nhậm Ngã Hành là một giáo chủ của Ma giáo sắt máu ngang ngược, không nói lý lẽ chỉ biết làm theo ý muốn của mình.                                                                                                                 
                                  
  
Bình Nhất Chỉ    Quách Tương     Kha Trấn Ác     Mộ Dung Phục   Nhậm Ngã Hành                                                  
      - TRƯƠNG VÔ KỴ 張 無 忌 : VÔ KỴ là không có úy kỵ gì cả; cũng có nghĩa là Bách Vô Cấm Kỵ 百 無 禁 忌, một trăm thứ cũng không có thứ nào kỵ cả! Ma giáo, Minh Giáo, Thiên Ưng Giáo, Lục Đại Môm Phái gì gì đều không KỴ ai cả!
      - DƯƠNG BẤT HỐI 楊 不 悔 : BẤT HỐI là không hề hối hận, như là lời xác nhận của Kỷ Hiểu Phù phái Nga My rằng không hề hối hận vì đã lỡ yêu Quang Minh Tả Sứ Dương Tiêu của Minh Giáo. Bản thân Dương Bất Hối cũng bày tỏ mình cũng không hề hối hận khi yêu Lục Hiệp Hân Ly Đình của phái Võ Đang, người đã từng có hôn ước với mẹ mình năm xưa.
      - QUÁCH PHÁ LỖ 郭 破 虜 : PHÁ LỖ là phá giặc. Quách Tĩnh đặt tên cho con trai là Quách Phá Lỗ ý muốn cho con mình khi lớn lên cũng đi phá giặc, chiến đấu chống giặc ngoại xâm như mình vậy.
      - LÝ MẠC SẦU 李 莫 愁 : MẠC SẦU là "Đừng sầu não"; là Đừng buồn, nghe như một lời khuyên cho một người bị tình phụ và cũng giống như là một lời lẫy hờn: Đừng sầu não nữa mà hãy trả thù tình, trả thù đời; nên Lý Mạc Sầu đã ra tay rất tàn độc không những đối với người tình phụ mà còn đối với tất cả những đối đầu với mình.

        Viết đến đây, ta không thể không nhắc đến một câu đối rất hay ho lý thú của một độc giả mê tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung đã dùng tên của bốn nhân vật nêu trên làm nên một câu đối nói về hai sự kiện lịch sử như sau:

         西 安 事 變,張 無 忌,楊 不 悔;  Tây An sự biến, Trương vộ kỵ, Dương bất hối;
         安 史 之 亂,郭 破 虜,李 莫 愁.  An Sử chi loạn, Quách phá lỗ, Lý mạc sầu.
* Chú thích :
    - TÂY AN SỰ BIẾN : là "Sự biến ở Tây An" là cuộc binh biến bắt giữ Tưởng Giới Thạch 蔣 介 石 tại Tây An do TRƯƠNG HỌC LƯƠNG 張 學 良 và DƯƠNG HỔ THÀNH 楊 虎 城 thực hiện, nhằm gây áp lực buộc Tưởng hợp tác với Đảng Cộng sản chống Đế quốc Nhật Bản vào ngày 12 tháng 12 năm 1936, khi Tưởng đến Tây An. Sự biến Tây An gây chấn động thế giới đương thời, nên TRƯƠNG VÔ KỴ trong vế đối có nghĩa là: Trương Học Lương không úy kỵ; và DƯƠNG BẤT HỐI là Dương Hổ Thành không hối hận.
   - AN SỬ CHI LOẠN: là "Sự nổi loạn của hai tướng An Lộc Sơn và Sử Tư Minh ở những năm Thiên Bảo cuối đời Đường Huyền Tông và những năm đầu của Đường Đại Tông (755-763). Sau được tướng QUÁCH TỬ NGHI 郭 子 儀 dẹp yên nên QUÁCH PHÁ LỖ trong vế đối có nghĩa là: Tướng Quách Tử Nghi phá tan giặc loạn An Lộc Sơn và Sử Tư Minh; LÝ MẠC SẦU thì có nghĩa là: Vua họ Lý (nhà Đường) đã thôi không còn lo buồn nữa.
     Câu đối trên có nghĩa :
    * Vế đầu:
        - Sự Biến ở Tây An, Trương Học Lương không úy kỵ và Dương Hổ Thành cũng không hối hận về việc bắt giữ Tưởng Giới Thạch để uy hiếp ông ta thoả hiệp kháng chiến chống Nhật.
    * Vế sau :
        - Cái loạn của An Lộc Sơn và Sử Tư Minh đã được Quách Tử Nghi phá tan, nên dòng họ Lý của nhà Đường khỏi lo rầu nữa.

