Từ An Thới qua Hòn Đốc
Hạm trưởng Võ Bằng rời Phòng Tình Hình Bộ Tư Lệnh Vùng, về đến chiến hạm liền cho lệnh họp sĩ quan.
Mười phút sau, anh bước vào phòng họp. Tất cả đứng nghiêm. Anh ra hiệu “ngồi”.
Cố vấn Mỹ mỉm cười:
– Good morning, Captain! Have good day.
– Cám ơn. You too.
Võ Bằng nhìn quanh các sĩ quan, giọng bình thản, dứt khoát:
– Như cũ, công tác tám ngày, nghỉ bến hai. Lần này, trục Bắc đảo – Quần đảo Hải Tặc. Tàu mình từng hoạt động tuyến này chưa?
Mọi người hoặc lắc đầu, hoặc im lặng. Hạm phó lên tiếng:
– Thưa Hạm trưởng, theo tôi biết thì chưa.
– Tôi cũng vậy. Ngẫm nghĩ cũng khá thú vị! Chuyến đầu tiên với tư cách Hạm trưởng lãnh ngay cú… ngựa phi đường xa, từ Mũi Ông Đội cực Nam đến Mũi Trâu Nằm cực Bắc. Tôi tuổi Sửu chớ có là … ngựa đâu!
Tiếng cười rộ nhẹ. Cố vấn Mỹ ngơ ngác, Võ Bằng đành dịch lại, rồi tiếp:
– Phú Quốc cách Hà Tiên khoảng 70 cây số. Quần đảo Hải Tặc cách Hà Tiên chừng một phần ba. Năm 64 tôi từng lên Hòn Đốc khi còn phục vụ trên hải vận hạm. Đảo cát trắng sạch, cây rậm rạp, dân chài khoảng trăm người. Một cụ già dẫn tôi xem mốc chủ quyền – khắc chữ “VIỆT NAM CỘNG HÒA – QUẦN ĐẢO HẢI TẶC”, dưới có hình hai mỏ neo gác chéo. Trên bệ đá, ghi tên 16 đảo, trong đó có Kèo Ngựa, Kiến Vàng, được đặt tên cho hai Tuần duyên hạm.
Anh quay sang cố vấn Mỹ:
– Do you know “Pirate Islands”?
– No, sir.
Vừa dịch xong thì Thiếu úy Ngô Quang hỏi:
– Thưa Hạm trưởng, tên Hải Tặc nghe rùng rợn. Có hải tặc thật sao?
– Ngày xưa, có. Ông bà ta thường đặt tên theo sự kiện. Như đất nền cao ở Mỹ Tho trồng toàn dứa nên đặt Giồng Dứa. Hay vùng sông đóng nhiều bè nên đặt Nhà Bè. Quần đảo Hải Tặc xưa là nơi hải tặc ẩn trú. Nay thì không còn. Nhưng thay vào đó, là cộng tặc — và chúng thích hành động ban đêm.
Võ Bằng mở bao thơ đóng dấu MẬT. Mắt lướt quanh bàn họp. Trong lễ bàn giao, các sĩ quan đã xưng tên, chức vụ — nhưng anh chỉ nhớ vài người.
– Sĩ quan Truyền tin? — Anh gọi.
Một người giơ tay. Võ Bằng nhìn bảng tên “Bùi Anh Tuấn”, đưa xấp tài liệu:
– Đây là đặc lệnh truyền tin. Chuẩn bị sẵn tần số liên lạc với hai Tuần duyên đỉnh, hai Chiến thuyền, và Đài kiểm báo 402 trên đảo Hòn Đốc.
Anh lại lướt qua từng người:
– Hải hành?
– Thưa tôi, Trung úy Đặng Thành Tài.
– Anh kẻ hải trình từ đây đến Quần đảo Hải Tặc. Thận trọng tránh khá xa bãi cạn, đá ngầm. Tôi cần đường an toàn, không cần nhanh nhất.
Rồi quay sang Hạm phó:
– Tình trạng kỹ thuật tàu đã kiểm soát chưa? Súng? Đạn? Xuồng? Phao nổi?
– Đã kiểm tra. Tất cả khiển dụng, đầy đủ, thưa Hạm trưởng.
– Tốt.
Anh nhìn sang Sĩ quan An ninh:
– Có ai lạ trà trộn? Tàu này có thể tin cậy chứ?
– Thưa Hạm trưởng, trăm phần trăm. Không có ai đáng nghi ngờ.
Thiếu úy Dương Công Đức – phụ trách ẩm thực – nhăn mặt:
– Về thực phẩm… An Thới quá thiếu rau thịt trái cây. Trước đây, cựu Hạm trưởng cho tàu đi chợ Hà Tiên hoặc Rạch Giá. Hiện tại, lương thực chỉ đủ ba ngày.
Võ Bằng gật đầu:
– Đồng ý. Nếu kẹt hành quân, ta ăn cá tôm cua mua từ ngư dân.
Người cười, người lắc đầu. Võ Bằng quay sang cố vấn:
– Anh hiểu chứ?
– Not all. Something about eating crab?
– Exactly. When rations are low, we look for fisherman.
Tiếng cười rộ lên. Võ Bằng nhìn sang sĩ quan cơ điện:
– Nhiên liệu tàu?
– Hầm dầu đầy, thưa Hạm trưởng.
– Tốt.
Võ Bằng đứng dậy:
– Cho tập họp tất cả. Tôi cần nói đôi lời.
Tiếng còi tập họp nổi lên. Các sĩ quan rời phòng, lên boong chính. Trên đường đi, anh dặn dò cố vấn Graham sẵn sàng không yểm khi cần.
Ít phút sau, Võ Bằng đứng trước hàng quân chỉnh tề:
– Anh em Trợ Chiến Hạm Rạch Gầm. Đây là tàu của chúng ta. Là nhà, là pháo đài, là chốn sống chết. Chúng ta ăn, ngủ, hành quân cùng nó. Vì thế, mọi người đều có trách nhiệm.
Giọng anh trầm xuống:
– Tôi mong mỗi người mang hết khả năng hải nghiệp của mình để hoàn thành mỹ mãn công tác. Mọi sáng kiến cải tiến đều được hoan nghênh. Tôi đặt trọn niềm tin vào anh em.
Võ Bằng dứt lời. Cả boong tàu lặng như tờ. Rồi nở ra những nụ cười mỉm, tự hào. Lệnh giải tán được ban ra.
Năm phút sau — còi nhiệm sở vận chuyển vang lên…
***
Đứng bên hữu mạn đài chỉ huy, Võ Bằng lặng nhìn khối sắt khổng lồ rời cầu, lướt nhẹ qua từng lượn sóng nhịp nhàng thư thả tiến ra khơi.
Anh tựa tay lên thành thép mới sơn, thở nhẹ. Gió đầu mùa Đông Bắc mơn man khuôn mặt, mang theo mùi mặn dịu dàng của biển khơi. Trời cao, nước biếc đón mừng tân Hạm trưởng.
Anh bước chậm tới chiếc ghế dành riêng cho mình, thả lỏng người. Một làn hơi ấm chạy khắp sống lưng. Nhẹ nhõm. Mọi xui rủi đã lùi lại phía sau. Ước mơ ngày xưa giờ đây đã là thực tại.
Một ngày nào đó, anh sẽ về quê Đa Phước khoe với ba mẹ rằng thằng con đi học Sài Gòn, ngày ngày cuốc bộ đến trường, không tiền về quê nghỉ hè, phải mò xuống bến chợ Bình Tây xin quá giang ghe chài và chỉ dám mơ ngày được làm tài công, mà nay nó ngồi ở ghế chỉ huy một chiến hạm Hải quân.
Võ Bằng nhất định mời cho được ba mẹ lên Sài Gòn thăm viếng, nhìn tận mắt chiếc trợ chiến hạm. Anh không tưởng tượng được niềm hãnh diện của ba mẹ ra sao!