    Bốn cái tên diễn lại hai sự kiện lịch sử; một xưa một nay rất sống động và lý thú!

         
    Trương Học Lương, Dương Hổ Thành, Tưởng Giới Thạch. An Sử Chi Loạn. Quách Tử Nghi

      Một số tên nhân vật nữ có xuất xứ từ Kinh Thi, Sở Từ, Trang Tử, Luận Ngữ... nên nghe rất nên thơ, lý thú vì đều có gốc từ những điển cố văn học, như:

     - MỘC UYỂN THANH 木 婉 清 : Con riêng của Đoàn Chính Thuần và Tu La Đao Tần Hồng Miên trong Thiên Long Bát Bộ, có xuất xứ từ chương Quốc Phong trong Kinh Thi với bài Dã Hữu Mạn Thảo 野 有 蔓 草 như sau:

            野 有 蔓 草,零 露 瀼 瀼。  
           Dã hữu mạn thảo, Linh lộ nhương nhương. 
            有 美 一 人,婉 如 清 揚。  
           Hữu mỹ nhất nhân, Uyển như thanh dương.   
            邂 逅 相 遇,與 子 偕 臧。   
           Giải cấu tương ngộ, Dữ tử giai tương (tang).

* Có nghĩa :
      Trên cánh đồng hoang cỏ dại mọc lan man xanh mướt phủ đầy những hạt sương lấp lánh của buổi ban mai; Có một người đẹp yểu điệu thanh thoát, tình cờ ta lại được gặp nhau, sánh cùng nhau thì thật là xứng đôi. 

* Diễn Nôm :
                        Đồng hoang cỏ dại mọc đầy,
                 Long lanh sương sớm hây hây má hồng.
                          Ô kià, người đẹp xa trông...
                 Uyển chuyển thanh thoát cho lòng vấn vương.
                         Tình cờ gặp gỡ bèn thương,
                 Cùng ta sánh bước chung đường đẹp đôi.

      Uyển Thanh là cô gái đẹp yểu điệu thanh thoát, nhưng có thân thế như là cỏ dại trên đồng hoang, không biết cha mẹ là ai, chỉ biết có sư phụ mà thôi.

     - CHU CHỈ NHƯỢC 周 芷 若 : là Chưởng môn đời thứ 4 của phái Nga My, là vị hôn thê của Giáo chủ Minh Giáo Trương Vô Kỵ trong "Ỷ Thiên Đồ Long Ký 倚 天 屠 龍 記". Theo sách "Hán Thư", CHỈ là Bạch Chỉ 白 芷; NHƯỢC là Đỗ Nhược 杜 若; là Tên của hai loại cỏ thơm. Thơ của Thi Tiên Lý Bạch cũng có câu:

    始 向 蓬 莱 看 舞 鹤, Thủy hướng Bồng Lai khan vũ hạc,
    还 过 芷 若 听 新 莺.  Hoàn qua Chỉ Nhược thính tân oanh.
     Có nghĩa :
                         Hướng đến Bồng Lai xem hạc múa,
                         Lại qua Chỉ Nhược lắng oanh ca.

     Hướng đến núi Bồng Lai để xem tiên hạc nhảy múa, và lại đi qua đồng cỏ thơm để nghe tiếng chim oanh ca hót, thì CHỈ NHƯỢC quả là một người vừa thơm vừa đẹp như... Tiên.

     - TRÌNH LINH TỐ 程 靈 素 : là nữ đệ tử cuối cùng của Độc Thủ Dược Vương 毒 手 藥 王. Cô thầm yêu Hồ Phi 胡 斐 và cuối cùng hi sinh vì Hồ Phi. Sử dụng độc rất giỏi và nghiên cứu thành công chất kịch độc Thất Tâm Hải Đường 七 心 海 棠 trong Phi Hồ Ngoại Truyện 飛 狐 外 傳. Tên của cô được Kim Dung ghép bởi hai Chương "LINH KHU 靈 樞" và "TỐ VẤN 素 問" trong quyển sách thuốc nổi tiếng từ đời thượng cổ là "Huỳnh Đế Nội Kinh 黄 帝 内 经" nên LINH TỐ là cái tên vừa đẹp, vừa thuần khiết lại vừa... nghe như có vị thuốc ở trong đó !