Đồng hồ chỉ đúng 10 giờ. Máy tiến 3. Tốc độ 10 hải lý. Phiên trực đầu tiên của Chi đội 1. Trung úy Đỗ Văn Lũy đứng phiên, bên mạn tả. Ba người luân phiên giữ tay lái, hai quan sát viên ở vị trí. Radar và máy đo độ sâu đang hoạt động tốt.
Chiến hạm lướt qua Hòn Rơi, đổi hướng 090 độ, cắt ngang Hòn Dăm Ngoài. Rồi rẽ lên 045, hướng về Mũi Ông Đội — điểm cực nam Phú Quốc. Nơi đó, năm xưa, anh từng chứng kiến một tai nạn lật ghe: biển lặng, trời quang, vậy mà một đợt sóng đột ngột dội vào, ghe lật úp, chìm luôn, ba ngư dân suýt mất mạng, nếu tàu không kịp cứu.
Chiến hạm không sợ sóng, chỉ ngại rạn san hô lờ mờ như bóng ma rình rập. Hải trình đã kẻ tránh chúng, nhưng chẳng bao giờ được chủ quan. Anh đang ở vào vị trí không còn ai để chia sẻ quyết định, không còn lý do để quy lỗi về người nào khác.
Trên hải đồ, dòng chảy ngầm đã hiển lộ. Gió mùa Đông Bắc chính thức bắt đầu. Võ Bằng quay sang sĩ quan trực phiên:
– Nếu không có biến cố, ba tiếng nữa sẽ đến Hải Tặc. Tức khoảng 2 giờ chiều. Kiểm soát tọa độ mỗi 15 phút. Nhớ, các anh sai, tôi mất chức đã đành, thậm chí tính mạng cả tàu lãnh đủ. Hãy luôn nhớ: một hải trình êm đềm, chỉ trên… hải đồ!
Chợt nhớ kinh nghiệm nội tuyến, anh hỏi Hạm phó:
– Lâu rồi không thực tập phòng tai?
– Dạ, khoảng ba tháng.
– Vậy rất nên thực tập. Anh cho báo động giả định “cháy ở hầm máy, chạm điện”.
– Rõ. Thưa Hạm trưởng.
Hạm phó rời đài chỉ huy. Vài phút sau — chuông khẩn cấp vang lên dồn dập, xé toạc trưa yên ả. Loa nội bộ vang tiếng Hạm phó:
“CHÁY HẦM MÁY! CHÁY HẦM MÁY! Toán 1 – vòi chữa lửa, tiếp cận cửa hầm!”
Cả chiến hạm chuyển động. Nhân viên chạy ào về sân trước – sân giữa. Tiếng bước chân rầm rập vang khắp tàu. Giọng Hạm phó gấp gáp:
– Báo cáo Hạm trưởng có tiếng nổ ở máy chính! Dầu cặn trào ra, lửa bốc cao, khói dày đặc. Hai nhân viên cơ khí đã khóa các van nhiên liệu. Lửa hạ rồi lại bùng lên ở bảng điện. Có tia lửa tóe mạnh.
Võ Bằng cầm ống loa:
“Toán 2. Mặc áo cứu hỏa, đeo mặt nạ dưỡng khí. Xuống hầm máy! Thi hành ngay!”
– Xin Hạm trưởng báo cho họ biết máy điện tắt, cầu thang, sàn trơn trợt, phải hết sức cẩn thận. Có hai nhân viên bất tỉnh, xin cho toán cấp cứu.
Một lúc sau, Hạm phó gọi lên:
– Toán 2 đã mở van CO₂. Khí trắng đục đang phun từ trần xuống. Nhân viên đã rút ra. Cửa hầm đã khóa kín.
Trên boong, hạ sĩ y tá đang ép ngực hồi sinh cho một thủy thủ bất tỉnh. Một người khác nằm quấn chăn cách nhiệt.
– Vị trí chiến hạm? – Võ Bằng hỏi.