    - LÝ NGUYÊN CHỈ 李 沅 芷 : là con gái của Đề đốc Lý Khả Tú 李 可 秀, thông minh linh lợi, thích giả trai, yêu Thập Tứ Đương Gia của Hồng Hoa Hội là Kim Địch Tú Tài Dư Ngư Đồng 金 笛 秀 才 餘 魚 同. Cô là nhân vật hư cấu trong "Thư Kiếm Ân Cừu Lục 書 劍 恩 仇 錄". Tên của cô có xuất xư từ bài thơ Tương Phu Nhân 湘 夫 人 trong Cửu Ca của Khuất Nguyên nước Sở, do hai câu:

 沅 有 芷 兮 澧 有 蘭,  NGUYÊN hữu CHỈ hề Lễ hữu Lan,
 思 公 子 兮 未 敢 言。  Tư công tử hề vị cảm ngôn.
     Có nghĩa :
  Sông NGUYÊN có cỏ CHỈ thơm, thì sông Lễ cũng có hoa Lan.
  Nhớ thương chàng công tử, ôi chưa dám thốt nên lời.

                     NGUYÊN có CHỈ, Lễ có Lan,
                 Nhớ chàng công tử vô vàn nói sao?!

      Ôi, tình yêu khó mà mở miệng nói nên lời. LÝ NGUYÊN CHỈ yêu DƯ NGƯ ĐỒNG, nhưng DƯ NGƯ ĐỒNG lại yêu tứ tẩu Uyên Ương Đao LẠC BĂNG 鴛 鴦 刀 駱 冰, mà LẠC BĂNG lại là vợ của Tứ Đương Gia Bôn Lôi Thủ VĂN THÁI LAI 奔 雷 手 文 泰 來...

    - MIÊU NHƯỢC LAN 苗 若 蘭 : Vai nữ chính trong truyện "Tuyết Sơn Phi Hồ 雪 山 飛 狐", con gái của Kim Diện Phật Miêu Nhân Phượng 金 面 佛 苗 人 鳳, là một tiểu thơ khuê các xinh đẹp và là người đính ước chung thân với Hồ Phi. Tên của cô ta được Kim Dung lấy từ bài "Lạc Thần Phú 洛 神 赋" của Tào Thực với câu:

                 含 辭 未 吐,   Hàm từ vị thổ,
                 氣 若 幽 蘭。   Khí nhược u lan.
     Có nghĩa :
                Mở miệng lời chưa kịp nói ra, thì...
                Hơi thơm đã toát ra như hoa lan rồi ! 
      Người đẹp, tên đẹp, hơi thở lại thơm tho như hoa lan vậy. Quả là một mỹ nhân cao qúy sang cả.

     - LÝ THU THỦY 李 秋 水 : là cao thủ của phái Tiêu Dao, sư muội của Thiên Sơn Đồng Lão 天 山 童 姥 và Vô Nhai Tử 无 崖 子, là Vương phi của Quốc Vương Tây Hạ và cũng là bà nội của Ngân Xuyên Công Chúa 银 川 公 主 (Vợ của Hư Trúc Tử 虚 竹 子) trong truyện Thiên Long Bát Bộ 天 龍 八 部. Tên của bà được lấy trong Thiên Thu Thủy của sách Trang Tử 《莊 子· 秋 水 篇》thời Xuân Thu Chiến Quốc:

                 秋 水 時 至,    THU THỦY thời chí,
                 百 川 灌 河.     Bách xuyên quán hà.
      Có nghĩa:
     Khi mùa thu đến thì nước do mưa thu dai dẳng đổ xuống. Nên...
    Làm cho nước của trăm con sông đều rót vào sông Hoàng Hà.

      Ngoài ra còn một số cô có tên như Thanh Thanh, Doanh Doanh, Tố Tố... đều có xuất xứ từ Cổ Thi Thập Cửu Thủ《古 詩十 九 首》như: “Thanh Thanh hà bạn thảo 青 青 河 畔 草”, hay “Doanh Doanh lâu thượng nữ 盈 盈 楼 上 女”, "Tiêm Tiêm xuất Tố Thủ 纖 纖 出 素 手"...
 

       Mộc Uyển Thanh,  Chu Chỉ Nhược,  Trình Linh Tố,  Lý Nguyên Chỉ, Miêu Nhược Lan,  Lý Thu Thủy           

       Một số nhân vật trong truyện võ hiệp của Kim Dung còn có những cái tên hoàn toàn trái ngược với cuộc đời, tính tình, tác phong và hành vi của nhân vật đó như:

     - LÂM BÌNH CHI 林 平 之 : BÌNH CHI là bằng phẳng, là bình thường; nhưng cuộc đời lại chẳng bình thường bằng phẵng tí nào cả. Xuất thân là đại thiếu gia của Phúc Uy Tiêu Cục trong truyện Tiếu Ngạo Giang Hồ 笑 傲 江 湖. Vì "Tịch Tà Kiếm Phổ" mà mang họa diệt môn, cả nhà chết dưới tay của Dư Thương Hải là chưởng môn phái Thanh Thành, lại lọt vào âm mưu sắp xếp của Nhạc Bất Quần nên gia nhập phái Hoa Sơn. Trong lúc cả đoàn thầy trò đi về hướng Phúc Châu, lại bị Nhạc bất Quần ám toán nhưng không chết. Biết rõ âm mưu cướp đoạt bí kíp kiếm phổ của Nhạc Bất Quần, lấy Nhạc Linh San vì muốn nhờ vào đó để bảo toàn tánh mạng. Trả thù Phái Thanh Thành giết Mộc Cao Phong rồi bị mù mắt.  Giết Nhạc Linh San để về phe với Tả Lãnh Thiền giết hại đệ tử của Ngũ Nhạc Phái. Cuối cùng bị Lệnh Hồ Sung cắt đứt hết gân mạch giam dưới địa lao của Mai Trang dưới đáy Tây Hồ.

    - DU THẢN CHI 游 坦 之 : THẢN CHI là rất bình thản, rất phẳng lặng, nhưng cũng như LÂM BÌNH CHI cuộc đời chẳng bình thản phẳng lặng chút nào cả. Xuất thân cũng là thiếu gia của Du Thị Song Hùng ở Tụ Hiền Trang trong truyện Thiên Long Bát Bộ 天 龍 八 部. Vì muốn tìm Kiều (Tiêu) Phong để báo thù mà gặp phải A Tử. Rồi mê A Tử đến độ để cho nàng ta mặc sức ngược đãi, chồng cả cái đầu bằng sắt lên mặt và gọi là Thiết Sửu. Nhân cách chẳng ra gì, lại nhu nhược hèn yếu, cơ may đưa đến học được tuyệt kỹ của Dịch Cân Kinh, trở thành cao thủ về nội công. Từng bái Đinh Xuân Thu làm sư phụ. Bị Toàn Quán Thanh lợi dụng đưa vào làm Bang Chủ Cái Bang. Cam tâm tình nguyện móc mắt cho A Tử. Cuối cùng cùng A Tử nhảy xuống vực sâu ngoài Nhạn Môn Quan tự tử.

    - ĐIỀN QUY NÔNG 田 歸 農 : QUY NÔNG là về với nhà nông cao khiết như Đào Uyên Minh đời Tấn. Điền Quy Nông chẳng những không Quy nông mà còn Nhập thế làm hết chuyện ác nầy đến chuyện ác khác. Là vai phản diện trong Phi Hồ Ngoại Truyện 飛 狐 外 傳, trong Tuyết Sơn Phi Hồ 雪 山 飛 狐 là kẻ bày kế ám hại hai đại hiệp Hồ Nhất Đao và Miêu Nhân Phượng. Dụ dỗ vợ của Miêu Nhân Phương là Nam Lan, mưu đồ chiếm đoạt bản đồ châu báu. Cấu kết với triều đình để đối phó với Miêu Nhân Phượng. Cuối cùng đành phải nhục nhã tự sát khi được Miêu Nhân Phượng tha không giết.