Sĩ quan trực phiên đáp nhanh:
– Nằm trên hải trình. Cách Hòn Đốc 18 hải lý.
Võ Bằng gật đầu, rồi xuống boong quan sát trực tiếp việc cứu thương. Ngực người lính trẻ phập phồng. Mắt anh hé. Tiếng thở hắt ra.
Võ Bằng gật đầu hài lòng. Sĩ quan và nhân viên đã có phản ứng nhanh chóng và đúng bài bản. Anh ban lệnh:
– Giải tán nhiệm sở phòng tai.
Loa nội bộ vang lệnh chấm dứt báo động. Trên tàu, nhịp sinh hoạt dần trở lại. Nhưng mọi ánh mắt đều rạng rỡ – vì họ biết: trong tình huống thật, họ đã sẵn sàng.
***
Bữa cơm trưa diễn ra giản dị. Món ăn không nhiều, nhưng ai cũng vui nhất là sau một cuộc thực tập vất vả, thành công. Qua các câu chuyện trao đổi trong bữa ăn, Võ Bằng hiểu phần nào tính tình các sĩ quan. Và rất tình cờ, chưa ai lập gia đình.
Còn mệt mỏi, anh sớm rời bàn về phòng riêng. Phòng hẹp nhưng tiện nghi: tủ đứng, bàn rộng, bồn rửa mặt, phòng tắm nhỏ. Tàu chiến mà như tổ ấm. Anh mở ba lô. Lấy ra khung ảnh mẹ và con, đặt lên mặt bàn. Nhẹ tay, như đang nâng niu. Hai bộ pyjama ở tầng trên. Giữa: ba bộ quân phục, hai xanh, một trắng. Đôi giày trắng đặt ngay ngắn ở tầng cuối. Dao cạo râu, bàn chải, xà bông Dove, kem đánh răng đã dùng đêm qua. Mọi thứ đều đơn giản cho chuyến đi xa nhớ đời. Chuyến đi bất ngờ nhưng đủ cho anh thấy mình… sống thực, đáng sống.
Anh buông người xuống giường với nguyên cả bộ quân phục đang mặc. Lưng chạm nệm, mắt chạm trần, đầu óc lướt qua hai ngày đi – đứng – nói – họp … Thêm trò chuyện với cựu Hạm trưởng tới gần sáng. Người anh mỏi đừ, mắt từ từ khép lại bằng dáng hình tiên nữ…
13 giờ 15. Võ Bằng choàng dậy. Mắt nhòe, nhưng bên tai là tiếng máy đều đều. Anh lắng nghe thêm: vẫn là âm thanh của vận tốc đường trường. Tàu êm như đang trong sông. Anh vào phòng tắm rửa mặt, chỉnh quân phục. Rồi lên đài chỉ huy…
Võ Bằng bước vào, sĩ quan trực hô lớn: “Nghiêm!”. Anh phất tay: “Nghỉ!”
Rồi đứng cạnh thành đài hữu hạm. Buổi trưa thật đẹp: trời cao, gió nhẹ, nắng ấm. Vài sợi mây trắng lặng lờ trôi. Hạm phó đứng cạnh, nói:
– Trời đẹp quá, thưa Hạm trưởng.
– Cổ nhân có nói: “Trời yên, biển lặng thường là dấu hiệu của biển sắp động mạnh.”
Anh nói mà bâng khuâng. Hai năm ở bờ, liệu thân thể anh còn quen sóng gió. Anh nâng ống dòm. Hòn Đốc đang lờ mờ hiện. Mười sáu đảo nhỏ còn ẩn đâu đó. Anh nhìn các bãi cạn trên hải đồ. Rồi nhìn xuống biển. Nước trong vắt. Những rạn san hô xa xa như những vết loang mực màu.
Anh nghiêng đầu:
– Báo chiều sâu khi có thay đổi.
– Rõ, thưa Hạm trưởng.
Tuần phòng vùng này, Võ Bằng ngại nhất là các bãi cạn và hai đảo chìm. Nhưng có lo thì cũng chẳng thể ôm đài chỉ huy 24/24. Chỉ việc nghe lời cụ Nguyễn Hiến Lê quẳng gánh lo đi và vui sống. Anh đặt hết niềm tin vào các sĩ quan. Họ đều tỏ ra linh hoạt, hiểu biết, hy vọng không phạm các sai lầm … không thể tha thứ! Ai cũng có thể sai lầm. Chính những sai lầm mới giúp họ trở thành một Hạm trưởng bản lãnh.
Võ Bằng hỏi sĩ quan đương phiên:
– Trung úy Tuấn từng công tác vùng này chưa?
– Thưa Hạm trưởng, lần đầu. (bỏ)
– Anh xuống tàu này bao lâu rồi?
– Dạ, mới một tháng.
– Đơn vị cũ?
– Giang đoàn 75 Thủy bộ.
– À, sông Cái Lớn – Cái Bé! Tôi nghe danh, chưa từng ghé qua. Đơn vị anh và Giang đoàn 74 đánh đấm ác liệt. Hết sông Cái Bé đến Trèm Trẹm. Tôi đọc báo cáo mỗi ngày.
Tuấn trố mắt nhìn Hạm trưởng. Anh cười:
– Tôi đến từ Trung Tâm Hành Quân Bộ Tư Lệnh.
Tuấn nhìn quanh rồi rụt rè:
– Nhà ba má tôi ở sông Cái Lớn. Nếu mai mốt tàu công tác vùng Rạch Giá… xin mời Hạm trưởng ghé nhà… nhậu.
Võ Bằng bật cười:
– Tôi ghé để thăm hai bác. Nhậu là không có tôi.
– Dạ… thì không nhậu!
Hạm phó lên tiếng:
– Thưa Hạm trưởng, có phải phu nhân là người ngồi cạnh Hạm trưởng đêm qua?
Võ Bằng lại bật cười:
– Dựa vào đâu mà anh có ý tưởng như vậy?
– Thì thấy nói cười thân mật.
– Hễ các cô nói cười thân mật là vợ sao?
– Chúng tôi muốn biết để chào kính cho đúng phép.
– À! Tôi chưa vợ. Đêm qua, chỉ vì lịch sự mà phải bám trụ thôi. Ngoài đời, cô nào càng đẹp tôi càng tránh xa.
Hạm phó mỉm cười:
– Coi bộ đúng câu nói của cổ nhân.
– Cổ nhân nói gì?
– Thưa Hạm trưởng, cổ nhân hiếm khi nói sai: “Ghét của nào, Trời trao của nấy!”
Tiếng cười lan nhẹ trên đài chỉ huy. Võ Bằng đứng lặng một lúc lâu. Tàu đang lướt gần một đảo thấp. Trơ đá, trơ cây. Nước xanh đến độ nhìn thấy đáy. San hô đủ sắc màu. Và rồi… hình ảnh Huỳnh Như Oanh lại hiện ra như hồn biển hóa thân, một thủy thần tuyệt sắc.
Cơ duyên nào đã đẩy đưa nàng đến ngồi cạnh anh đêm qua, cười nói như quen nhau từ tiền kiếp? Dù nàng là bào muội của Tư lệnh phu nhân, nàng vẫn bí ẩn đến… phiền lòng. Nàng chưa thực sự thuộc về ai. Sắp thôi, nhưng đủ là lý do để nàng hiện diện nơi khỉ ho cò gáy này? Đại huynh nào ở đây được cái may mắn trời cho?
Võ Bằng chợt nhận ra mình lẩm cẩm. Đã dứt khoát tránh né mọi giai nhân mà cứ ngẩn ngơ, thắc mắc…
– Trình Hạm trưởng có công điện thượng khẩn.
Võ Bằng quay người. Anh vô tuyến bước tới trao mảnh giấy. Đọc xong, anh trầm giọng:
– Có công ăn việc làm rồi. Báo hầm máy, hai máy tiến Full.
(còn tiếp)
Vũ Thất