    - NHẠC BẤT QUẦN 岳 不 群 : Chưởng môn phái Hoa Sơn, sư phụ của Lệnh Hồ Sung, có ngoại hiệu là Quân Tử Kiếm trong truyện Tiếu Ngạo Giang Hồ 笑 傲 江 湖. BẤT QUẦN là "Không giống như quần chúng bình thường". Với dáng vẻ đạo mạo nghiêm trang, đi đứng chửng chạc phải điệu là tôn sư của một phái trong Ngũ Nhạc Kiếm Phái. Võ lâm đồng đạo chỉ nhìn bề ngoài nên đánh giá nhầm mới xưng tụng ông là Quân Tử Kiếm. Nhạc Bất Quần chỉ vì âm mưu muốn đoạt Tịch Tà Kiếm Phổ, mà khai trừ đồ đệ Lệnh Hồ Sung ra khỏi phái Hoa Sơn. Muốn giết hại Lâm Bình Chi. Tự cung (thiến) để luyện Tịch Tà Kiếm Pháp, dã tâm cùng với Tả Lãnh Thiền thôn tính võ lâm. Cuối cùng chết dưới kiếm của Nghi Lâm khi muốn giết Lệnh Hồ Sung.
 Người mang tên QUÂN TỬ KIẾM rốt cuộc lại là một NGỤY QUÂN TỬ và đến cuối truyện đọc giả mới vỡ lẽ ra, chứ khi đặt tên NHẠC BẤT QUẦN cho chưởng môn phái Hoa Sơn, Kim Dung đã ngầm cho ta biết đó là một NGỤY QUÂN TỬ rồi. 
     Theo chương Vệ Linh Công sách Luận Ngữ《論 語· 衛 靈 公》Khổng Tử có nói rằng: 
“Quân Tử quần nhi bất đảng, Tiểu Nhân đảng nhi Bất Quần 君 子 群 而 不 黨,小 人 黨 而 不 群”. có nghĩa: "Người quân tử thì tập họp quần chúng để hợp quần gây sức mạnh; còn kẻ tiểu nhân tu tập phe đảng với nhau chớ không chịu hợp quần với tập thể"; nên câu "TIỂU NHÂN đảng nhi BẤT QUẦN" thì BẤT QUẦN là TIỂU NHÂN, nên tên NHẠC BẤT QUẦN tự nó đã hàm ý là TIỂU NHÂN rồi! Đây là Kim Dung đang chơi chữ, mà người đọc phải có kiến thức và tinh ý lắm mới biết được BẤT QUẦN là TIỂU NHÂN, là NGỤY QUÂN TỬ!
     Nhân vật NHẠC BẤT QUẦN trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung đã hòa nhập vào đời sống của cư dân Sài Gòn và Miền Nam khoảng thập niên 1970. Hễ người nào có hành vi giả dối hoặc làm bộ ra vẻ người tốt, thì bạn bè và người xung quanh sẽ đánh giá ngay:
           - Làm cái điệu của Nhạc Bất Quần !
           - Đồ cái thằng cha Nhạc Bất Quần !
           - Ối ! Thứ cái đồ Nhạc Bất Quần !...
        

         
 Lâm Bình Chi     Du Thản Chi     Điền Quy Nông     Nhạc Bất Quần
 
      Tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung lại hàm chứa những giáo lý về Phật pháp rất cao xa huyền diệu; Ngay cả cách đặt tên cho nhân vật cũng vậy. Không kể tên của các bậc chân tu hay cao tăng chùa Thiếu Lâm, chỉ đơn cử 3 tên của 3 nhân vật chính trong truyện Thiên Long Bát Bộ là Đoàn Dự 段 譽, Hư Trúc 虚 竹 và Kiều Phong 喬 峰.

    - DỰ 譽 là Danh Dự, là Khen ngợi, là Tiếng tốt; là Hư danh.
    - HƯ 虚 là Trống, rổng, không có thực; là Không.
    - KIỀU 喬 là Cao, là Giả dạng, là Cải trang, là không thực, 

      Tên của ba nhân vật nêu trên đều có ngụ ý là "Danh tướng phi chân tướng 名 相 非 真 相: của nhà Phật có nghĩa: Cái tên thấy đó mà không phải thật như thế đó. "Sắc" đó rồi cũng "Không" đó. Cái DANH DỰ là cái tên gọi, là cái HƯ DANH, có đó nhưng như không có. Ta thấy nó ứng vào vận mệnh của các nhân vật như:

    - Đoàn Dự, thực chất là một Nho sinh nhưng lại có tấm lòng của con Phật. Làm vua là nhập thế theo đạo Nho nhưng lại có lòng từ bi hỉ xả của một bồ tát.

    - Hư Trúc, sanh ra và lớn lên trong đất Phật, đã có sẵn lòng từ bi của con Phật, nhưng lại là Chưởng môn nhân của một môn phái thuộc Đạo Gia.

    - Kiều Phong : là Không thực, vì ông vốn họ Tiêu. Ông không thuộc Phật gia, cũng không thuộc Đạo gia, nhưng hành xử thì an bang tế thế theo kiểu Nho gia.
      Câu truyện giữa ba nhân vật chính nầy là những hòa quyện kết hợp chặc chẽ của Tam giáo đồng nguyên giữa NHO-THÍCH-ĐẠO đã hòa vào đời sống của dân gian mấy ngàn năm nay rồi.
            

            Hẹn bài viết tới !

                                                             杜 紹 德
                                                          Đỗ Chiêu Đức









Không có nhận xét nào: